Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Khe Sanh - II
Kiều công Cự chuyển ngữ
Phần 2
KHE SANH
Đại tá Joseph H. ALEXANDER
. . . . ..
TQLC đã dùng toàn bộ hỏa lực bắn thẳng như súng không giật 57 ly, 90 ly và 106 ly gắn trên chiến xa, trực xạ vào chốt kiềng của địch. Trận đánh trong thành phố vô cùng tàn bạo và khốc liệt. Địch bị quét sạch ở bờ nam sông Hương. Tiểu đoàn 3/5 của Tr/tá Robert Thompson được trực thăng vận lên mặt bắc thành phố tiêu diệt toàn bộ chỉ huy của địch. Một sự phối hợp rất nhịp nhàng khi TQLC Mỹ bên trái, SĐ1BB VN ở giữa và TQLC /VN bên phải. Tất cả đồng loạt tiến lên. QBV chống trả quyết liệt, cố bám lấy những hầm hố từ những bức tường trên cao. Lực lượng Đồng minh dùng hỏa lực áp sát bức tường. Nhiều nơi trong thành phố bị tàn phá nặng nề. Ngày 22/2 bức tường phía đông nam đã rơi vào tay TQLC Mỹ. Họ bắt tay với TQLC VN mở cuộc tấn công cuối cùng vào Hoàng cung.
Bình minh ngày 24/2, những chiến sĩ của SĐ1 BB đã kéo lá cờ VNCH lên trên kỳ đài Huế. Một tuần lễ truy quét đối phương trước khi Mặt trận Huế được tuyên bố kết thúc. Trận đánh kéo dài đã gây cho TQLC Mỹ 142 chết và gần 1.000 bị thương. Trong những ngày chiếm đóng và trước khi rút đi, QBV và VC đã tàn sát và chôn sống một số lớn người dân vô tội. Người ta gọi đó là trận thảm sát Tết Mậu thân (The 68 massacre at Hue).
Trận đánh vào dịp Tết làm cho dân chúng Hoa kỳ bàng hoàng. Mặc dầu chính quyền của TT Johnson và các cấp chỉ huy quân sự có vẽ lạc quan, nhưng mọi người đều thấy lời hứa hẹn kết thúc cuộc chiến VN không đơn giản. Đồng ý QBV và VC không đạt được mục đích quân sự và kêu gọi người dân miền Nam nổi dậy, nhưng cuộc tấn công đồng lọat và trực diện, chứng tỏ đối phương không hẳn ở tư thế bị tiêu diệt.
Còn điều quỉ quái gì xảy ra ở Khe sanh đây?
Tướng Westmoreland cho rằng những trận đánh của CS trong dịp Tết chỉ là sự bắt đầu một loạt những hành động kế tiếp tại Khe sanh và những tiền đồn khác tại vùng phi quân sự. Ông kêu gọi Chủ tịch Ủy ban tham mưu hổn hợp, tướng Wheeler tăng thêm quân. Và Ông đã nhận được thêm Lữ đoàn 27 TQLC và một Lữ đoàn Dù từ Hoa kỳ chuyển tớí.
Nhưng khối lượng quân bộ chiến dự trữ không phải là vô hạn. Cũng như sự kiên nhẩn của người dân Hoa kỳ. Khi Westy yêu cầu tăng lên 206.000 quân cho chiến trường VN thì phải xem đó là mức ấn định sau cùng. Điều đòi hỏi của Ông đến vào lúc số thương vong của quân Mỹ tăng lên 500 cho mỗi tuần lễ. Từ con số 144 cho năm 1965 bây giờ đã tăng lên 48.000 người, số tử vong cao nhất từ Thế chiến thứ 2.
Trong vòng một tháng bao nhiêu rối rắm đã xảy ra. Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara từ chức, hay nói đúng hơn, Ông đã từ bỏ nhiệm sở vào một thời điểm chẳng thích hợp chút nào. Sự kiện này đồng nghĩa với điều Ông tự ý quay lưng với những công việc mà Ông hoàn toàn đắc ý lúc ban đầu. Tổng thống Johnson cũng thay thế tướng Westmoreland bằng vị phó của Ông là tướng Creighton Abrams. Ông đòi hỏi đẩy mạnh Hòa đàm Paris và tuyên bố không tham dự cuộc tranh cử Tổng thống trong nhiệm kỳ tới. Phó Tổng thống Hubert Humphrey thay thế với một đường lối không mấy rõ ràng về cuộc chiến tại VN. Cựu Phó TT Richard Nixon nhận lãnh trách nhiệm tại Toà Bạch Ốc với nhiều chung cuộc bi thảm cho Ông và miền nam VN mà nhiều vị Tổng thống Mỹ tiền nhiệm đã cưu mang. Có thể nói ảnh hưởng của trận tấn công vào dịp Têt Mậu thân không phải là đơn giản.
Trong suốt thời gian đó vùng trách nhiệm của Đ/tá Lownds cũng như những căn cứ của quân đội Mỹ trên toàn miền Nam đều không bị tấn công và hoàn toàn yên tỉnh. Và người Mỹ cũng không có một phản ứng nào trong ba ngày hưu chiến mà họ tôn trọng. Điều này gây sự hiểu lầm không ít về phía Đồng minh của họ.
Cuộc chiến đã trở lại với Lữ đoàn 26 trước rạng sáng ngày 5/2. Những sensors điện tử rãi dọc theo đường tiến sát bắt đầu báo động liên tục về mức độ chuyển quân của CS. Đại tá Lownds và những Sĩ quan quân báo của Ông đã xác nhận những vùng xâm nhập và lập tức tung ra một đợt tập trung hỏa lực ‘target on time’ bằng 500 khẩu pháo binh và súng cối. Trong một tiếng đồng hồ họ yên trí địch đã bị tê liệt. Nhưng đạn cối của QBV bắt đầu ‘ho’ và đồi 861 bị tấn công tràn ngập. Một lần nữa đặc công của chúng đã phá được những vòng kẽm gai và quân bộ chiến theo sau tấn công cường tập. Đaị đội E của Tiểu đoàn 2/26 bị rối loạn. Những xạ thủ TQLC bị đánh bật ra khỏi vị trí phòng thủ bằng B40, B41 và lựu đạn chày. Đ/U Earl Breeding ra lệnh cho thành phần còn lại rút vào tuyến phòng thủ thứ hai. Một mệnh lệnh kế tiếp được thi hành tức khắc. Mang mặt nạ vào và xử dụng hơi ngạt. Cả một vùng đồi dầy đặc một màn sương khói. Tuy không giết chết tức khắc nhưng có tác dụng gây mê trong một khoảng thời gian cần thiết. QBV còn đang lục lạo những thức ăn, những tư trang, có tên còn đang cầm quyển Playboy. Chúng bật ra gần như chết ngạt. Thật là một khoãng thời gian chết chóc, những người lính của Breeding tung hoành hò hét giữa đám khói mù. Lưỡi lê, báng súng, dao đi rừng, cả nắm đấm cũng được xử dụng. Đám QBV bị những người lính TQLC tàn sát một cách tận tình để trả thù cho những người bạn đã nằm xuống. Nhất định không bỏ sót một tên nào hết. Xác của chúng trên chiến hào, trên hàng rào kẽm gai, trong những vũng bùn lầy nước đọng. <
Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng, những người lính của Đ/U Dabney trên ngọn đồi 881 Nam đã yểm trợ cho quân bạn một cách hửu hiệu. Họ đã xử dụng súng không giật 106, súng phóng lựu M79, đại liên M60 tác xạ mãnh liệt vào QBV đang tìm cách rút lui khỏi ngọn đồi 861. Breeding đã mất 40 người, nhưng có ít nhất trên 150 xác QBV trên hàng rào kẽm gai, trong giao thông hào và chung quanh chu vi phòng thủ. Đó là chưa kể những tử thi nằm dưới triền đồi do quân của Dabney tàn sát. Những khẩu pháo từ Camp Carroll bắn đuổi theo những vị trí khả nghi.
Hai đêm sau, QBV mở cuộc tấn công trả thù. Lần này là trại lực lượng đặc biệt Mỹ và dân sự chiến đấu, đa số là người dân tộc Bru. Đồn biên phòng Làng Vey ở cách Khe sanh năm dặm về phía tây, sát biên giới Lào. Chúng điều động 9 xe thiết giáp PT76 và T54 do Liên sô chế tạo, có gắn súng phun lửa, khoãng một tiểu đoàn quân bộ chiến theo sau. Xe tăng đã cán lên hàng rào kẽm gai, và những vòi lửa từ thiết giáp là những gì khủng khiếp nhất đối với quân trú phòng. Trại đã bị tràn ngập. Những người sống sót đã băng qua những lằn đạn của các tiền đồn rãi rác trong vùng. Chúng dùng chiến thuật "công đồn đã viện" để dụ quân Mỹ vào bẩy.
Pháo binh TQLC ở Khe sanh mở cuộc hỏa yểm tức khắc. Một giờ sau vị Sĩ quan chỉ huy đồn biên phòng yêu cầu Pháo binh bắn hủy diệt. Pháo binh/TQLC đã bắn đạn nổ chụp trên mục tiêu. Một cơn mưa thép và lửa đổ xuống. Một hiệu thính viên đã la lên bằng bạch văn trong máy: "Chúng tôi không biết các Anh đã làm gì, nhưng quả thật Chúa đã gìn giữ chúng tôi. Các Anh cứ tiếp tục đi!"
Đại tá Lownds đã phải đối diện với một quyết định. Phải gởi một đơn vị đến tiếp cứu và tiếp đón những người còn sống sót. Dĩ nhiên là Ông biết sẽ rơi vào cái bẩy "công đồn đã viện" của địch. Quân của Ông sẽ rơi vào ổ phục kích nếu đi dọc theo con đường số 9 về phía tây. Cách hay nhất là đi vòng, bên hông địch. QBV có thể xử dụng tank nếu phát giác được cánh quân? Chắc chắn là không. Bọn họ sẽ không bao giờ cho phép xử dụng tank giữa ban ngày. Và Ông đã quyết định gởi một đại đội khinh binh theo phương giác, nhắm hướng đến Làng Vey.
Pháo binh đã bắn suốt đêm qua. Sáng hôm sau trực thăng vỏ trang của Marines và Special Forces đã cất cánh từ phi trường Aí tử và Phú bài, những phi tuần chiến đấu yểm trợ. Đại đội mở đường đã cứu được thêm 15 lính Mũ Xanh và nhiều dân sự chiến đấu.
Đêm hôm sau một tiểu đoàn QBV đã tấn công lên ngọn đồi 64, một tiền đồn ở dưới thấp do một trung đội của tiểu đoàn 1/9 bảo vệ. Không có thiết giáp tham chiến. Chỉ có đặc công xâm nhập vào hàng rào kẽm gai và lực lượng tấn công theo sau. Hàng rào Claymore và lựu đạn gài đã bảo vệ được đợt tấn công đầu tiên. Năm mươi TQLC đã chống trả một cách quyết liệt. QBV đã chiếm được một phần cuả tiền đồn. Đ/Tá Lownds không thích ngồi chờ địch đến bao vây; Ông ra lệnh cho Đ/U Henry Radcliff mang đại đội đến tiếp ứng cho ngọn đồi vào lúc sáng sớm. QBV vẫn còn nằm lại để tác chiến. Radcliff đã phối hợp một cách tài tình những vị trí pháo yểm trên đường tiến sát. Ông rất thận trọng tránh bị phục kích và nhất là tác xạ lầm vào quân bạn. Ông xử dụng một loạt đạn nổ chụp trước khi bất thần xung phong lên ngọn đồi và bắt tay với quân bạn. Đơn vị của Ông sau đó đã khai triển thế chủ động đánh bật địch ra khỏi vị trí cố thủ. Địch đã tháo chạy nếu không muốn nói là bị tiêu diệt gần hết. Những trực thăng vỏ trang đã nhận phần thanh toán còn lại. Một cuộc hành quân tiếp cứu thật đáng khen. Nhưng Lownds không muốn những tiền đồn nhỏ, cấp trung đội, nằm lẻ loi, dễ bị tràn ngập và tiêu diệt. Ông quyết định bỏ những vị trí này và rút về tăng cường cho những đơn vị lớn hơn mặc dầu làm như thế Ông biết vòng vây của địch có thể thắt chặt hơn. Dĩ nhiên vị trí rút đi được pháo binh khống chế.
Đại tá Lownds cũng bị một dây chuyền chỉ huy quá tải. Tổng thống Lyndon B. Johnson luôn luôn muốn nói chuyện với Ông. Tướng Westy và tướng Cushman luôn để lỗ tai vào tần số nội bộ của Ông. Nhất là Ông tướng Tư lệnh SĐ3 TQLC, vị chỉ huy trực tiếp của Ông là Rathvon Tompkins. Tompkins là vị tướng can đảm đến lạ lùng. Trong trận chiến lịch sử Tarawa, Ông đã tình nguyện dẫn nguyên một tiểu đoàn băng qua phòng tuyến Green Beach của Nhật để tấn công và làm rối loạn hậu phương địch. Ở đảo san hô Saipan, Ông đã dàn nguyên một Lữ đoàn 29 tràn ngập đỉnh núi Tapotchau như một trận biễn người. Bây giờ thì Ông không chịu ngồi yên tại BTL/ SĐ ở Đông hà. Ông biết gánh nặng trách nhiệm mà thuộc cấp của Ông, hay của chính Ông phải cưu mang về mặt chính trị và quân sự. Ông đã bay đến Khe sanh gần như là hằng ngày trong 77 ngày căn cứ bị vây hảm dưới hỏa lực phòng không của địch đón tiếp hoặc đưa tiển Ông. Ông đã tặng cho thuộc cấp của Ông một món quà vô giá. Đó là sự chia xẻ trách nhiệm và sự nguy hiểm của một người bạn, một chiến hửu và một cấp chỉ huy có trách nhiệm.
Lữ đoàn 26 vẫn đóng trụ vững vàng ở Khe sanh. Họ không còn ngạc nhiên hay chờ đợi những đợt pháo kích hoặc tấn công. Chúng bắn hỏa tiển vào ngọn đồi 881 Bắc. Chúng dùng pháo có tầm xa từ vùng nội địa Lào hay vùng phi quân sự hay ban đêm vác súng cối 82 đến thật gần căn cứ để bắn quấy rối vào BCH/Lữ đoàn.
BCH của Đại tá Lownds đóng trong một lô cốt bằng bê tông cốt sắt của Pháp để lại . Một rừng ăng tên bao quanh, gây chú ý cho đám tiền sát của địch. Sau hai ngày liên tiếp bị nả pháo, Ông bắt buộc phải phân tán ngụy trang và dựng lên nhiều ăng tên giả khắp nơi.
Pháo vẫn đến viếng hằng ngày, hằng đêm. Binh sỹ vẫn giữ được sự khôi hài, vui đùa với nhau. Mặc dầu được bảo vệ bởi những hầm hào, áo giáp, nón sắt, nhưng những mảnh pháo vẫn thích ghim vào những thịt tươi nóng hổi. Tính đến những ngày đầu tiên của tháng hai, một TQLC ở Khe sanh ít nhất cũng có một mãnh đạn trên người để làm "kỷ niệm".
Vấn đề tải thương cũng không phải dễ dàng. Mỗi ngày phải chuyển đi hàng chục thương bệnh binh. Phải an toàn cho bãi đáp. Phải bảo đảm an ninh cho những chuyến tiếp tế. Nhiều khi phải hàng trăm tấn hàng mỗi ngày. Pháo binh địch và thời tiết xấu là hai điều kiện rất phức tạp. Tháng hai ở vùng này thời tiết quả là con số không. Mưa dai dẳng triền miên. Tầm nhìn xa bị giới hạn tối đa. Tầng mây quá thấp, đến nổi tướng Tompkins phải kêu lên: Tháng hai làm tôi co ro như ông già. Thời tiết thì hoàn toàn zêrô, zêrô.
Những người lính vẫn nằm yên tại vị trí, nhưng ở cao độ 35.000 bộ những anh bạn phi công vẫn kiên nhẩn nối đuôi nhau trút xuống hàng ngàn tấn bom đủ các loại. Những chiếc Phantoms, Intruders, Skyhawks, Crusaders, Thunderchiefs và Super Sabers liên tục vần vũ trên bầu trời. Nhưng mãnh liệt hơn cả phải kể đến những pháo đài bay B52 Strato- Fortresses Flying cất cánh từ căn cứ không quân Utapao (Thái lan), Okinawa (Nhật) và Guam Islands trên Thái bình dương. Không ai có thể chứng kiến tận mắt sức tàn phá kinh khủng của loại vũ khí chiến lược này. Mặt đất từ nhiều dặm chung quanh rung lên như một cơn địa chấn. Toàn bộ khung cảnh chung quanh như bị san bằng biến mất. Con người trong khu vực tử thần đó như những đống thịt bầy nhầy. Mỗi chiếc chở được 27 tấn bom. Và từ cao độ 30.000 bộ trút xuống. Không một tiếng động, không một chút ánh sáng. Nó có khả năng tàn sát một trung đoàn, hay hơn nữa. Nó cũng có khả năng gây một chấn động về tâm lý đến độ điên cuồng, mất hết thị giác, và thính giác.
Quả thật B52 có mức độ tàn phá kinh khủng. Nhiệm vụ của B52 không những rải thảm trên những ngọn đồi chung quanh Khe sanh, mà còn ngăn chận phía trước phòng tuyến của TQLC, tránh địch bám sát và đào những địa đạo gần căn cứ.
Ngoài ra TQLC còn phát triển cái mà họ goị là vòng cung sấm chớp nhỏ bằng hỏa lực của pháo binh tầm xa đặt tại Carroll và Pike hay những phi tuần Intruders A6 có khả năng mang 28 packages bom loại 500 cân Anh, hoặc Pháo binh nòng 8 inches có tầm sát hại bán kính từ 500 đến 1.000 m.
Không ai có thể biết chính xác mức độ thương vong của quân BV dưới những cơn mưa bom đạn như thế. Những người Thượng trong buôn làng quanh đó cho biết có quá nhiều mồ chôn tập thể trong vùng. Quân BV thường dùng những hố bom có sẳn, bỏ tử thi xuống đó rồi lấp đất một cách vội vàng. Tuy nhiên vẫn còn quá nhiều xác chết rãi rác khắp nơi. Ngay cả những tên còn sống cũng phải bỏ chạy trước sự rượt đuổi của tử thần. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc đến độ dân làng phải bỏ đi.
Tuy nhiên đám chỉ huy của chúng vẫn theo chỉ thị ở trên, duy trì áp lực quanh Khe sanh. Hỏa tiển và pháo của chúng vẫn rót đều đều vào căn cứ. Cao điểm nhất là ngày 23/2, chúng đã bắn vào 2.307 đạn pháo trong 8 giờ liền . Đám QBV vẫn đào địa đạo hằng đêm. Càng lúc càng gần chu vi phòng thủ. Những người lính TQLC đã nghe tiếng đào đất trong đêm thanh vắng. Và họ chờ đợi những bóng ma CS sẽ đội mồ trồi lên một ngày nào đó.
Trời cứ mưa dai dẳng, giao thông hào ngập đầy nước. Có hôm phải dùng nón sắt để tát. Họ như những con chuột ướt đẩm, dơ dáy. Luôn luôn hướng tầm mắt về phía trước và sẳn sàng nhả đạn. Nhất là về ban đêm. Hoả châu như những con mắt mệt mỏi, buồn thảm. Hạ sỹ Michael Herr nhìn bạn bè rồi nói: "Nhìn tụi bay tao không đoán được chúng mày tên gì? Mấy tuổi?". Tất cả trùm kín hết, chỉ có những con mắt mở thao láo. Đôi khi họ cảm thấy căng thẳng và buồn phiền. Một vài TQLC mất kiên nhẩn, chỉ mong có cơ hội kết thúc trong những lần đụng trận ban đêm.
Ngày 25/2, một trung đội thiếu thận trọng trong lúc tuần tiểu ban ngày đã rơi vào ổ phục kích của địch. Hậu quả thật là bi đát.
Mục tiêu của QBV là tìm mọi cách làm tiêu hao lực lượng của Lữ đoàn 26 TQLC càng nhiều càng tốt. Đặt TQLC vào một tình trạng tồi tệ, căng thăng đưa đến nổi loạn. Nhưng chúng đã đánh giá sai lầm. Những đợt phản chiến không có nhiều ảnh hưởng đến những người lính TQLC có tinh thần kỷ luật cao và đang chấp nhận những tình trạng tồi tệ. Và cái giá mà đối phương phải trả là hằng đêm xua đám cán binh của họ trước màn hỏa lực dày đặc, không suy giảm. Cuộc chiến đấu của bọn chúng thật vô vọng.
Cái giá mà chúng phải trả cho cuộc vây hảm này. Tin tình báo cho biết có ít nhất 6.000 cán binh CS bị khai tử, số thương vong còn cao hơn nhiều.
Tháng 3/68 mang nhiều dấu hiệu mới. Những ánh sáng ấm áp của mùa xuân vẫn còn ngại ngần trên bầu trời Khe sanh. Những sensors từ ngoài căn cứ đã bớt báo động. Những bức không ảnh cũng không còn hiện rõ những dấu vết địch. Cuộc pháo kích hằng ngày cũng giảm đi cường độ. Những cuộc tấn công ban đêm cũng rời rạc.
Trời tiết quá tốt cho những đợt không yểm. Được sự chấp thuận của tướng Tompkins, Đ/tá Lownds bắt đầu mở các cuộc hành quân tuần tiểu quanh căn cứ. Một đợt truy quét toàn diện địch ra khỏi điạ bàn hoạt động của Lữ đoàn.
Đại đội B cũng trả được mối thù trung đội bị phục kích trước đây. Họ đã lợi dụng màn khói pháo binh, tiến sát giao thông hào cuả địch, dùng súng phun lửa đốt cháy và bắn chết toàn bộ đơn vị địch còn đang kinh hoàng và rối loạn.
Quân BV lại một phen khiếp đảm trong ngày 17/3 khi một màn khói màu xanh lục (green smoking) của pháo binh bắn T.O.T bao trùm ngọn đồi. Vũ khí hoá học? Hơi độc phải không? Không đâu. Đó là ngày lễ Thánh Patrick (Patrick’s Day) và Tr/ tá John Hennelly, Tiểu đoàn trưởng Pháo binh ở Khe sanh đã gây cho địch một phen hoảng loạn, bung tuyến bỏ chạy. Và những loạt đạn nổ chụp đã rượt đuổi theo chúng sau đó.
Một cuộc hành quân mang tên Pegasus Operation được mở ra với sự tham dự của SĐ1 Không Kỵ (The 1st Cavalry division), Chiến đoàn A TQLC VN và 1 Tiểu đoàn Dù VN tiến thẳng về phía tây, sát biên giới Lào, nhưng chỉ gặp sự kháng cự lẻ tẻ. Toàn bộ QBV đã rút vào nội địa Lào. Tiểu đoàn 3/26 cũng mở rộng an ninh đến tận Calu.
Ngày Chúa nhật Phục sinh (Easter) 14/4, trận chiến Khe sanh sau 77 ngày hoàn toàn chấm dứt.
Để bảo vệ Khe sanh, TQLC có 205 tử thương và 1.668 bị thương. Sự thiệt hại của TĐ 37 BĐQ VN được ghi nhận là vừa phải. Nhưng QBV đã bị nghiền nát hoàn toàn bởi hỏa lực khủng khiếp của quân đội Hoa kỳ. Hơn 15.000 tên địch bị tàn sát được ghi nhận. Kết quả cách biệt trên làm cho người ta phải đặt lại câu hỏi: ‘’Ai đã thắng ai? Và ai đã bao vây ai đây?’’.
Nhà sử học Allan Millet đã kết luận như thế này : "Mặc dầu QBV còn có khả năng tấn công nhưng Khe sanh không thể đem so sánh với Điện biên phủ, cũng như trận tấn công Iwo Jima không thể là cuộc tấn công đảo Wake được."
Những người lính đã chiến đấu và đã chiến thắng ở Khe sanh như là một huyền sử ca. Một anh chàng TQLC nào đó đã viết nguệch ngoạt lên tấm bìa cứng của khẩu phần lương khô một câu như thế này: Đời sống sẽ có một hương vị đặc biệt cho những người đã chiến đấu cho một cái gì sâu kín mà họ không bao giờ biết.
Trong một năm dài mà những nổi đau làm nhức nhối đất nước diễn ra tại quê nhà thì tại một vùng tiền đồn xa xôi, bùn nâu đất đỏ, một ngọn lửa nhỏ nhoi của Trách nhiệm, Danh dự và Tổ quốc được thắp lên một cách can đảm và đầy hãnh diện dưới cơn mưa nhẹ của Muà Xuân.
http://www.bietdongquan.com/baochi/munau/munauso26.htm
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Khe Sanh - II
Kiều công Cự chuyển ngữ
Phần 2
KHE SANH
Đại tá Joseph H. ALEXANDER
. . . . ..
TQLC đã dùng toàn bộ hỏa lực bắn thẳng như súng không giật 57 ly, 90 ly và 106 ly gắn trên chiến xa, trực xạ vào chốt kiềng của địch. Trận đánh trong thành phố vô cùng tàn bạo và khốc liệt. Địch bị quét sạch ở bờ nam sông Hương. Tiểu đoàn 3/5 của Tr/tá Robert Thompson được trực thăng vận lên mặt bắc thành phố tiêu diệt toàn bộ chỉ huy của địch. Một sự phối hợp rất nhịp nhàng khi TQLC Mỹ bên trái, SĐ1BB VN ở giữa và TQLC /VN bên phải. Tất cả đồng loạt tiến lên. QBV chống trả quyết liệt, cố bám lấy những hầm hố từ những bức tường trên cao. Lực lượng Đồng minh dùng hỏa lực áp sát bức tường. Nhiều nơi trong thành phố bị tàn phá nặng nề. Ngày 22/2 bức tường phía đông nam đã rơi vào tay TQLC Mỹ. Họ bắt tay với TQLC VN mở cuộc tấn công cuối cùng vào Hoàng cung.
Bình minh ngày 24/2, những chiến sĩ của SĐ1 BB đã kéo lá cờ VNCH lên trên kỳ đài Huế. Một tuần lễ truy quét đối phương trước khi Mặt trận Huế được tuyên bố kết thúc. Trận đánh kéo dài đã gây cho TQLC Mỹ 142 chết và gần 1.000 bị thương. Trong những ngày chiếm đóng và trước khi rút đi, QBV và VC đã tàn sát và chôn sống một số lớn người dân vô tội. Người ta gọi đó là trận thảm sát Tết Mậu thân (The 68 massacre at Hue).
Trận đánh vào dịp Tết làm cho dân chúng Hoa kỳ bàng hoàng. Mặc dầu chính quyền của TT Johnson và các cấp chỉ huy quân sự có vẽ lạc quan, nhưng mọi người đều thấy lời hứa hẹn kết thúc cuộc chiến VN không đơn giản. Đồng ý QBV và VC không đạt được mục đích quân sự và kêu gọi người dân miền Nam nổi dậy, nhưng cuộc tấn công đồng lọat và trực diện, chứng tỏ đối phương không hẳn ở tư thế bị tiêu diệt.
Còn điều quỉ quái gì xảy ra ở Khe sanh đây?
Tướng Westmoreland cho rằng những trận đánh của CS trong dịp Tết chỉ là sự bắt đầu một loạt những hành động kế tiếp tại Khe sanh và những tiền đồn khác tại vùng phi quân sự. Ông kêu gọi Chủ tịch Ủy ban tham mưu hổn hợp, tướng Wheeler tăng thêm quân. Và Ông đã nhận được thêm Lữ đoàn 27 TQLC và một Lữ đoàn Dù từ Hoa kỳ chuyển tớí.
Nhưng khối lượng quân bộ chiến dự trữ không phải là vô hạn. Cũng như sự kiên nhẩn của người dân Hoa kỳ. Khi Westy yêu cầu tăng lên 206.000 quân cho chiến trường VN thì phải xem đó là mức ấn định sau cùng. Điều đòi hỏi của Ông đến vào lúc số thương vong của quân Mỹ tăng lên 500 cho mỗi tuần lễ. Từ con số 144 cho năm 1965 bây giờ đã tăng lên 48.000 người, số tử vong cao nhất từ Thế chiến thứ 2.
Trong vòng một tháng bao nhiêu rối rắm đã xảy ra. Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara từ chức, hay nói đúng hơn, Ông đã từ bỏ nhiệm sở vào một thời điểm chẳng thích hợp chút nào. Sự kiện này đồng nghĩa với điều Ông tự ý quay lưng với những công việc mà Ông hoàn toàn đắc ý lúc ban đầu. Tổng thống Johnson cũng thay thế tướng Westmoreland bằng vị phó của Ông là tướng Creighton Abrams. Ông đòi hỏi đẩy mạnh Hòa đàm Paris và tuyên bố không tham dự cuộc tranh cử Tổng thống trong nhiệm kỳ tới. Phó Tổng thống Hubert Humphrey thay thế với một đường lối không mấy rõ ràng về cuộc chiến tại VN. Cựu Phó TT Richard Nixon nhận lãnh trách nhiệm tại Toà Bạch Ốc với nhiều chung cuộc bi thảm cho Ông và miền nam VN mà nhiều vị Tổng thống Mỹ tiền nhiệm đã cưu mang. Có thể nói ảnh hưởng của trận tấn công vào dịp Têt Mậu thân không phải là đơn giản.
Trong suốt thời gian đó vùng trách nhiệm của Đ/tá Lownds cũng như những căn cứ của quân đội Mỹ trên toàn miền Nam đều không bị tấn công và hoàn toàn yên tỉnh. Và người Mỹ cũng không có một phản ứng nào trong ba ngày hưu chiến mà họ tôn trọng. Điều này gây sự hiểu lầm không ít về phía Đồng minh của họ.
Cuộc chiến đã trở lại với Lữ đoàn 26 trước rạng sáng ngày 5/2. Những sensors điện tử rãi dọc theo đường tiến sát bắt đầu báo động liên tục về mức độ chuyển quân của CS. Đại tá Lownds và những Sĩ quan quân báo của Ông đã xác nhận những vùng xâm nhập và lập tức tung ra một đợt tập trung hỏa lực ‘target on time’ bằng 500 khẩu pháo binh và súng cối. Trong một tiếng đồng hồ họ yên trí địch đã bị tê liệt. Nhưng đạn cối của QBV bắt đầu ‘ho’ và đồi 861 bị tấn công tràn ngập. Một lần nữa đặc công của chúng đã phá được những vòng kẽm gai và quân bộ chiến theo sau tấn công cường tập. Đaị đội E của Tiểu đoàn 2/26 bị rối loạn. Những xạ thủ TQLC bị đánh bật ra khỏi vị trí phòng thủ bằng B40, B41 và lựu đạn chày. Đ/U Earl Breeding ra lệnh cho thành phần còn lại rút vào tuyến phòng thủ thứ hai. Một mệnh lệnh kế tiếp được thi hành tức khắc. Mang mặt nạ vào và xử dụng hơi ngạt. Cả một vùng đồi dầy đặc một màn sương khói. Tuy không giết chết tức khắc nhưng có tác dụng gây mê trong một khoảng thời gian cần thiết. QBV còn đang lục lạo những thức ăn, những tư trang, có tên còn đang cầm quyển Playboy. Chúng bật ra gần như chết ngạt. Thật là một khoãng thời gian chết chóc, những người lính của Breeding tung hoành hò hét giữa đám khói mù. Lưỡi lê, báng súng, dao đi rừng, cả nắm đấm cũng được xử dụng. Đám QBV bị những người lính TQLC tàn sát một cách tận tình để trả thù cho những người bạn đã nằm xuống. Nhất định không bỏ sót một tên nào hết. Xác của chúng trên chiến hào, trên hàng rào kẽm gai, trong những vũng bùn lầy nước đọng. <
Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng, những người lính của Đ/U Dabney trên ngọn đồi 881 Nam đã yểm trợ cho quân bạn một cách hửu hiệu. Họ đã xử dụng súng không giật 106, súng phóng lựu M79, đại liên M60 tác xạ mãnh liệt vào QBV đang tìm cách rút lui khỏi ngọn đồi 861. Breeding đã mất 40 người, nhưng có ít nhất trên 150 xác QBV trên hàng rào kẽm gai, trong giao thông hào và chung quanh chu vi phòng thủ. Đó là chưa kể những tử thi nằm dưới triền đồi do quân của Dabney tàn sát. Những khẩu pháo từ Camp Carroll bắn đuổi theo những vị trí khả nghi.
Hai đêm sau, QBV mở cuộc tấn công trả thù. Lần này là trại lực lượng đặc biệt Mỹ và dân sự chiến đấu, đa số là người dân tộc Bru. Đồn biên phòng Làng Vey ở cách Khe sanh năm dặm về phía tây, sát biên giới Lào. Chúng điều động 9 xe thiết giáp PT76 và T54 do Liên sô chế tạo, có gắn súng phun lửa, khoãng một tiểu đoàn quân bộ chiến theo sau. Xe tăng đã cán lên hàng rào kẽm gai, và những vòi lửa từ thiết giáp là những gì khủng khiếp nhất đối với quân trú phòng. Trại đã bị tràn ngập. Những người sống sót đã băng qua những lằn đạn của các tiền đồn rãi rác trong vùng. Chúng dùng chiến thuật "công đồn đã viện" để dụ quân Mỹ vào bẩy.
Pháo binh TQLC ở Khe sanh mở cuộc hỏa yểm tức khắc. Một giờ sau vị Sĩ quan chỉ huy đồn biên phòng yêu cầu Pháo binh bắn hủy diệt. Pháo binh/TQLC đã bắn đạn nổ chụp trên mục tiêu. Một cơn mưa thép và lửa đổ xuống. Một hiệu thính viên đã la lên bằng bạch văn trong máy: "Chúng tôi không biết các Anh đã làm gì, nhưng quả thật Chúa đã gìn giữ chúng tôi. Các Anh cứ tiếp tục đi!"
Đại tá Lownds đã phải đối diện với một quyết định. Phải gởi một đơn vị đến tiếp cứu và tiếp đón những người còn sống sót. Dĩ nhiên là Ông biết sẽ rơi vào cái bẩy "công đồn đã viện" của địch. Quân của Ông sẽ rơi vào ổ phục kích nếu đi dọc theo con đường số 9 về phía tây. Cách hay nhất là đi vòng, bên hông địch. QBV có thể xử dụng tank nếu phát giác được cánh quân? Chắc chắn là không. Bọn họ sẽ không bao giờ cho phép xử dụng tank giữa ban ngày. Và Ông đã quyết định gởi một đại đội khinh binh theo phương giác, nhắm hướng đến Làng Vey.
Pháo binh đã bắn suốt đêm qua. Sáng hôm sau trực thăng vỏ trang của Marines và Special Forces đã cất cánh từ phi trường Aí tử và Phú bài, những phi tuần chiến đấu yểm trợ. Đại đội mở đường đã cứu được thêm 15 lính Mũ Xanh và nhiều dân sự chiến đấu.
Đêm hôm sau một tiểu đoàn QBV đã tấn công lên ngọn đồi 64, một tiền đồn ở dưới thấp do một trung đội của tiểu đoàn 1/9 bảo vệ. Không có thiết giáp tham chiến. Chỉ có đặc công xâm nhập vào hàng rào kẽm gai và lực lượng tấn công theo sau. Hàng rào Claymore và lựu đạn gài đã bảo vệ được đợt tấn công đầu tiên. Năm mươi TQLC đã chống trả một cách quyết liệt. QBV đã chiếm được một phần cuả tiền đồn. Đ/Tá Lownds không thích ngồi chờ địch đến bao vây; Ông ra lệnh cho Đ/U Henry Radcliff mang đại đội đến tiếp ứng cho ngọn đồi vào lúc sáng sớm. QBV vẫn còn nằm lại để tác chiến. Radcliff đã phối hợp một cách tài tình những vị trí pháo yểm trên đường tiến sát. Ông rất thận trọng tránh bị phục kích và nhất là tác xạ lầm vào quân bạn. Ông xử dụng một loạt đạn nổ chụp trước khi bất thần xung phong lên ngọn đồi và bắt tay với quân bạn. Đơn vị của Ông sau đó đã khai triển thế chủ động đánh bật địch ra khỏi vị trí cố thủ. Địch đã tháo chạy nếu không muốn nói là bị tiêu diệt gần hết. Những trực thăng vỏ trang đã nhận phần thanh toán còn lại. Một cuộc hành quân tiếp cứu thật đáng khen. Nhưng Lownds không muốn những tiền đồn nhỏ, cấp trung đội, nằm lẻ loi, dễ bị tràn ngập và tiêu diệt. Ông quyết định bỏ những vị trí này và rút về tăng cường cho những đơn vị lớn hơn mặc dầu làm như thế Ông biết vòng vây của địch có thể thắt chặt hơn. Dĩ nhiên vị trí rút đi được pháo binh khống chế.
Đại tá Lownds cũng bị một dây chuyền chỉ huy quá tải. Tổng thống Lyndon B. Johnson luôn luôn muốn nói chuyện với Ông. Tướng Westy và tướng Cushman luôn để lỗ tai vào tần số nội bộ của Ông. Nhất là Ông tướng Tư lệnh SĐ3 TQLC, vị chỉ huy trực tiếp của Ông là Rathvon Tompkins. Tompkins là vị tướng can đảm đến lạ lùng. Trong trận chiến lịch sử Tarawa, Ông đã tình nguyện dẫn nguyên một tiểu đoàn băng qua phòng tuyến Green Beach của Nhật để tấn công và làm rối loạn hậu phương địch. Ở đảo san hô Saipan, Ông đã dàn nguyên một Lữ đoàn 29 tràn ngập đỉnh núi Tapotchau như một trận biễn người. Bây giờ thì Ông không chịu ngồi yên tại BTL/ SĐ ở Đông hà. Ông biết gánh nặng trách nhiệm mà thuộc cấp của Ông, hay của chính Ông phải cưu mang về mặt chính trị và quân sự. Ông đã bay đến Khe sanh gần như là hằng ngày trong 77 ngày căn cứ bị vây hảm dưới hỏa lực phòng không của địch đón tiếp hoặc đưa tiển Ông. Ông đã tặng cho thuộc cấp của Ông một món quà vô giá. Đó là sự chia xẻ trách nhiệm và sự nguy hiểm của một người bạn, một chiến hửu và một cấp chỉ huy có trách nhiệm.
Lữ đoàn 26 vẫn đóng trụ vững vàng ở Khe sanh. Họ không còn ngạc nhiên hay chờ đợi những đợt pháo kích hoặc tấn công. Chúng bắn hỏa tiển vào ngọn đồi 881 Bắc. Chúng dùng pháo có tầm xa từ vùng nội địa Lào hay vùng phi quân sự hay ban đêm vác súng cối 82 đến thật gần căn cứ để bắn quấy rối vào BCH/Lữ đoàn.
BCH của Đại tá Lownds đóng trong một lô cốt bằng bê tông cốt sắt của Pháp để lại . Một rừng ăng tên bao quanh, gây chú ý cho đám tiền sát của địch. Sau hai ngày liên tiếp bị nả pháo, Ông bắt buộc phải phân tán ngụy trang và dựng lên nhiều ăng tên giả khắp nơi.
Pháo vẫn đến viếng hằng ngày, hằng đêm. Binh sỹ vẫn giữ được sự khôi hài, vui đùa với nhau. Mặc dầu được bảo vệ bởi những hầm hào, áo giáp, nón sắt, nhưng những mảnh pháo vẫn thích ghim vào những thịt tươi nóng hổi. Tính đến những ngày đầu tiên của tháng hai, một TQLC ở Khe sanh ít nhất cũng có một mãnh đạn trên người để làm "kỷ niệm".
Vấn đề tải thương cũng không phải dễ dàng. Mỗi ngày phải chuyển đi hàng chục thương bệnh binh. Phải an toàn cho bãi đáp. Phải bảo đảm an ninh cho những chuyến tiếp tế. Nhiều khi phải hàng trăm tấn hàng mỗi ngày. Pháo binh địch và thời tiết xấu là hai điều kiện rất phức tạp. Tháng hai ở vùng này thời tiết quả là con số không. Mưa dai dẳng triền miên. Tầm nhìn xa bị giới hạn tối đa. Tầng mây quá thấp, đến nổi tướng Tompkins phải kêu lên: Tháng hai làm tôi co ro như ông già. Thời tiết thì hoàn toàn zêrô, zêrô.
Những người lính vẫn nằm yên tại vị trí, nhưng ở cao độ 35.000 bộ những anh bạn phi công vẫn kiên nhẩn nối đuôi nhau trút xuống hàng ngàn tấn bom đủ các loại. Những chiếc Phantoms, Intruders, Skyhawks, Crusaders, Thunderchiefs và Super Sabers liên tục vần vũ trên bầu trời. Nhưng mãnh liệt hơn cả phải kể đến những pháo đài bay B52 Strato- Fortresses Flying cất cánh từ căn cứ không quân Utapao (Thái lan), Okinawa (Nhật) và Guam Islands trên Thái bình dương. Không ai có thể chứng kiến tận mắt sức tàn phá kinh khủng của loại vũ khí chiến lược này. Mặt đất từ nhiều dặm chung quanh rung lên như một cơn địa chấn. Toàn bộ khung cảnh chung quanh như bị san bằng biến mất. Con người trong khu vực tử thần đó như những đống thịt bầy nhầy. Mỗi chiếc chở được 27 tấn bom. Và từ cao độ 30.000 bộ trút xuống. Không một tiếng động, không một chút ánh sáng. Nó có khả năng tàn sát một trung đoàn, hay hơn nữa. Nó cũng có khả năng gây một chấn động về tâm lý đến độ điên cuồng, mất hết thị giác, và thính giác.
Quả thật B52 có mức độ tàn phá kinh khủng. Nhiệm vụ của B52 không những rải thảm trên những ngọn đồi chung quanh Khe sanh, mà còn ngăn chận phía trước phòng tuyến của TQLC, tránh địch bám sát và đào những địa đạo gần căn cứ.
Ngoài ra TQLC còn phát triển cái mà họ goị là vòng cung sấm chớp nhỏ bằng hỏa lực của pháo binh tầm xa đặt tại Carroll và Pike hay những phi tuần Intruders A6 có khả năng mang 28 packages bom loại 500 cân Anh, hoặc Pháo binh nòng 8 inches có tầm sát hại bán kính từ 500 đến 1.000 m.
Không ai có thể biết chính xác mức độ thương vong của quân BV dưới những cơn mưa bom đạn như thế. Những người Thượng trong buôn làng quanh đó cho biết có quá nhiều mồ chôn tập thể trong vùng. Quân BV thường dùng những hố bom có sẳn, bỏ tử thi xuống đó rồi lấp đất một cách vội vàng. Tuy nhiên vẫn còn quá nhiều xác chết rãi rác khắp nơi. Ngay cả những tên còn sống cũng phải bỏ chạy trước sự rượt đuổi của tử thần. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc đến độ dân làng phải bỏ đi.
Tuy nhiên đám chỉ huy của chúng vẫn theo chỉ thị ở trên, duy trì áp lực quanh Khe sanh. Hỏa tiển và pháo của chúng vẫn rót đều đều vào căn cứ. Cao điểm nhất là ngày 23/2, chúng đã bắn vào 2.307 đạn pháo trong 8 giờ liền . Đám QBV vẫn đào địa đạo hằng đêm. Càng lúc càng gần chu vi phòng thủ. Những người lính TQLC đã nghe tiếng đào đất trong đêm thanh vắng. Và họ chờ đợi những bóng ma CS sẽ đội mồ trồi lên một ngày nào đó.
Trời cứ mưa dai dẳng, giao thông hào ngập đầy nước. Có hôm phải dùng nón sắt để tát. Họ như những con chuột ướt đẩm, dơ dáy. Luôn luôn hướng tầm mắt về phía trước và sẳn sàng nhả đạn. Nhất là về ban đêm. Hoả châu như những con mắt mệt mỏi, buồn thảm. Hạ sỹ Michael Herr nhìn bạn bè rồi nói: "Nhìn tụi bay tao không đoán được chúng mày tên gì? Mấy tuổi?". Tất cả trùm kín hết, chỉ có những con mắt mở thao láo. Đôi khi họ cảm thấy căng thẳng và buồn phiền. Một vài TQLC mất kiên nhẩn, chỉ mong có cơ hội kết thúc trong những lần đụng trận ban đêm.
Ngày 25/2, một trung đội thiếu thận trọng trong lúc tuần tiểu ban ngày đã rơi vào ổ phục kích của địch. Hậu quả thật là bi đát.
Mục tiêu của QBV là tìm mọi cách làm tiêu hao lực lượng của Lữ đoàn 26 TQLC càng nhiều càng tốt. Đặt TQLC vào một tình trạng tồi tệ, căng thăng đưa đến nổi loạn. Nhưng chúng đã đánh giá sai lầm. Những đợt phản chiến không có nhiều ảnh hưởng đến những người lính TQLC có tinh thần kỷ luật cao và đang chấp nhận những tình trạng tồi tệ. Và cái giá mà đối phương phải trả là hằng đêm xua đám cán binh của họ trước màn hỏa lực dày đặc, không suy giảm. Cuộc chiến đấu của bọn chúng thật vô vọng.
Cái giá mà chúng phải trả cho cuộc vây hảm này. Tin tình báo cho biết có ít nhất 6.000 cán binh CS bị khai tử, số thương vong còn cao hơn nhiều.
Tháng 3/68 mang nhiều dấu hiệu mới. Những ánh sáng ấm áp của mùa xuân vẫn còn ngại ngần trên bầu trời Khe sanh. Những sensors từ ngoài căn cứ đã bớt báo động. Những bức không ảnh cũng không còn hiện rõ những dấu vết địch. Cuộc pháo kích hằng ngày cũng giảm đi cường độ. Những cuộc tấn công ban đêm cũng rời rạc.
Trời tiết quá tốt cho những đợt không yểm. Được sự chấp thuận của tướng Tompkins, Đ/tá Lownds bắt đầu mở các cuộc hành quân tuần tiểu quanh căn cứ. Một đợt truy quét toàn diện địch ra khỏi điạ bàn hoạt động của Lữ đoàn.
Đại đội B cũng trả được mối thù trung đội bị phục kích trước đây. Họ đã lợi dụng màn khói pháo binh, tiến sát giao thông hào cuả địch, dùng súng phun lửa đốt cháy và bắn chết toàn bộ đơn vị địch còn đang kinh hoàng và rối loạn.
Quân BV lại một phen khiếp đảm trong ngày 17/3 khi một màn khói màu xanh lục (green smoking) của pháo binh bắn T.O.T bao trùm ngọn đồi. Vũ khí hoá học? Hơi độc phải không? Không đâu. Đó là ngày lễ Thánh Patrick (Patrick’s Day) và Tr/ tá John Hennelly, Tiểu đoàn trưởng Pháo binh ở Khe sanh đã gây cho địch một phen hoảng loạn, bung tuyến bỏ chạy. Và những loạt đạn nổ chụp đã rượt đuổi theo chúng sau đó.
Một cuộc hành quân mang tên Pegasus Operation được mở ra với sự tham dự của SĐ1 Không Kỵ (The 1st Cavalry division), Chiến đoàn A TQLC VN và 1 Tiểu đoàn Dù VN tiến thẳng về phía tây, sát biên giới Lào, nhưng chỉ gặp sự kháng cự lẻ tẻ. Toàn bộ QBV đã rút vào nội địa Lào. Tiểu đoàn 3/26 cũng mở rộng an ninh đến tận Calu.
Ngày Chúa nhật Phục sinh (Easter) 14/4, trận chiến Khe sanh sau 77 ngày hoàn toàn chấm dứt.
Để bảo vệ Khe sanh, TQLC có 205 tử thương và 1.668 bị thương. Sự thiệt hại của TĐ 37 BĐQ VN được ghi nhận là vừa phải. Nhưng QBV đã bị nghiền nát hoàn toàn bởi hỏa lực khủng khiếp của quân đội Hoa kỳ. Hơn 15.000 tên địch bị tàn sát được ghi nhận. Kết quả cách biệt trên làm cho người ta phải đặt lại câu hỏi: ‘’Ai đã thắng ai? Và ai đã bao vây ai đây?’’.
Nhà sử học Allan Millet đã kết luận như thế này : "Mặc dầu QBV còn có khả năng tấn công nhưng Khe sanh không thể đem so sánh với Điện biên phủ, cũng như trận tấn công Iwo Jima không thể là cuộc tấn công đảo Wake được."
Những người lính đã chiến đấu và đã chiến thắng ở Khe sanh như là một huyền sử ca. Một anh chàng TQLC nào đó đã viết nguệch ngoạt lên tấm bìa cứng của khẩu phần lương khô một câu như thế này: Đời sống sẽ có một hương vị đặc biệt cho những người đã chiến đấu cho một cái gì sâu kín mà họ không bao giờ biết.
Trong một năm dài mà những nổi đau làm nhức nhối đất nước diễn ra tại quê nhà thì tại một vùng tiền đồn xa xôi, bùn nâu đất đỏ, một ngọn lửa nhỏ nhoi của Trách nhiệm, Danh dự và Tổ quốc được thắp lên một cách can đảm và đầy hãnh diện dưới cơn mưa nhẹ của Muà Xuân.
http://www.bietdongquan.com/baochi/munau/munauso26.htm
Tân Sơn Hòa chuyển