Truyện Ngắn & Phóng Sự
Kiếp Này Em Gánh Lời Thề - Nguyễn Trọng Hoàn
I. THU
Thư của Hoàng:
Hà
thân.
Anh báo tin cho bác và Hà biết: Chị Thu, cháu Hạnh
và anh đã đến trại tị nạn Songkla. Nhưng, thật không
may, tất cả những phụ nữ trên tầu đã gặp nạn. Ðàn
ông có một số bị ném xuống biển, còn anh chỉ kịp
ôm lấy cháu Hạnh, đẩy cháu vào khoang chứa những
thùng nước ngọt. . .
Hà và bác cứ yên tâm, anh sẽ làm hết sức mình để
chăm sóc cho chị, chăm sóc cháu Hạnh.
Anh có nghe tin, các sĩ quan “ Có nợ máu” đều phải
đem ra ngoài Bắc “ học tập” cả, anh Hải chắc cũng
bị đem ra ngoài ấy thôi. . .
Thư của Hạnh.
Bà
ngoại ơi! Cô Hà ơi!
Cháu là Hạnh đây, cô ơi! Mẹ cháu đang nằm bệnh viện
của tỉnh, người ta đã phải chuyển mẹ cháu từ trạm
xá của trại ra đây, cháu đã phải nhờ các bác, các
chú đến trước, biết tiếng Anh, xin mãi họ mới cho
cháu được theo mẹ ra đây. Khoan. . . Cháu bận một
chút việc. Cháu tạm ngừng viết một chút.
Vừa rồi, cháu đi lấy thêm mền để đắp cho mẹ. Não
lòng quá cô ạ, mẹ cháu vẫn cứ thiêm thiếp. . .
Cháu không biết nói tiếng Anh, họ lại không biết
tiếng Việt, nên mỗi khi tìm một y tá hay một bác
sĩ cho mẹ cháu, rất khó khăn. Cũng may có chú Hoàng
ngày đêm ở cạnh, không có chú ấy, không biết cháu
và mẹ cháu sẽ ra làm sao? Thôi, để lần sau cháu
viết nhiều cho Cô nghe.
Bà ngoại có khỏe không hở cô?
Thư của chị Thanh.
Hà
ơi.
Chị vừa ra bưu điện gửi tiền và quần áo cho Thu
và cháu Hạnh, chị cũng đang chuẩn bị sang Thái để
thăm Thu. Cả nhà yên tâm, máu chảy ruột mềm, chị
sẽ làm đủ mọi cách để đem Thu và cháu Hạnh qua Mỹ
càng sớm càng tốt.
Chị đã gửi tiền về cho gia đình theo đường dây của
nhà cậu Ðăng, em viết thư ngay cho chị, nhớ trả
lời chị những câu hỏi như sau:
- Tình trạng của mẹ làm sao? Cô Dự mới phone cho
chị, cổ nói mẹ phải đi bệnh viện, có phải vậy không?
- Ðã nhận được tin của Hải chưa? Chị có nghe nói,
những sĩ quan cao cấp của mình, đa số bị đem ra
giam giữ tận ngoài Bắc, lại vô cùng khốn đốn, có
phải vậy không?
Chị viết thư này, Cali đang vào mùa Giáng sinh,
Việt Nam năm nay, chắc chẳng có ai nhớ đến ngày
Chúa ra đời đâu Hà nhỉ? Lại sắp gần tết bên ấy rồi.
Ôi, cứ nghĩ ngày tết của năm 1972, rồi nghĩ đến
tết lần này, chị lại não lòng. Năm đó, cả nhà ăn
một cái tết rất đầm ấm, phần để mừng cho chị được
vào nhà dòng, Phần cho chị nguôi ngoai nỗi khổ đau
của người vợ trẻ chết chồng. Ôi, viết cho Hà mà
chị có cảm tưởng như anh Thái đang hiện về trước
mặt chị, đang thì thầm cùng chị.
Bằng cách này hay cách khác hãy giúp đỡ, cầu nguyện
cho những đồng đội của anh ấy, mong sao họ đủ can
đảm để vượt qua được cảnh tai trời ách nước này.
. .
Thôi chị không viết nữa, chị chờ thư của Hà trả
lời những câu hỏi vừa rồi của chị. Hôn me cho chị.
Thương em.
Thư của Hạnh:
Bà
ngoại ơi! Cô Hà ơi,
Mẹ cháu đã tỉnh rồi, trời ơi! Cô ơi! Không thể kể
xiết cho cô nghe nỗi vui mừng của cháu và của chú
Hoàng khi thấy hai bàn tay của mẹ cháu cử động được,
hai mí mắt giật giật, từ từ mẹ cháu mở mắt, nhưng
lạ lắm cô Hà ạ, khi chú Hoàng ghé vào tai mẹ cháu,
hỏi:
- Chị Thu, chị nhận ra cháu Hạnh không?
Mẹ cháu gương mặt hốt hoảng, rồi như muốn dùng hết
sức của mình, ngồi dậy nhưng nào có ngồi được đâu.
Chú Hoàng phải nói:
- Chị cứ nằm yên, chưa dậy được đâu, chị cần gì
cứ nói với em?
Cháu cứ tưởng mẹ cháu sẽ hỏi đến ba cháu, nhưng
không, mẹ cháu muốn tung tấm chăn ra, nói như hét:
- Cho tôi đi tắm, cho tôi đi tắm ngay.
Cháu thấy chú Hoàng nói:
- Yên tâm đi chị, chị còn yếu lắm.
Mẹ cháu từ từ nhắm mắt, rồi cứ thế, nước mắt của
mẹ cháu tiếp tục chẩy, chú Hoàng đưa cháu cái khăn
rồi nói nhỏ:
- Cháu lau nước mắt cho mẹ, chú đi pha sữa.
Giọng chú sao khác với ngày thường, cháu nhìn theo,
hình như chú cũng lau nước mắt thì phải.
Mẹ cháu khóc, chú Hoàng khóc, thấy vậy cháu cũng
òa lên khóc
Thư của Hoàng
Hà
thân nhớ
Anh đã đưa chị Thu và cháu Hạnh trở lại trại tị
nạn, chị đã ăn được một chút. Thể chất thì có cơ
may bình phục được, nhưng tâm hồn của chị ấy thì
đã vỡ tan tành rồi.
Chiều hôm qua, anh và cháu Hạnh dìu chị ra bờ biển,
chị hỏi anh:
- Việt Nam ở hướng nào vậy chú?
Rồi chị lặng lẽ, bất động, đôi mắt vô hồn hướng
về biển cả, mặt biển chỉ toàn là sóng bạc đầu, toàn
là những con hải âu chao qua, nghiêng lại, để cùng
với những cơn gió lạnh từ mênh mông của biển trời
thổi đến. . .
Bỗng anh nghe chị Thu thở dài, đứt đoạn:
- Hải ơi! Giờ này, người ta đang giam anh ở đâu?
Chị khóc, cháu Hạnh khóc, anh cố giữ không cho nước
mắt trào ra. . .
Thư của Hạnh.
Bà
Ngoại ơi! Cô Hà ơi.
Cháu đã gặp bác Thanh, hôm qua, chú Hoàng dìu mẹ
cháu lên ban quản lý của trại, để gặp bác Thanh
từ Mỹ qua thăm mẹ cháu.
Bác đi với cái một Ma Soeur nữa. Cháu thấy bác ôm
hôn mẹ cháu, vuốt tóc mẹ cháu, cả mẹ và bác cùng
khóc. Mẹ cháu chỉ nói được có mấy tiếng:
- Chị ơi, em khổ lắm, thân em nhơ bẩn lắm rồi! Em
không xứng đáng với anh Hải nữa đâu!
Rồi mẹ cháu lại ngất đi, người ta lại đưa mẹ cháu
trở lại trạm xá. Bác Thanh cũng khóc, bác và Ma
Soeur kia trở ra Băng Cốc. Bác nói, bác ra đấy để
làm thủ tục bảo lãnh cho mẹ cháu và cháu, có khi
cả chú Hoàng nữa, bác còn nói tình trạng sức khỏe
của mẹ như thế này thì phải làm mọi cách để mẹ cháu
được qua Mỹ càng sớm càng tốt.
Thư của chị Thanh:
Hà
thương nhớ của chị.
Nghe tin me khỏe lại, chị rất mừng, càng mừng hơn
là gia đình nhà ta bên ấy đã nhận được tin tức và
thư của chú Hải. Em đoán đúng, thư Hải viết từ Hoàng
Liên Sơn, có nghĩa là Hải đang bị tù tận ngoài Bắc
kia đấy.
Cứ nghĩ đến hoàn cảnh chú Hải và Thu, chị mới nghiệm
ra một điều, mà điều này, chúng ta phải trả bằng
những giọt nước mắt: Những khổ đau ngày hôm qua,
chưa hẳn đã là những hạnh phúc cho hôm nay, có khi
còn là những bất hạnh kế tiếp. Chỉ có đi tu như
chị mới biết chắc rằng, cõi phúc tưởng là xa xăm,
không thực, nhưng càng ngày, nó như càng đến gần
mình hơn.
Nếu năm ấy, năm khói lửa bùng cao ấy. Nơi mặt trận
Quảng Trị tàn khốc ấy, không cướp đi anh Thái thương
yêu ngàn đời của chị. Thì hôm nay, ảnh chắc cũng
phải đi tù như chú Hải rồi! Chị không trách Thu,
nhưng giá như chị, giá như anh Thái còn sống mà
bị tù như chú Hải, thì chị sẽ không vượt biên đâu.
Chị sẽ ở lại với ảnh. Sẽ lặn lội ra tận ngoài Bắc
thăm ảnh. Sẽ đan những chiếc áo ấm cho ảnh. Sẽ đem
đồ ăn cho anh ăn, rồi xin anh bát cơm tù anh vẫn
ăn, chị sẽ chan cơm ấy, bằng chính nước mắt của
chị, để chia sẻ cùng với anh, cảnh khốn cùng của
một người lính trận khi sa cơ lỡ vận.
Nhưng Thu nhà mình đã không làm như thế, chị nhắc
lại, chị không trách Thu, nghĩ cho cùng, Thu làm
thế còn hơn biết bao nhiêu người vợ trẻ đã không
trọn tiết với chồng, đã lấy thù làm chồng. . .
Ôi, người ta vẫn bảo, nước mất thì nhà tan là như
vậy đó.
Còn việc này hết sức quan trọng, chị muốn Hà phải
tuyệt đối nghe chị. Hải đang ở trong một hoàn cảnh
nghiệt ngã như thế. Chúng ta không thể để chú ấy
bị thêm khổ đau nữa. Em phải giấu kín sự việc này.
Nếu nhà nước Cộng sản có cho viết thư thăm Hải,
em cứ coi em như là Thu, viết thư an ủi chú. Nét
chữ của ba chị em mình, khi còn sinh tiền, chính
ba của chúng mình còn không nhận ra được nũa cơ
mà!
Em nhớ an ủi Hải, em cứ viết là em ( Tức là Thu)
sẽ mãi mãi chờ ngày về của Hải, cho dù thời gian
tù tội có là bao lâu chăng nữa.
Chị còn nhớ, Hà của chị ngày xưa vẫn được điểm cao
về môn văn, được ba của mình khen ngợi lắm mà! Em
nhớ viết thư cho Hải nhé.
Có thể tháng sau, Thu và cháu Hạnh, sẽ sang Mỹ với
chị.
À chị quên, chị cũng đang bảo lãnh chú Hoàng, tội
nghiệp chú ấy, nghe cháu Hạnh và những người trong
trại kể lại việc chú ấy chăm sóc cho Thu, không
khác chị ruột của mình, mới thấy tình chiến hữu
đâu có phải ở chiến trường mới có, mà khi ngã ngựa,
thì lại càng rõ hơn và thắm thiết hơn.
Hôm gặp lại, chị nhận ra ngay anh chàng sĩ quan
lém lỉnh gan lì của mặt trận Quảng Trị ngày nào,
đã là ân nhân của chị, chính chú ấy đã tìm ra được
thi hài của anh Thái. Chị có nói đùa:
- Hà nó vẫn nhắc đến chú đấy!
Chú ấy cười rất buồn:
- Cô ấy vẫn nói, tên cô ấy là Dòng Sông, dòng sông
cứ trôi, trôi trăm năm và trôi cả ngàn năm. . .
Ðiện tín từ Mỹ: Ngày . tháng . năm .
Con
báo cho Me và Hà một tin buồn: Thu qua đời vào sáng
. tháng . năm .. Lễ an táng sẽ cử hành ngày. . tháng
. . năm . . .
Me và Hà đừng quá xúc động. Gia đình cũng đừng báo
tin cho chú Hải biết.
Thanh.
Thư của Hạnh:
Cô
Hà ơi, Bà ngoại ơi! Bố ơi! Mẹ Thu của con chết rồi,
bây giờ con biết làm sao đây? Mẹ Thu con chết được
cả tháng rồi, mỗi lần con tính ngồi viết thư cho
bà ngoại, cho cô Hà thì nước mắt con tuôn trào,
nước mắt thấm đầy cán bút, thấm cả vào trang giấy,
con không thể nào viết tiếp được.
Thư này con đang viết tại một nghĩa trang ở San
Diego, nơi mẹ con đang an giấc ngàn thu.
Càng đau đớn, con càng thấy mình có lỗi với mọi
người, vì ngay lúc bước chân ra đi, mẹ Thu con đã
nói:
- Ba con coi như đã chết, mẹ cũng coi như đã chết,
mẹ cố gắng mang con, mang tình yêu của ba mẹ sang
vùng đất tự do cho con học thành người.
Con chưa biết có thể thành người ra sao, nhưng bây
giờ con đã là đứa bé mồ côi. Mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Cô ơi, cô đừng cho bố con biết nghe cô. Trong tù,
nếu biết tin này, bố con sẽ đớn đau biết là bao?
Bên cạnh con đây, chú Hoàng đang dựa lưng vào gốc
cây, chú ấy đang nhìn cái gì về phía con dốc, có
cỏ xanh mịn, cuối dốc là một con đường chạy dọc
bờ hồ, chú ấy đang nhìn cái gì vậy?
Thư của Hoàng:
Hà
thân nhớ.
Anh viết thư cho Hà vào một buổi chiều tàn Thu.
Thu bên Mỹ đúng là Thu vàng, cây cỏ, không gian
chan chứa màu vàng, gợi buồn gợi nhớ. Người ta vẫn
nói màu vàng tượng trưng cho tan vỡ. Có nhiều lúc
anh nghiệm ra rằng, đằng sau tất cả những gì quyến
rũ của tình yêu, có chan chứa những giọt nước mắt.
. . Như cái tên của anh, chắc có dính dáng gì đến
màu vàng, nên hết cuộc tình này, đến cuộc tình khác
đều đi vào bế tắc, khổ đau. Anh lại thấy: Mọi sự
đổ vỡ đều như thế cả. Lần này hi vọng lần sau sẽ
khá hơn. Cố lấy người này ra để bào chữa cho người
kia, nhưng suy cho cùng, giống nhau cả. . .
Với sự đồng ý của chị Thanh, anh đã mang cháu Hạnh
về sống với anh. Tội nghiệp cho cháu, tên là Hạnh,
nhưng thật là bất hạnh. Từ khi chị Thu qua đời.
Anh đã phải trả lời biết bao nhiêu câu hỏi của cháu,
nửa trẻ con, nửa người lớn. những câu hỏi, mà chỉ
có Chúa mới có thể trả lời cháu được.
- Chú Hoàng ơi! Sau khi mẹ cháu chết, mẹ cháu về
đâu nhỉ? Chú nói người chết biến thành cô tiên,
cô tiên còn đẹp hơn mẹ cháu lúc sống nữa kìa! Cô
tiên có cánh bay. Như vậy cô tiên có thể bay đến
thăm ba cháu ở trại tù không vậy chú?
- Cháu có nghe con bạn học cùng lớp nó nói, cha
nó cũng đang phải “ Học tập cải tạo” ở tận miền
Bắc. Nghe nó nói, hiện giờ ba nó bị làm việc nặng
nhọc lắm. Ăn uống kham khổ lắm. Lại bị đánh đập
nữa. Cháu có xem phim “ Buôn Nô lệ” toàn cảnh người
đánh người. Người quyết định mạng số cho người là
làm sao hả chú? Như vậy Chúa, Phật là thừa thãi
hay sao?.
- Chú Hoàng ơi, đêm qua cháu mơ thấy mẹ về. Tỉnh
giấc vừa thương vừa giận. Thương vì thấy mẹ cháu
đơn lẻ , quần áo tả tơi, máu me đầm đìa. Sao mẹ
cháu ôm cháu mà lại kêu tên ba cháu là làm sao?
Còn giận, giận chú vì chú xạo quá, mẹ cháu đâu có
thành cô tiên nào đâu! Lại chẳng có đôi cánh gì
cả. Như thế thì mẹ cháu làm sao bay đi thăm ba cháu
được? Ngày xưa, nghe bà ngoại kể chuyện cổ tích
kẻ nào làm ác, thì thế nào cũng gặp chuyện chẳng
lành, thế thì mẹ cháu có làm ác không hở chú? Ba
cháu giết giặc, bảo vệ đất nước, bảo vệ lương dân
vô tội có phải làm ác không vậy?
Câu cuối này thì anh phải trả lời, anh đã nghiêm
nghị nói với cháu:
- Này Hạnh, nghe chú trả lời đây: Những chuyện về
cổ tích ấy, không sai, nhưng đó chỉ là người xưa
lấy những chuyện ấy ra để khuyên người sau làm lành,
tránh dữ mà thôi. Còn đây là vận nước, vận nước
nghiệt ngã, kéo theo vận mệnh biết bao nhiêu người
khác. Mẹ cháu là người đàn bà thuần hậu. Còn ba
cháu, chú biết ba cháu, cũng như bao nhiêu chiến
binh khác, giết giặc nhưng để cứu hàng triệu đồng
bào khác. Ðối với đồng đội ba cháu sống hết mình.
Ba mẹ cháu là những người lương thiện. Bây giờ có
gặp tai nạn, nhưng rồi ra, người chết sẽ thành tiên,
người sống sẽ được hưởng phúc. .
Hạnh hỏi anh một câu, anh biết cháu đã trưởng thành
rồi:
- Thế thì giữa người chết và người sống, có cái
gì. . .
Anh đã trả lời Hạnh như sau:
- Người chết lẽ dĩ nhiên không phải còn sống như
chúng ta, nhưng cũng không phải là người đã chết
hẳn, vô tăm vô tích. Người chết tạo lập với người
sống một mối quan hệ vô hình nhưng bất tử và vô
cùng thiêng liêng cháu ạ!
Hà ơi, Thu tàn thì đông đang len lén đi tới. Những
cơn gió giao mùa làm se sắt lòng anh. . .
II. HẢI.
Thư thứ nhất của Hải:
Hoàng
Liên Sơn ngày . tháng . năm 1977.
Thu và Con thương nhớ.
Anh đang học tập cải tạo tại miền Bắc Xã hội Chủ
nghĩa. Nhờ sự quan tâm, ưu ái của Ðảng và nhà nước,
nhất là của trại, anh được phép viết thư thăm em
và con, những mong, em và con, cùng bà con chòm
xóm động viên nhau, học tập tốt, lao động tốt, xứng
đáng là một công dân tiên tiến của một nước Xã hội
Chủ nghĩa Việt nam.
Anh vẫn khỏe, lao động tốt, học tập tốt anh luôn
luôn, an tâm tin tưởng vào đường lối chính sách
khoan hồng của Ðảng và nhà nước.
Nhận được thư này, em cho anh biết ngay, em và con
bây giờ có khỏe không, có lao động học tập tốt không?
Sức khỏe của me thế nào?
Ở đây, mỗi tháng, mỗi trại viên được viết thư một
lần, và nhận được thư một lần.
Chúc em và con được nhiều sức khỏe.
Chồng em.
Hải.
Thư thứ hai của Hải
Thu
và con thương nhớ vô vàn của anh.
Nhờ được đi gánh phân trong bản, anh có nhờ một
người dân tốt bụng chuyển thư này về cho em, nếu
thư này có bị phát giác, thì không biết mình sẽ
ra sao? Nhưng cùng quá là bị biệt giam, bị cắt khẩu
phần ăn mà thôi, em đừng có lo.
Thu ơi.
Xa em và con như thế đã hơn sáu tháng rồi. Thời
gian chỉ bằng một cuộc hành quân xa trước đây của
anh mà thôi, nhưng sao bây giờ anh thấy lâu quá
Thu ạ. Còn không gian thì cứ thăm thẳm, đến độ anh
có cảm tưởng, một đứa đang ở dương gian, còn đứa
kia ở tận mãi âm ti, địa phủ. . .
Anh đã nhận được thư của em, nhìn nét chữ quen thương,
anh đã không cầm được nước mắt.
Miền Bắc đang vào mùa Thu, mùa của tên em, mùa của
tên gọi tình yêu hai đứa chúng mình. . . Những lúc
được nghỉ giải lao, anh thường nằm dài trên cánh
đồng, giương mắt nhìn vòm trời thu xanh thăm thẳm,
những đám mây nhẹ đang lững lờ trôi cùng với đàn
sếu, xếp thành hình mũi tên đang bay về phương Nam
nắng ấm. Gần hơn, nhưng cây xoan, cây bàng đang
vào mùa thay lá. Tất cả cùng với Thu, đang rắc vào
lòng anh một nỗi buồn vô tả. . .
Anh lại nhớ có lần, cũng mùa Thu này, cũng đất trời
như thế này, mặt trận Lao Bảo còn sặc mùi thuốc
súng, em đã đến với anh, đến để gõ cửa trái tim
tình yêu của anh.
Anh còn nhớ, em có hỏi:
- Ðại úy đã có người yêu chưa?
Cho đến giờ này, anh vẫn không biết tại sao lúc
ấy anh lại có “ can đảm” tỏ tình, để trả lời em
như thế này;
- Tôi vẫn từng yêu mùa Thu, nhưng cũng như những
áng mây kia, cứ đến rồi đi. Tôi cứ đợi mãi, cho
đến bây giờ, mới co Ô một mùaThu vĩnh cửu của riêng
tôi.
Bỗng nhiên, có trái đạn địch pháo kích gần chỗ chúng
mình đứng, cả phái đoàn nhốn nháo, những người lính
đã mau chóng nhường hầm trú ẩn của mình cho người
hậu phương. Em đã ôm ghì lấy anh.
Một mùa Thu đầu đời đã đến. Tất cả như da thịt đất
trời đang ôm ấp, đang thấm dần vào tận trái tim
anh.
Thu ơi, Những áng mây thu, những lá vàng của mùa
thu, những nắng thu, tất cả rồi sẽ bay đi, trôi
đi. Chỉ có Thu của bốn mùa đất trời, chỉ có Thu
của anh là vĩnh cửu.
Thư thứ ba của Hải:
Hoàng
Liên Sơn ngày. . . tháng. . . năm. . .
Thu và con thương nhớ vô vàn của anh.
Anh đã nhận được thư của em. Thư em viết làm tim
anh muốn ngừng đập nhiều lần. Những lời an ủi của
em, làm cho anh quên hết tất cả những tủi nhục đắng
cay. Anh đã đọc đi đọc lại cho đến nhàu nát, cho
đến thuộc lòng. Hôm qua, anh đã tiếc ngẩn ngơ vì
nó bị ướt rách khi anh khiêng gỗ qua một con suối.
Ðược em cho biết, em và con, cùng cả nhà ta mạnh
khỏe là anh rất mừng.
Thu ơi, một trong những điều, khi nằm trong tù như
thế này, anh vẫn cứ nuối tiếc là, trong những ngày
trận mạc của anh, anh không chăm sóc được gì cho
em và con, thậm chí anh vẫn còn ân hận, ngay cả
khi bé Hạnh ra đời, rồi ngày đầy tháng, sinh nhật
của bé, chẳng bao giờ có mặt của anh. Em hôn con
như một lời tạ lỗi của bố nó cho anh nghe em!
Tây Bắc đang vào tiết lập đông, những cơn gió mùa
đông bắc thổi cắt da, lùa vào tận trái tim anh,
nó như muốn nhắc bảo anh rằng trên đời này, với
anh, nếu không có em, không có hạnh phúc tuyệt vời
của chúng mình thì thế gian chỉ là một khối giá
băng lạnh lẻo. . .
Anh đã nhận được quần áo ấm em gửi. Có điều ngạc
nhiên lý thú là, chiếc áo len em đan rất đẹp, đều
đặn và tinh xảo, ngạc nhiên là vìợ ngày xưa, cả
nhà đều biết, trong ba chị em gái, em là người không
biết may vá thêu thùa. Sao bây giờ em đan khéo quá
như vậy? Nhìn những đường len đan kết, ôm quyện
lấy nhau, đây đó, nổi lên những đóa hoa hồng xinh
xinh. . . Tất cả như hơi ấm của em, như da thịt
của đất trời đang ban phát và ấp ủ lấy thân thể
lạnh đói của anh. . .
Thư thứ Tư của Hải .
Vĩnh
Phú 2. . . ngày. . . tháng. . . năm. . .
Thu và con thương nhớ.
Anh đang học tập cải tạo tại trại Vĩnh Quang, thuộc
huyện Tam Ðảo, tỉnh Vĩnh Phú, anh vẫn mạnh khỏe,
học tập tốt, lao động tốt.
Em và con có khỏe không? Thu ơi! Từ trước đến nay,
anh không bao giờ tin vào những giấc mơ, nhưng thật
là lạ kỳ, mấy đêm nay, hễ chợp mắt là anh mơ thấy
em, em và con đang chìm đắm trong dông bão, trong
biển cả đầy sóng, những đám mây đen, những tia chớp
xé màn đêm, giáng xuống hai sinh linh bé nhỏ, hai
cội nguồn hạnh phúc của anh.
Rồi mới hồi đêm thôi, trong khi bạn bè đang chìm
đắm trong giấc ngủ mệt mỏi, thì anh lại mơ thấy
em, khắp mình đầy máu, quần áo tả tơi, anh còn nghe
thấy tiếng em khóc, tiếng con Hạnh gọi mẹ tuyệt
vọng, tiếng cười man rợ thỏa mãn của bọn hải tặc.
Thu ơi, Em viết thư cho anh ngay đi, em viết cho
anh biết em và con đang làm gì, có mẹ con có an
lành không nghe em!
Anh còn nghe được tin trại cho biết, từ đầu tháng
sau, nhà nước sẽ cho thân nhân trong miền Nam ra
để thăm tù, anh biết chắc rằng, anh sẽ là một trong
những người đầu tiên được găầp lại người thân của
mình sau bao nhiêu năm trời xa cách. . .
Trời ơi, chỉ nghĩ thấy được gặp lại em, được hôn
con, anh đã cảm thấy như mình được tái sinh vậy!
Thư thứ năm của Hải.
Thu
và Con thương nhớ.
Anh đã nhận được quà và thư của em. Biết là em và
con an lành, là anh hết lo sợ nữa rồi. Em còn nhớ
anh Lâm cùng đơn vị với anh không? Thư nhà anh ấy
cho biết, chị Lâm và hai đứa con gái vượt biên,
gặp hải tặc. Cả ba mẹ con đều bị hãm hiếp hết sức
thê thảm. Sau đó, chúng ném chị Lâm xuống biển.
Hai đứa con gái bị chúng đem đi mất. . .
Vừa rồi là đợt thăm nuôi thứ 2 rồi, anh cứ ngóng
trông mãi, nhưng vẫn không thấy em và con ra thăm
anh, tuy nhiên, nếu sức khỏe của em không cho phép
như em nói thì anh cũng an tâm. Những lá thư nồng
nàn, chan chứa tình yêu em gửi anh đều đặn như hiện
nay, cũng đủ nuôi sống anh rồi!. Những dòng chữ
của em, như những dòng máu đang từ từ, hàng tháng,
hàng ngày thấm vào huyết quản, nuôi sống thân anh.
Người ta vẫn bảo, trong những lúc nguy nan, trong
những lúc tuyệt vọng thì mới biết thế nào là tình
yêu, là niềm tin, là son sắt, Thu ạ. . .
Tội nghiệp thay nhiều đồng đội của anh, một con
số không phải là nhỏ, không rõ lý do, đã không nhận
được quà gia đình gửi cho, không có đến một lá thư
nữa. Tội nghiệp cho nỗi tủi thân đầy nước mắt của
họ là chừng nào: Trong lúc, những người khác, trong
đó có anh, đang ngấu nghiến đọc những tâm tư, tình
cảm của người thân, của vợ hiền, của con dại. Trong
khi anh đang ướm thử chiếc áo ấm, hay đang mặc nó,
thì họ ngồi ủ rũ như những pho tượng trên những
tảng đá vắng vẻ. .
Chúa lòng lành đã bỏ quên họ, hay chính những người
thân họ đã dứt tình?
Có nhiều người đau xót biết tin: Người vợ của họ,
đã đi lấy chồng khác, đã mất tích trên đường vượt
biên. . . Than ôi, có nhìn thấy những đớn đau ,
tủi phận của những người ấy, anh càng thấy anh còn
nhiều hạnh phúc, cám ơn em! Cám ơn Thu, em là nguồn
sống, là tia sáng đang chiếu rọi, đang dẫn dắt cho
anh trên con đường vạn lý để tìm về một nẻo thiên
đường, có hạnh phúc của em và của con vẫy gọi.
III. HÀ.
Thư của Hà gửi cho cháu Hạnh:
Hạnh
tội nhiệp của cô Hà.
Cô viết thư này cho Hạnh, đúng vào ngày 49 của mẹ,
đúng vào ngày sinh nhật thứ 12 của con.
Cô đã nhận được thư của con, ảnh chụp đám tang của
mẹ. Cô đã ôm những vật đó vào lòng để khóc thương
cho người chị xấu số của mình, khóc thương cho đứa
cháu côi cút của mình, khóc cho ba cháu, người chồng
chung tình, đang ôm ấp hình ảnh vợ hiền, con ngoan
để sống trong một thời gian tủi nhục đớn đau.
Hạnh ơi, những ước nguyện của mẹ, những ý muốn của
con, những điều chỉ bảo của bác Thanh về những việc
cô phải làm đối với ba của cháu. Cô đang làm. Cho
đến giờ, ba con vẫn còn tin, tin mãnh liệt là mẹ
con vẫn còn sống. Còn đang ở Việt Nam. Còn đang
cận kề với định mệnh xót xa của ba. Còn đang cặm
cụi ngồi đan hết chiếc áo len này đến tấm áo len
khác, cho mùa rét này, cho mùa đông khác. . .
Tất cả thư của ba con, cô đều đọc rất kỹ. Sau đó,
cô để ngay trên bàn thờ có bài vị của mẹ, khi nào
nhận được thư mới, cô cất thư cũ trong một cái hộp.
Cô coi như đó là bảo vật của chính cô.
Hạnh ơi, mỗi lần thắp nhang cho mẹ, nhìn lá thư
của ba con, phủ đầy những tàn nhang, lòng cô quặn
đau. Dòng nước mắt của cô như đang chia ra làm ba
ấy, một cho mẹ, một cho con, một cho người tù khổ
sai ở tận cuối trời. . .
Cô gởi kèm theo đây, những tờ giấy trắng học trò,
để con viết thư cho ba con, nhiều thư ba nhắc, ba
muốn được đọc thư của con. Cô còn một điều này nữa,
rất khó khăn cho mình, là ba con luôn luôn mong
mỏi, thậm chí nài nỉ là được mẹ con dẫn con ra ngoài
Bắc thăm ba. Trong thư vừa rồi gửi cho ba, cô có
nói là mẹ con không được khỏe, còn con thì đang
phải học. Thôi cứ lần lữa như thế đi, Hạnh nhé,
nhớ viết thư cho ba, gửi về ngay cho cô.
Cho cô gửi lời thăm bác Thanh, chú Hoàng.
Hôn con tội nghiệp.
Thư của Hà gửi chị Thanh.
Em
có một thói quen, mỗi khi viết thư cho anh Hải là
em lại viết thư cho chị, sau khi viết xong hai lá
thư, em đem thư em viết cho anh Hải, đặt trên bàn
thờ, em thắp nhang cho chị Thu, em có nói với chị:
- “ Chị ơi, chị đọc lại lá thư này đi xem em viết
có đúng ý chị không, những lời, ý trong thư này,
thực ra không phải của em, em đã chép lại những
ý chính của chị trong cuốn nhật ký, chị đã cẩn thận
gửi em cất giữ. Em tin rằng, ở nơi suối vàng cô
quạnh kia, chị có thể mãn nguyện là tấm lòng của
chị đối với anh đã được em gửi đến tận trái tim
của anh rồi.”
Chị Thanh ơi, mỗi lần như thế, mỗi lần cầm lá thư
em viết cho anh Hải như thế, bỏ vào thùng thư, em
có cảm tưởng, một người đang ở trần gian, chuyển
thư của một người vợ dưới cõi âm cho người chồng,
cũng ở dưới âm phủ.
Rồi em còn có cảm tưởng em như một ông Tề Thiên
Ðại Thánh, đang hóa thân của mình, thổi phù một
cái để trở thành hàng trăm hàng ngàn ông Tề thiên
khác.
Trong những thư anh Hải viết về nhà, ngoài những
thư anh nhờ dân gửi giùm như trước đây ở Yên Bái,
anh đều không nói đến những sinh hoạt của trại nhưng
những người đi thăm nuôi về họ kể lại, là ở ngoài
ấy, các anh khổ sở trăm bề. Có người còn đoan quyết
rằng: Nếu chuyện địa ngục là có thật, thì các anh
ấy, những người con yêu dấu của tổ quốc, đang sống
trong một địa ngục, được thiết lập ngay tại trần
gian này. Họ đã bị đối xử còn quá hơn con vật: Mỗi
tuần chỉ có một ngày, một bữa với hai chén cơm lưng,
những ngày còn lại phải ăn toàn ngô sắn, lại không
được no. Các bà ấy kể rằng, nhìn những người chồng
ăn ngấu nghiến những lát cơm nóng bà ấy nấu nhờ
trong nhà “ Hạnh phúc” của trại, mà các bà ấy phải
khóc òa lên. . .
Thư của Hà
Chị
Thanh yêu quý.
Thư này, em viết cho chị ngay vào giờ phút giao
thừa. Trong một năm, giờ phút này, nó bắt ta phải
tìm về ký ức nhiều nhất. Em lại vốn ghét ký ức,
vì nó là nguồn cội của mọi khổ đau. . .
Căn nhà của chúng mình, thời trước đầm ấm quây quần
là dường nào, thì nay vô cùng đơn lẻ . Nửa tháng
trước em đã đem quần áo và đồ dùng gửi cho anh Hải,
lần này, không phải bằng bưu điện mà gửi theo một
chị ra thăm chồng ở cùng trại với ảnh.
Anh Hải luôn luôn nhắn chị Thu ra thăm cho anh gặp
mặt, thư nào cũng vậy. Tội nghiệp anh ấy, vào những
ngày giáp tết như thế này, nhìn thấy người ta lũ
lượt thăm chồng, không biết là nỗi tủi thân của
anh ấy chua xót là chừng nào?
Càng nghĩ như thế, em càng khổ tâm, em càng băn
khoăn đến câu chị viết cho em trong lá thư mới nhất:
. . . “ Gia đình mình, có ba chị em gái, thì mất
hai người , chị và Thu đều mắc nợ của Hải, tuy rằng
vận nước đã kéo theo biết bao nhiêu khắc nghiệt
cho biết bao nhiêu con người, nhưng những liên hệ
tình cảm ấy, làm cho chị vẫn mang một nỗi khắc khoải
không nguôi.”
Chẳng lẽ, chị và chị Thu, nợ ảnh, còn em cũng nợ
ảnh luôn hay sao?
Em đang bị hóa thân thành nhiều người. Lúc thì là
chị, lúc thì là Hạnh, nhiều nhất là chị Thu. Có
những lúc, đang thay chị Thu viết thư cho anh Hải,
em đã khóc, em đã tự hỏi:
. . . “ Mình là ai kia kìa?”
Trước kia, mỗi khi viết thư cho anh ấy, em phải
tự đặt mình vào tâm trạng của chị Thu, tìm những
tâm tư tình cảm của chị trong cuốn nhật ký, rồi
khó khăn lắm em mới giàn trải lên trên trang giấy
được, nhưng bây giờ em đã không có những khó khăn
ấy nữa! Em viết cho anh Hải bằng chính cái tâm của
em, bằng chính những nhịp đập trong trái tim em.
Và hình như có một chất men gì đã thấm lịm, đang
đưa đẩy em vào một cõi thiêng liêng. . .
Còn một điều ngở ngàng này nữa đang xẩy ra cho em,
em đã bồn chồn khi chậm nhận được thư của ảnh, em
đã khóc vùi khi đọc thư của ảnh, em đã xót xa khi
những cơn gió giao mùa thổi đến với câu hỏi chứa
đầy nỗi băn khoăn:
. . . “ Bây giờ anh ấy ra sao?”
Chị Thanh ơi, chị đã từng
yêu, tâm trạng của người con gái khi bắt đầu yêu
nó như thế nào hả chị? Con tim của người đang yêu
và hành trình của nó, bắt đầu từ đâu, rồi nó dẫn
dắt mình đi đến đâu hả chị? Rồi em lại nghĩ, tên
anh là Hải, hải là biển cả, nước sông cứ trôi, trôi
trăm năm ra biển cả mênh mông!
Trời ơi! Cứ nghĩ đến việc em yêu anh ấy, em không
biết, hạnh phúc hay bất hạnh đang đến với em đây?
Nếu em yêu anh Hải, thì thật là cay nghiệt, thật
là xót xa, thật là sự an bài trớ trêu của định mệnh,
mà không có một nhà văn nào, không có một ông đạo
diễn nào có thể làm nổi, ngoài ông trời: Có nhà
nào, có hai cô con gái, cả hai cô đều yêu một người?
Một câu hỏi nữa lại đến với em: “ Em yêu anh Hải,
em có lỗi với chị không? Có lỗi với chi Thu không?
Có lỗi với cháu Hạnh không? Hay có lúc em còn lẩn
thẩn, em có lỗi với anh Hoàng không? Với chị và
anh Hoàng, em nghĩ rằng không! Nhưng với chị Thu
và cháu Hạnh thì sao? Có lần em đã đem câu hỏi này,
hỏi chị ấy. Trong làn khói lung linh, em nhìn chị
để tìm câu trả lời. Có lần em thấy chị cười, có
lần em thấy chị như muốn khóc, như vậy là làm sao
hả chị Thanh?
Người ta bảo cõi âm, hay nước Chúa là cõi vĩnh hằng
nhưng đối với những linh hồn đã được siêu thoát,
đã trang trải xong nợ nần thế sự kia kìa, với những
người còn mắc nỗi oan tình, thì vẫn còn vấn vương,
vẫn còn lẩn quất. Em đã nhiều lần khấn chi Thu như
thế này:
. . . “ Chị ơi! Nếu chị có linh thiêng, xin về báo
mộng cho em, xin trả lời em một câu hỏi duy nhất:
Em phải làm gì cho chị, cho anh ấy?”
Nhưng tuyệt nhiên không thấy
chị ấy hiện về. Như thế có phải là không có cõi
khác ư? Con người khi dời dương thế,là đã siêu linh
tịnh độ, là đã bắt đầu đi vào đoạn cuối của một
con đường, đã vào hẳn nơi gió bụi để biến thành
những hạt cát vô hồn không hả chị? Hay chị ấy không
muốn về, không muốn trả lời những câu hỏi mà không
một ai, có thể trả lời em được, phải vậy không hả
chị Thanh?
Nhưng, . . . Em biết chắc một điều, trước mặt em
bây giờ, tạo vật và đất trời, đều đổi khác cả, đều
đáng yêu cả. Ánh sáng chiếu vào phòng dậy muộn,
tiếng chim gọi nhau về tổ, tiếng lá cây rơi chạm
đất, em cứ ngỡ như tiếng con tim em đang rạt rào,
đang chờ đợi. Con bạn em nó bảo: “ Chờ đợi là hạnh
phúc. Còn cái gì đã nắm bắt được thì càng lâu càng
chán. . .” Phải vậy không chị?
Em xin ngừng viết, với câu hỏi chị phải trả lời
cho em càng sớm càng tốt: “ Em có nên đi thăm anh
Hải không, và em sẽ nói với anh Hải như thế nào?”
Chị trả lời em ngay, chị Thanh nhé!”
Thư của Hà gửi chị Thanh.
Em
đã nhận được thư của chị, và bây giờ, Em đang ngồi
trên chuyến tầu xuyên Việt! Chị biết không: Ngay
khi nhận được thư của chị thì em đã có tất cả những
câu trả lời cho em rồi. Em đã chờ chị sẽ viết “
Cứ ra thăm Hải đi, cứ nói là chị Thu đã qua đời
rồi đi, cứ nói luôn nỗi lòng của em đi?” . . . Em
bồn chồn chờ chị trả lời như thế, và chị đã viết
như thế thật!
Chuyến đi này, khởi đầu bằng tất cả sự náo nức bồn
chồn của em, khởi đầu bằng những câu hỏi không có
ác ý của những bà đi thăm chồng, cùng đi một chuyến
tầu:
- Ra thăm bố con hả?
- Bố cháu ở trại nào?
Em đã không trả lời, rồi nhắm mắt, ngồi nghe tiếng
bánh xe nghiến trên con đường sắt, em đắm mình trong
một cảm giác: Có ông bụt đang quay cuộn chỉ thời
gian, đang chở cả một mùa xuân trên chiếc xe hỏa
cũ kỹ, cho kì ngộ đến gần. . .
Em sẽ không kể cho chị nghe,
em phải trèo đèo lội suối như thế nào, mới tới được
một khu trại, trại Vĩnh Quang 2 vào lúc trời nhờ
nhờ tối, những vòm tre nghiêng nghiêng đã ngả sang
mầu nâu thẫm rì rào theo gió đẩy đưa, mắc lên trên
ấy một mảnh trăng liềm . . . Ðứng trên con dốc nhìn
xuống, chỉ thấy những mái nhà lờ mờ, âm u rờn rợn.
Em có cảm tưởng như em đang đứng trước một hang
động có con quái vật đang giam giữ người thân của
mình.
Người ta đã dẫn em đến căn nhà “ Hạnh phúc”. Ðó
là một dẫy nhà tranh vách đất, được chia ra nhiều
gian, được phân ra làm nhiều ngăn thành những “
phòng” nhỏ, bằng những tấm màn hoa sặc sở. . .”
Người cán bộ nói giọng lơ lớ:
- Các anh ấy đang đi lao động ở trên Tam Ðảo, tối
mai mới về. Chúng tôi sẽ chiếu cố cho các chị, ngay
tối mai. . . A! Các anh này, trong quá trình học
tập đều không có vấn đề gì. Trại sẽ chiếu cố cho
các anh ấy, được ngủ lại đêm với các chị tại đây”
. . “ Chiếu cố cho ngủ với nhau một đêm!” Các bà
vợ nghe đến đây thảng thốt nổi sung sướng. Còn em,
nhìn những chiếc giường đơn trong những ô có kéo
vải kia, em không biết phải tả cho chị nghe như
thế nào nữa, cái cảm giác lúc đó nó lạ lùng như
thế nào nữa. Chỉ biết lúc đầu, mặt em lạnh toát.
Rồi bừng đỏ. Rồi như người đang lên cơn sốt. Rồi
như có một cục than hồng đang di chuyển sát tận
mặt em, đang từ từ tiến vào các mạch máu, rồi chạy
rần rật khắp cả châu thân em.
Sáng hôm sau em dạy sớm, nhìn
qua cửa sổ, sương lạnh còn là đà mặt đất, em đã
thấy các tù nhân làm việc từ hồi nào. Vườn rau xanh
với những vuông luống thẳng tắp như những lằn kẻ.
Những người tù, kẻ thì gánh nước, kẻ đang cuốc đất,
người đang nhổ rau. Tất cả như những hình nhân,
chập chờn, chới với trong một màn sương mù ảm đạm.
Khi nắng đã bắt đầu lên, khi sương đã tan, các người
tù vẫn cặm cụi làm việc. Bốn góc vườn có bốn người
cảnh vệ, đang chĩa những họng súng về phía họ. Các
anh ấy, những người tù, thỉnh thỏang lại liếc nhìn
về chúng em. Có anh làm bộ đi lấy một cái gì đó
để tiến gần hàng rào tre, hỏi một câu bâng quơ,
nhưng chan chứa nỗi khao khát:
- Ở trong Nam ra đó hả?
- Anh ấy ở đội mấy, tên là gì?.
Trời ơi, không thể tưởng tượng được rằng, đó là
những sĩ quan đã một thời làm thổn thức trái tim
của biết bao nhiêu thiếu nữ ở hậu phương, đã chiến
thắng biết bao cuộc hành quân, làm tan vỡ biết bao
nhiêu chiến dịch công kích của địch quân. Bây giờ
trông kìa! Những bộ quần áo tù, màu lam, rách rưới,
hờ hững ôm lấy những mảnh thân gầy! Chúa, Phật quả
đã bỏ quên họ mất rồi!
Trời chập choạng tối. Người cán bộ tập họp các thân
nhân vào gian nhà chính. Hắn nói:
- . . . “ Chúng tôi có buổi họp này để đả thông
tư tưởng cho các chị, trước khi các chị gặp chồng.
Việc các chị được gần gũi các anh ấy là một ân huệ
hết sức to lớn của Ðảng, vì thế các anh các chị
có vui vầy, cũng không được quên động viên nhau
học tập tốt, lao động tốt để sớm trở thành công
dân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Hắn nói huyên thiên, sau đó hắn nói:
- Các chị đã được chỉ định “ Làm chủ” cái giường
của mình, chị nào ngồi ngay vào những cái giường
ấy. Các anh ấy sẽ đến ngay.
Em ngồi khép nép bên mép giường,
một cảm giác vừa xấu hổ, vừa tê tái: Em giống như
giai nhân chờ đợi tân lang trong một đêm động phòng
hoa chúc. . .
Khi em nghe những tiếng ồn ào ào ập tới thì anh
ấy đã đứng ngay trước cửa phòng. Ðúng anh Hải rồi!
Như một cục nam châm, chúng em chạy đến ôm nhau,
nhưng khi hai đôi môi đang run rẩy tìm đến nhau,
chỉ một tích tắc ấy, em đã nhớ ngay đến chị Thu,
em đã đẩy Hải ra:
- Hà đây, Hà đây mà!
Anh bật người ra phía sau, hai tay buông thõng.
Trong bóng tối nhờ nhờ của ô phòng hẹp, anh như
một pho tượng, lạnh băng. Em nhòa nước mắt. . .
Giọng anh đứt quãng:
- Chị đã. . . làm sao rồi phải không? Hà ơi!
- . . .
- Trời ơi! Thu ơi!
Ðêm hôm ấy, trên chiếc giường
chỉ đủ cho một đôi vợ chồng lâu ngày mới gặp. Trời
lại mưa, một cơn mưa trái mùa. Gió lùa hun hút.
Ðêm dài mưa rơi, em có cảm tưởng đếm được từng giọt
buồn se sắt thấm vào tận ruột gan của cả em lẫn
Hải.Trong tiếng rì rầm, tiếng áo quần sột soạt,
tiếng khóc rấm rứt. Tiếng kẻng cầm canh rời rạc.
Tiếng con chim cú lạnh lùng trên chái nhà. Tiếng
con vạc sành khắc khoải kêu sương. . . Em cứ tê
cứng, cứ như lịm đi. . .
Rồi lại cứ khoảng vài giờ, một giọng nói cùng với
ánh đèn pin loang loáng vang lên:
- Các anh nằm tại chỗ điểm danh cho tôi.
“ Nằm tại chỗ điểm danh”! Người trả lời, từ những
cửa miệng đang thì thầm, từ những hơi thở đứt đoạn,
như từ những dấu chấm của một đoạn văn bi ai.
Chị Thanh ơi! Chị có biết cái cảm giác vừa ngây
ngất, vừa rạo rực, vừa khó chịu của em khó diễn
tả như thế nào không? Hình như em không còn có thể
kiểm soát được hơi thở của em nữa! Tai em lùng bùng,
mắt em nhạt nhòa. Cảm giác ấy, cứ như ngọn hải triều
dấy lên từng đợt, từng đợt! Có nhiều lúc em muốn
lấy hết can đảm, muốn nghiêng người, ôm chặt lấy
anh, hôn lên đôi mắt của anh, mà em biết chắc, anh
ấy cũng đang khóc. . .
Còn Hải như một vách đá dựng thẳng đứng, nhô lên
trên mặt nước giá băng. . .
Cả hai đã không chợp mắt, cho đến khi trời sáng,
hai người vẫn như còn nhiều ấm ức. . .
Những người tù đã có lệnh
về trại, em và Hải đứng chôn chân nhìn nhau, em
thấy rõ hơn khuôn mặt thanh tú của Hải, những nét
phong trần đã hằn ra trên trán, bên khóe mắt đẫm
buồn . . Và trong cái nét khắc khổ như một nhà tu
khổ hạnh ấy, em có cảm tưởng, anh như một cây tùng,
đứng trơ vơ trong tuyết lạnh.
Tránh cho mình khỏi khóc, em ngước nhìn lên bầu
trời có ngôi sao mai đang ngân ngấn lệ . Xa xa,
những đám mây trắng xóa đang ôm ấp lấy ngọn Tam
Ðảo. Dưới thung lũng, có hai cánh cò trắng dìu nhau
là đà. . .
Hải nói nhỏ đủ cho em nghe:
- Em phải đi đi. Nghe anh, anh có thể tự lo liệu
được.
Nắm chặt hai cánh tay khô khốc của Hải, em bật khóc:
- Không bao giờ, em sẽ thay cho chị, mãi mãi chờ
anh về. . .
Em ôm lấy Hải, say đắm như
ôm một người tình, còn Hải hôn lên trán em, nhẹ
nhàng như hôn một đứa bé.
KẾT.
Hoàng
đứng tựa lưng vào một gốc cây. Nhìn hai chiếc bóng
trơ vơ của Hà và Hạnh, cùng một màu áo đen tuyền,
đang đứng chắp tay trước ngôi mộ phẳng lì, xanh
sẫm của cỏ, sương chiều lãng đãng. Tiếng côn trùng
rên rỉ như một khúc nhạc buồn, như một nỗi sầu thảm
ngấn đọng khắp không gian.
Giống như người vừa qua thời kỳ mất trí nhớ, anh
lần ngược lên tận những nơi xa xăm của ký ức để
tìm đến một vùng trận mạc. . .
. . . Ðó là vào
năm 1972, vào mùa hè nóng bỏng của đất trời và chiến
trận. Ðơn vị Hoàng vừa tái chiếm xong Cổ thành Quảng
Trị. Tất cả những vật trên mặt đất dù hoang tàn
đổ nát nhưng như đang được hồi sinh sau một cơn
ác mộng khủng khiếp.
Những tà áo mầu tung bay trong gió, những khuôn
mặt tươi cười diễm lệ bên cạnh những khuôn mặt khô
khốc vì khói súng, vì mất ngủ.
Trung tá Hải gọi máy cho Thiếu úy Hoàng:
- Qua đây, qua đây Hoàng ơi, bắt giùm cho tớ con
kỳ đà này với. . .
Con kỳ đà này là một cô gái, đẹp như một đóa hoa
hồng ướt đẫm sương mai, Ðôi mắt ươn ướt, lúc nào
cũng như đang sắp khóc. Có lúc lại nhí nhảnh như
một con chim sơn ca, như một dòng suối hồn nhiên
mê đắm. . .
Hoàng đứng như trời trồng
trước hai giai nhân, anh ngơ ngẩn đến độ, anh lẩn
thẩn nghĩ rằng, nếu có một ông bụt đến thưởng công
cho Hoàng, cho phép anh chọn một, anh phải có một
thời gian dài đắn đo, mà vẫn không biết chọn ai.
. . Hai cánh tay tiên chìa ra:
- Tôi là Thu
- Em là Hà.
Hoàng giả bộ sửa lại quân phục cho ngay ngắn, rồi
đứng nghiêm như đang trình diện thượng cấp:
- Còn tôi, trước hai mỹ nhân, như những tiên cô
hiện ra trong làn khói súng chiến trường này. Bàng
hoàng quá, nên đã quên mất tên của mình rồi!
Có tiếng khóc nức nở từ trong lều vải. Hoàng im
bặt vì biết mình đang đùa cợt không đúng lúc. Ngay
sau đấy anh biết, người đó là chị Thanh, chị của
Hà và Thu
Chị Thanh nhờ một anh quân nhân dẫn đến thăm căn
hầm chỉ huy, nơi Thái đã gục ngã. Thu và Hải cứ
quấn lấy nhau. Hà cười:
- Nhờ anh đưa con kỳ đà cái này đi chơi đi, anh
vô danh ơi!
Hoàng dẫn Hà đi một vòng,
tất cả chỉ thấy tang thương và đổ nát. Hai người
đến ngồi cạnh bờ sông. Con sông Thạch Hãn, mới tháng
trước đây thôi, cuồn cuộn đạn bom. Hôm nay, y như
một bà mẹ hiền từ, lặng lờ chảy. Nước sông như làm
dịu hẳn đi không khí quay quắt của mặt trận. Tại
triền sông bên kia, đám chim tản mạn tìm mồi. Ánh
sáng loa lóa từ mặt sông. . . Một làn sương mỏng
lang thang trên mặt nước, đang lững lờ trôi về phía
hạ du.
Hoàng lấy một cục đá ném ra giữa dòng: “ Quân bất
kiến Hoàng-Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu
đáo hải bất phục hồi”. Bất phục hồi! Ðừng trở về
nữa! Ðừng trở về nữa!
Hà ngạc nhiên, Hoàng muốn nói ai không trở về nữa
cơ chứ?
Có tiếng cười to của Hoàng. . .
Hà nói:
- Các anh cực khổ quá mà cũng cười đùa được, kể
cũng hay thật.
Hoàng lại cười:
- Chẳng lẽ lại khóc hay sao?.
Rồi giọng anh trầm hẳn xuống:
- Cô biết không, những người lính chúng tôi đang
đếm sự sống bằng tiếng tích tắc của thời khắc, chúng
tôi lúc nào cũng như đứng giữa đường biên của cuộc
sống trần thế và thế giới của cái chết. Sống chết
quân bằng! Phù du lắm, mong manh lắm cô ạ! Cái gì
cũng thích làm ngay, cứ như thể, nếu để một lát
nữa thôi, một viên đạn địch sẽ cắt đứt mọi hoài
bão, mọi toan tính, mọi lời thề thốt . . Nên tôi
thích ngồi nhìn những dòng sông là như thế. Ở quê
tôi cũng có một dòng sông, con sông Thu Bồn ấy mà,
nó đã ôm mát cả tuoiẩ thơ của tôi. . . Ôi ! Cô Hà
biết không, Có những đêm trăng, đêm trăng biếc,
có cả ngàn vì sao xuống đấy gội đầu, có những đợt
sóng chao lên tiếng nấc. . . Còn cô, Cô lại mang
tên là Hà, thích thật!
Hà nói: Tôi tên là Hà, tôi cũng thích những dòng
sông chảy trôi. dòng sông thì cứ trôi, trôi trăm
năm và trôi cả ngàn năm. . .
Hà bước xuống bờ sông, rồi quay lại cười:
- Sao ngồi đờ đẫn ra như thế hả ông phỗng, nhớ người
yêu à! Gửi thư tôi mang về cho, nhân tiện xem mặt
cô bé nào đang làm chủ trái tim của viên “ Sĩ quan
đào mỏ” này!
- Sao cô biết biệt danh của tôi?
- Mới đặt chân đến đây, anh Hải đã kể chuyện ấy
rồi, ảnh còn nói, không có anh, chưa thể nào diệt
xong cái chốt lì lợm ấy đâu. . .
Cái chốt ấy, nằm ngay phía
tây của Thành cổ đã tan nát vì bom pháo của cả hai
phía. Cứ mỗi một đợt xung phong, là từ đó, những
tên bắn sẻ của địch đốn ngã một người. Hoàng nhẩm
tính không biết đến bao nhiêu đồng đội của anh đã
ngã gục tại đây. Phải chiếm nó với bất cứ giá nào!
Anh đem dự định ấy nói với Tiểu đoàn trưởng Hải.
Trung tá đắn đo: “ Liều quá, mình không muốn. .
.” Nhưng Hoàng cố gắng nài nỉ mãi. . .
Thế là cứ đến chập tối. Ðại đội của Hoàng thay phiên,
cứ ba người một, một người đào, một người xúc cát
đá vào bao cát, và một người mang ra đổ phía sau.
Ban ngày, công việc tạm ngưng, nhường lại cho không
và pháo yểm.
Khi đường hầm chỉ còn cách cái chốt quái ác ấy không
xa, khi các binh sĩ ta đã bắt đầu nghe được tiếng
rì rầm của bọn cán binh. Anh chọn khoảng một tiểu
đội, nai nịt gọn gàng. Những tràng pháo binh bắn
cận điểm đã ngừng. Anh cùng đồng đội bò gần đến
những miệng hầm. . .
. . . Một tia chớp cùng với tiếng nổ trầm trầm vững
chải. Mật hầm tung lên, Ðất cát bay rào rào cùng
với những tiếng la thất thanh của quân địch. Hoàng
và đồng đội vùng dậy, lao lên, siết cò. Tiếng súng
nổ giòn giã như tiếng gõ nhịp của một khúc quân
hành hùng tráng, thôi thúc anh và đồng đội tiến
lên. . .
Hoàng ngước nhìn trời đêm thăm thẳm. Anh thật không
ngờ sự việc lại dễ dàng chóng vánh đến như thế.
. .
Hải ngồi ngay bên máy truyền tin. Anh nghe rõ những
tiếng lựu đạn nổ rời rạc, âm u. Những tràng súng
sắc lạnh, hối hả. Rồi tiếng của Hoàng nổi lên:
- Nhân vị đây 1, chúng tôi đã làm chủ cái chốt Alfa
rồi.
Ðêm ấy, thật yên tĩnh! Hóa ra cả một Cổ thành đổ
nát như thế này, đại đơn vị của Cộng quân, lớp đã
rút lui, lớp bị tiêu diệt, chỉ còn lại cái chốt
quái ác này. . .
Ðến sáng, Hoàng cho bung ra lục soát, trong mùi
tử thi xông lên nồng nặc. Anh đã tìm thấy thân xác
đã rữa ra của Thái. .
Có tiếng Hà:
- Thi sĩ đang làm thơ đấy à? Ở đây, sông nước đâu
mà ca bài Tương tiến tửu?
- Chị thấy không? Dòng sông và dòng đời đang là
một tiền định “ Trôi trăm năm và trôi cả ngàn năm!”
Hà đùa:
- Này! Không được phép gọi “tui” là chị nghe không?
Phải gọi bằng dì. Thưa dì Hà, cháu là Hoàng, có
điều bẩm báo. . .
- Vâng cháu xin bẩm báo với nãi nãi rằng: Nãi nãi
ới! Nải nải có thấy không, nước sông đã trôi?. .
. Sông đã trôi ra biển!
Hà cười buồn, cô nhìn về phía mộ Thu, như phân bua
với một nẻo hư không:
- Ðâu có còn nồng nàn như chú với con Hạnh đâu,
nhưng tôi với anh Hải bây giờ không còn phải chờ
đợi nữa, chúng tôi đã ăn chung bữa, ngủ chung giường
, Có chung những cảm giác ân ái nóng bỏng, và đã
có hai đứa con chung. Chúng tôi đang đi chung một
con đường, nhưng thật chua xót, tôi và Hải vẫn có
một cái không chung: Cuộc đời riêng!
Anh nhìn xuống mặt nước hồ xanh sẫm. Gió thổi làm
những chiếc lá úa tàn cứ như xoắn lại với nhau
Nguyễn
Trọng Hoàn
Kiếp Này Em Gánh Lời Thề - Nguyễn Trọng Hoàn
I. THU
Thư của Hoàng:
Hà
thân.
Anh báo tin cho bác và Hà biết: Chị Thu, cháu Hạnh
và anh đã đến trại tị nạn Songkla. Nhưng, thật không
may, tất cả những phụ nữ trên tầu đã gặp nạn. Ðàn
ông có một số bị ném xuống biển, còn anh chỉ kịp
ôm lấy cháu Hạnh, đẩy cháu vào khoang chứa những
thùng nước ngọt. . .
Hà và bác cứ yên tâm, anh sẽ làm hết sức mình để
chăm sóc cho chị, chăm sóc cháu Hạnh.
Anh có nghe tin, các sĩ quan “ Có nợ máu” đều phải
đem ra ngoài Bắc “ học tập” cả, anh Hải chắc cũng
bị đem ra ngoài ấy thôi. . .
Thư của Hạnh.
Bà
ngoại ơi! Cô Hà ơi!
Cháu là Hạnh đây, cô ơi! Mẹ cháu đang nằm bệnh viện
của tỉnh, người ta đã phải chuyển mẹ cháu từ trạm
xá của trại ra đây, cháu đã phải nhờ các bác, các
chú đến trước, biết tiếng Anh, xin mãi họ mới cho
cháu được theo mẹ ra đây. Khoan. . . Cháu bận một
chút việc. Cháu tạm ngừng viết một chút.
Vừa rồi, cháu đi lấy thêm mền để đắp cho mẹ. Não
lòng quá cô ạ, mẹ cháu vẫn cứ thiêm thiếp. . .
Cháu không biết nói tiếng Anh, họ lại không biết
tiếng Việt, nên mỗi khi tìm một y tá hay một bác
sĩ cho mẹ cháu, rất khó khăn. Cũng may có chú Hoàng
ngày đêm ở cạnh, không có chú ấy, không biết cháu
và mẹ cháu sẽ ra làm sao? Thôi, để lần sau cháu
viết nhiều cho Cô nghe.
Bà ngoại có khỏe không hở cô?
Thư của chị Thanh.
Hà
ơi.
Chị vừa ra bưu điện gửi tiền và quần áo cho Thu
và cháu Hạnh, chị cũng đang chuẩn bị sang Thái để
thăm Thu. Cả nhà yên tâm, máu chảy ruột mềm, chị
sẽ làm đủ mọi cách để đem Thu và cháu Hạnh qua Mỹ
càng sớm càng tốt.
Chị đã gửi tiền về cho gia đình theo đường dây của
nhà cậu Ðăng, em viết thư ngay cho chị, nhớ trả
lời chị những câu hỏi như sau:
- Tình trạng của mẹ làm sao? Cô Dự mới phone cho
chị, cổ nói mẹ phải đi bệnh viện, có phải vậy không?
- Ðã nhận được tin của Hải chưa? Chị có nghe nói,
những sĩ quan cao cấp của mình, đa số bị đem ra
giam giữ tận ngoài Bắc, lại vô cùng khốn đốn, có
phải vậy không?
Chị viết thư này, Cali đang vào mùa Giáng sinh,
Việt Nam năm nay, chắc chẳng có ai nhớ đến ngày
Chúa ra đời đâu Hà nhỉ? Lại sắp gần tết bên ấy rồi.
Ôi, cứ nghĩ ngày tết của năm 1972, rồi nghĩ đến
tết lần này, chị lại não lòng. Năm đó, cả nhà ăn
một cái tết rất đầm ấm, phần để mừng cho chị được
vào nhà dòng, Phần cho chị nguôi ngoai nỗi khổ đau
của người vợ trẻ chết chồng. Ôi, viết cho Hà mà
chị có cảm tưởng như anh Thái đang hiện về trước
mặt chị, đang thì thầm cùng chị.
Bằng cách này hay cách khác hãy giúp đỡ, cầu nguyện
cho những đồng đội của anh ấy, mong sao họ đủ can
đảm để vượt qua được cảnh tai trời ách nước này.
. .
Thôi chị không viết nữa, chị chờ thư của Hà trả
lời những câu hỏi vừa rồi của chị. Hôn me cho chị.
Thương em.
Thư của Hạnh:
Bà
ngoại ơi! Cô Hà ơi,
Mẹ cháu đã tỉnh rồi, trời ơi! Cô ơi! Không thể kể
xiết cho cô nghe nỗi vui mừng của cháu và của chú
Hoàng khi thấy hai bàn tay của mẹ cháu cử động được,
hai mí mắt giật giật, từ từ mẹ cháu mở mắt, nhưng
lạ lắm cô Hà ạ, khi chú Hoàng ghé vào tai mẹ cháu,
hỏi:
- Chị Thu, chị nhận ra cháu Hạnh không?
Mẹ cháu gương mặt hốt hoảng, rồi như muốn dùng hết
sức của mình, ngồi dậy nhưng nào có ngồi được đâu.
Chú Hoàng phải nói:
- Chị cứ nằm yên, chưa dậy được đâu, chị cần gì
cứ nói với em?
Cháu cứ tưởng mẹ cháu sẽ hỏi đến ba cháu, nhưng
không, mẹ cháu muốn tung tấm chăn ra, nói như hét:
- Cho tôi đi tắm, cho tôi đi tắm ngay.
Cháu thấy chú Hoàng nói:
- Yên tâm đi chị, chị còn yếu lắm.
Mẹ cháu từ từ nhắm mắt, rồi cứ thế, nước mắt của
mẹ cháu tiếp tục chẩy, chú Hoàng đưa cháu cái khăn
rồi nói nhỏ:
- Cháu lau nước mắt cho mẹ, chú đi pha sữa.
Giọng chú sao khác với ngày thường, cháu nhìn theo,
hình như chú cũng lau nước mắt thì phải.
Mẹ cháu khóc, chú Hoàng khóc, thấy vậy cháu cũng
òa lên khóc
Thư của Hoàng
Hà
thân nhớ
Anh đã đưa chị Thu và cháu Hạnh trở lại trại tị
nạn, chị đã ăn được một chút. Thể chất thì có cơ
may bình phục được, nhưng tâm hồn của chị ấy thì
đã vỡ tan tành rồi.
Chiều hôm qua, anh và cháu Hạnh dìu chị ra bờ biển,
chị hỏi anh:
- Việt Nam ở hướng nào vậy chú?
Rồi chị lặng lẽ, bất động, đôi mắt vô hồn hướng
về biển cả, mặt biển chỉ toàn là sóng bạc đầu, toàn
là những con hải âu chao qua, nghiêng lại, để cùng
với những cơn gió lạnh từ mênh mông của biển trời
thổi đến. . .
Bỗng anh nghe chị Thu thở dài, đứt đoạn:
- Hải ơi! Giờ này, người ta đang giam anh ở đâu?
Chị khóc, cháu Hạnh khóc, anh cố giữ không cho nước
mắt trào ra. . .
Thư của Hạnh.
Bà
Ngoại ơi! Cô Hà ơi.
Cháu đã gặp bác Thanh, hôm qua, chú Hoàng dìu mẹ
cháu lên ban quản lý của trại, để gặp bác Thanh
từ Mỹ qua thăm mẹ cháu.
Bác đi với cái một Ma Soeur nữa. Cháu thấy bác ôm
hôn mẹ cháu, vuốt tóc mẹ cháu, cả mẹ và bác cùng
khóc. Mẹ cháu chỉ nói được có mấy tiếng:
- Chị ơi, em khổ lắm, thân em nhơ bẩn lắm rồi! Em
không xứng đáng với anh Hải nữa đâu!
Rồi mẹ cháu lại ngất đi, người ta lại đưa mẹ cháu
trở lại trạm xá. Bác Thanh cũng khóc, bác và Ma
Soeur kia trở ra Băng Cốc. Bác nói, bác ra đấy để
làm thủ tục bảo lãnh cho mẹ cháu và cháu, có khi
cả chú Hoàng nữa, bác còn nói tình trạng sức khỏe
của mẹ như thế này thì phải làm mọi cách để mẹ cháu
được qua Mỹ càng sớm càng tốt.
Thư của chị Thanh:
Hà
thương nhớ của chị.
Nghe tin me khỏe lại, chị rất mừng, càng mừng hơn
là gia đình nhà ta bên ấy đã nhận được tin tức và
thư của chú Hải. Em đoán đúng, thư Hải viết từ Hoàng
Liên Sơn, có nghĩa là Hải đang bị tù tận ngoài Bắc
kia đấy.
Cứ nghĩ đến hoàn cảnh chú Hải và Thu, chị mới nghiệm
ra một điều, mà điều này, chúng ta phải trả bằng
những giọt nước mắt: Những khổ đau ngày hôm qua,
chưa hẳn đã là những hạnh phúc cho hôm nay, có khi
còn là những bất hạnh kế tiếp. Chỉ có đi tu như
chị mới biết chắc rằng, cõi phúc tưởng là xa xăm,
không thực, nhưng càng ngày, nó như càng đến gần
mình hơn.
Nếu năm ấy, năm khói lửa bùng cao ấy. Nơi mặt trận
Quảng Trị tàn khốc ấy, không cướp đi anh Thái thương
yêu ngàn đời của chị. Thì hôm nay, ảnh chắc cũng
phải đi tù như chú Hải rồi! Chị không trách Thu,
nhưng giá như chị, giá như anh Thái còn sống mà
bị tù như chú Hải, thì chị sẽ không vượt biên đâu.
Chị sẽ ở lại với ảnh. Sẽ lặn lội ra tận ngoài Bắc
thăm ảnh. Sẽ đan những chiếc áo ấm cho ảnh. Sẽ đem
đồ ăn cho anh ăn, rồi xin anh bát cơm tù anh vẫn
ăn, chị sẽ chan cơm ấy, bằng chính nước mắt của
chị, để chia sẻ cùng với anh, cảnh khốn cùng của
một người lính trận khi sa cơ lỡ vận.
Nhưng Thu nhà mình đã không làm như thế, chị nhắc
lại, chị không trách Thu, nghĩ cho cùng, Thu làm
thế còn hơn biết bao nhiêu người vợ trẻ đã không
trọn tiết với chồng, đã lấy thù làm chồng. . .
Ôi, người ta vẫn bảo, nước mất thì nhà tan là như
vậy đó.
Còn việc này hết sức quan trọng, chị muốn Hà phải
tuyệt đối nghe chị. Hải đang ở trong một hoàn cảnh
nghiệt ngã như thế. Chúng ta không thể để chú ấy
bị thêm khổ đau nữa. Em phải giấu kín sự việc này.
Nếu nhà nước Cộng sản có cho viết thư thăm Hải,
em cứ coi em như là Thu, viết thư an ủi chú. Nét
chữ của ba chị em mình, khi còn sinh tiền, chính
ba của chúng mình còn không nhận ra được nũa cơ
mà!
Em nhớ an ủi Hải, em cứ viết là em ( Tức là Thu)
sẽ mãi mãi chờ ngày về của Hải, cho dù thời gian
tù tội có là bao lâu chăng nữa.
Chị còn nhớ, Hà của chị ngày xưa vẫn được điểm cao
về môn văn, được ba của mình khen ngợi lắm mà! Em
nhớ viết thư cho Hải nhé.
Có thể tháng sau, Thu và cháu Hạnh, sẽ sang Mỹ với
chị.
À chị quên, chị cũng đang bảo lãnh chú Hoàng, tội
nghiệp chú ấy, nghe cháu Hạnh và những người trong
trại kể lại việc chú ấy chăm sóc cho Thu, không
khác chị ruột của mình, mới thấy tình chiến hữu
đâu có phải ở chiến trường mới có, mà khi ngã ngựa,
thì lại càng rõ hơn và thắm thiết hơn.
Hôm gặp lại, chị nhận ra ngay anh chàng sĩ quan
lém lỉnh gan lì của mặt trận Quảng Trị ngày nào,
đã là ân nhân của chị, chính chú ấy đã tìm ra được
thi hài của anh Thái. Chị có nói đùa:
- Hà nó vẫn nhắc đến chú đấy!
Chú ấy cười rất buồn:
- Cô ấy vẫn nói, tên cô ấy là Dòng Sông, dòng sông
cứ trôi, trôi trăm năm và trôi cả ngàn năm. . .
Ðiện tín từ Mỹ: Ngày . tháng . năm .
Con
báo cho Me và Hà một tin buồn: Thu qua đời vào sáng
. tháng . năm .. Lễ an táng sẽ cử hành ngày. . tháng
. . năm . . .
Me và Hà đừng quá xúc động. Gia đình cũng đừng báo
tin cho chú Hải biết.
Thanh.
Thư của Hạnh:
Cô
Hà ơi, Bà ngoại ơi! Bố ơi! Mẹ Thu của con chết rồi,
bây giờ con biết làm sao đây? Mẹ Thu con chết được
cả tháng rồi, mỗi lần con tính ngồi viết thư cho
bà ngoại, cho cô Hà thì nước mắt con tuôn trào,
nước mắt thấm đầy cán bút, thấm cả vào trang giấy,
con không thể nào viết tiếp được.
Thư này con đang viết tại một nghĩa trang ở San
Diego, nơi mẹ con đang an giấc ngàn thu.
Càng đau đớn, con càng thấy mình có lỗi với mọi
người, vì ngay lúc bước chân ra đi, mẹ Thu con đã
nói:
- Ba con coi như đã chết, mẹ cũng coi như đã chết,
mẹ cố gắng mang con, mang tình yêu của ba mẹ sang
vùng đất tự do cho con học thành người.
Con chưa biết có thể thành người ra sao, nhưng bây
giờ con đã là đứa bé mồ côi. Mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Cô ơi, cô đừng cho bố con biết nghe cô. Trong tù,
nếu biết tin này, bố con sẽ đớn đau biết là bao?
Bên cạnh con đây, chú Hoàng đang dựa lưng vào gốc
cây, chú ấy đang nhìn cái gì về phía con dốc, có
cỏ xanh mịn, cuối dốc là một con đường chạy dọc
bờ hồ, chú ấy đang nhìn cái gì vậy?
Thư của Hoàng:
Hà
thân nhớ.
Anh viết thư cho Hà vào một buổi chiều tàn Thu.
Thu bên Mỹ đúng là Thu vàng, cây cỏ, không gian
chan chứa màu vàng, gợi buồn gợi nhớ. Người ta vẫn
nói màu vàng tượng trưng cho tan vỡ. Có nhiều lúc
anh nghiệm ra rằng, đằng sau tất cả những gì quyến
rũ của tình yêu, có chan chứa những giọt nước mắt.
. . Như cái tên của anh, chắc có dính dáng gì đến
màu vàng, nên hết cuộc tình này, đến cuộc tình khác
đều đi vào bế tắc, khổ đau. Anh lại thấy: Mọi sự
đổ vỡ đều như thế cả. Lần này hi vọng lần sau sẽ
khá hơn. Cố lấy người này ra để bào chữa cho người
kia, nhưng suy cho cùng, giống nhau cả. . .
Với sự đồng ý của chị Thanh, anh đã mang cháu Hạnh
về sống với anh. Tội nghiệp cho cháu, tên là Hạnh,
nhưng thật là bất hạnh. Từ khi chị Thu qua đời.
Anh đã phải trả lời biết bao nhiêu câu hỏi của cháu,
nửa trẻ con, nửa người lớn. những câu hỏi, mà chỉ
có Chúa mới có thể trả lời cháu được.
- Chú Hoàng ơi! Sau khi mẹ cháu chết, mẹ cháu về
đâu nhỉ? Chú nói người chết biến thành cô tiên,
cô tiên còn đẹp hơn mẹ cháu lúc sống nữa kìa! Cô
tiên có cánh bay. Như vậy cô tiên có thể bay đến
thăm ba cháu ở trại tù không vậy chú?
- Cháu có nghe con bạn học cùng lớp nó nói, cha
nó cũng đang phải “ Học tập cải tạo” ở tận miền
Bắc. Nghe nó nói, hiện giờ ba nó bị làm việc nặng
nhọc lắm. Ăn uống kham khổ lắm. Lại bị đánh đập
nữa. Cháu có xem phim “ Buôn Nô lệ” toàn cảnh người
đánh người. Người quyết định mạng số cho người là
làm sao hả chú? Như vậy Chúa, Phật là thừa thãi
hay sao?.
- Chú Hoàng ơi, đêm qua cháu mơ thấy mẹ về. Tỉnh
giấc vừa thương vừa giận. Thương vì thấy mẹ cháu
đơn lẻ , quần áo tả tơi, máu me đầm đìa. Sao mẹ
cháu ôm cháu mà lại kêu tên ba cháu là làm sao?
Còn giận, giận chú vì chú xạo quá, mẹ cháu đâu có
thành cô tiên nào đâu! Lại chẳng có đôi cánh gì
cả. Như thế thì mẹ cháu làm sao bay đi thăm ba cháu
được? Ngày xưa, nghe bà ngoại kể chuyện cổ tích
kẻ nào làm ác, thì thế nào cũng gặp chuyện chẳng
lành, thế thì mẹ cháu có làm ác không hở chú? Ba
cháu giết giặc, bảo vệ đất nước, bảo vệ lương dân
vô tội có phải làm ác không vậy?
Câu cuối này thì anh phải trả lời, anh đã nghiêm
nghị nói với cháu:
- Này Hạnh, nghe chú trả lời đây: Những chuyện về
cổ tích ấy, không sai, nhưng đó chỉ là người xưa
lấy những chuyện ấy ra để khuyên người sau làm lành,
tránh dữ mà thôi. Còn đây là vận nước, vận nước
nghiệt ngã, kéo theo vận mệnh biết bao nhiêu người
khác. Mẹ cháu là người đàn bà thuần hậu. Còn ba
cháu, chú biết ba cháu, cũng như bao nhiêu chiến
binh khác, giết giặc nhưng để cứu hàng triệu đồng
bào khác. Ðối với đồng đội ba cháu sống hết mình.
Ba mẹ cháu là những người lương thiện. Bây giờ có
gặp tai nạn, nhưng rồi ra, người chết sẽ thành tiên,
người sống sẽ được hưởng phúc. .
Hạnh hỏi anh một câu, anh biết cháu đã trưởng thành
rồi:
- Thế thì giữa người chết và người sống, có cái
gì. . .
Anh đã trả lời Hạnh như sau:
- Người chết lẽ dĩ nhiên không phải còn sống như
chúng ta, nhưng cũng không phải là người đã chết
hẳn, vô tăm vô tích. Người chết tạo lập với người
sống một mối quan hệ vô hình nhưng bất tử và vô
cùng thiêng liêng cháu ạ!
Hà ơi, Thu tàn thì đông đang len lén đi tới. Những
cơn gió giao mùa làm se sắt lòng anh. . .
II. HẢI.
Thư thứ nhất của Hải:
Hoàng
Liên Sơn ngày . tháng . năm 1977.
Thu và Con thương nhớ.
Anh đang học tập cải tạo tại miền Bắc Xã hội Chủ
nghĩa. Nhờ sự quan tâm, ưu ái của Ðảng và nhà nước,
nhất là của trại, anh được phép viết thư thăm em
và con, những mong, em và con, cùng bà con chòm
xóm động viên nhau, học tập tốt, lao động tốt, xứng
đáng là một công dân tiên tiến của một nước Xã hội
Chủ nghĩa Việt nam.
Anh vẫn khỏe, lao động tốt, học tập tốt anh luôn
luôn, an tâm tin tưởng vào đường lối chính sách
khoan hồng của Ðảng và nhà nước.
Nhận được thư này, em cho anh biết ngay, em và con
bây giờ có khỏe không, có lao động học tập tốt không?
Sức khỏe của me thế nào?
Ở đây, mỗi tháng, mỗi trại viên được viết thư một
lần, và nhận được thư một lần.
Chúc em và con được nhiều sức khỏe.
Chồng em.
Hải.
Thư thứ hai của Hải
Thu
và con thương nhớ vô vàn của anh.
Nhờ được đi gánh phân trong bản, anh có nhờ một
người dân tốt bụng chuyển thư này về cho em, nếu
thư này có bị phát giác, thì không biết mình sẽ
ra sao? Nhưng cùng quá là bị biệt giam, bị cắt khẩu
phần ăn mà thôi, em đừng có lo.
Thu ơi.
Xa em và con như thế đã hơn sáu tháng rồi. Thời
gian chỉ bằng một cuộc hành quân xa trước đây của
anh mà thôi, nhưng sao bây giờ anh thấy lâu quá
Thu ạ. Còn không gian thì cứ thăm thẳm, đến độ anh
có cảm tưởng, một đứa đang ở dương gian, còn đứa
kia ở tận mãi âm ti, địa phủ. . .
Anh đã nhận được thư của em, nhìn nét chữ quen thương,
anh đã không cầm được nước mắt.
Miền Bắc đang vào mùa Thu, mùa của tên em, mùa của
tên gọi tình yêu hai đứa chúng mình. . . Những lúc
được nghỉ giải lao, anh thường nằm dài trên cánh
đồng, giương mắt nhìn vòm trời thu xanh thăm thẳm,
những đám mây nhẹ đang lững lờ trôi cùng với đàn
sếu, xếp thành hình mũi tên đang bay về phương Nam
nắng ấm. Gần hơn, nhưng cây xoan, cây bàng đang
vào mùa thay lá. Tất cả cùng với Thu, đang rắc vào
lòng anh một nỗi buồn vô tả. . .
Anh lại nhớ có lần, cũng mùa Thu này, cũng đất trời
như thế này, mặt trận Lao Bảo còn sặc mùi thuốc
súng, em đã đến với anh, đến để gõ cửa trái tim
tình yêu của anh.
Anh còn nhớ, em có hỏi:
- Ðại úy đã có người yêu chưa?
Cho đến giờ này, anh vẫn không biết tại sao lúc
ấy anh lại có “ can đảm” tỏ tình, để trả lời em
như thế này;
- Tôi vẫn từng yêu mùa Thu, nhưng cũng như những
áng mây kia, cứ đến rồi đi. Tôi cứ đợi mãi, cho
đến bây giờ, mới co Ô một mùaThu vĩnh cửu của riêng
tôi.
Bỗng nhiên, có trái đạn địch pháo kích gần chỗ chúng
mình đứng, cả phái đoàn nhốn nháo, những người lính
đã mau chóng nhường hầm trú ẩn của mình cho người
hậu phương. Em đã ôm ghì lấy anh.
Một mùa Thu đầu đời đã đến. Tất cả như da thịt đất
trời đang ôm ấp, đang thấm dần vào tận trái tim
anh.
Thu ơi, Những áng mây thu, những lá vàng của mùa
thu, những nắng thu, tất cả rồi sẽ bay đi, trôi
đi. Chỉ có Thu của bốn mùa đất trời, chỉ có Thu
của anh là vĩnh cửu.
Thư thứ ba của Hải:
Hoàng
Liên Sơn ngày. . . tháng. . . năm. . .
Thu và con thương nhớ vô vàn của anh.
Anh đã nhận được thư của em. Thư em viết làm tim
anh muốn ngừng đập nhiều lần. Những lời an ủi của
em, làm cho anh quên hết tất cả những tủi nhục đắng
cay. Anh đã đọc đi đọc lại cho đến nhàu nát, cho
đến thuộc lòng. Hôm qua, anh đã tiếc ngẩn ngơ vì
nó bị ướt rách khi anh khiêng gỗ qua một con suối.
Ðược em cho biết, em và con, cùng cả nhà ta mạnh
khỏe là anh rất mừng.
Thu ơi, một trong những điều, khi nằm trong tù như
thế này, anh vẫn cứ nuối tiếc là, trong những ngày
trận mạc của anh, anh không chăm sóc được gì cho
em và con, thậm chí anh vẫn còn ân hận, ngay cả
khi bé Hạnh ra đời, rồi ngày đầy tháng, sinh nhật
của bé, chẳng bao giờ có mặt của anh. Em hôn con
như một lời tạ lỗi của bố nó cho anh nghe em!
Tây Bắc đang vào tiết lập đông, những cơn gió mùa
đông bắc thổi cắt da, lùa vào tận trái tim anh,
nó như muốn nhắc bảo anh rằng trên đời này, với
anh, nếu không có em, không có hạnh phúc tuyệt vời
của chúng mình thì thế gian chỉ là một khối giá
băng lạnh lẻo. . .
Anh đã nhận được quần áo ấm em gửi. Có điều ngạc
nhiên lý thú là, chiếc áo len em đan rất đẹp, đều
đặn và tinh xảo, ngạc nhiên là vìợ ngày xưa, cả
nhà đều biết, trong ba chị em gái, em là người không
biết may vá thêu thùa. Sao bây giờ em đan khéo quá
như vậy? Nhìn những đường len đan kết, ôm quyện
lấy nhau, đây đó, nổi lên những đóa hoa hồng xinh
xinh. . . Tất cả như hơi ấm của em, như da thịt
của đất trời đang ban phát và ấp ủ lấy thân thể
lạnh đói của anh. . .
Thư thứ Tư của Hải .
Vĩnh
Phú 2. . . ngày. . . tháng. . . năm. . .
Thu và con thương nhớ.
Anh đang học tập cải tạo tại trại Vĩnh Quang, thuộc
huyện Tam Ðảo, tỉnh Vĩnh Phú, anh vẫn mạnh khỏe,
học tập tốt, lao động tốt.
Em và con có khỏe không? Thu ơi! Từ trước đến nay,
anh không bao giờ tin vào những giấc mơ, nhưng thật
là lạ kỳ, mấy đêm nay, hễ chợp mắt là anh mơ thấy
em, em và con đang chìm đắm trong dông bão, trong
biển cả đầy sóng, những đám mây đen, những tia chớp
xé màn đêm, giáng xuống hai sinh linh bé nhỏ, hai
cội nguồn hạnh phúc của anh.
Rồi mới hồi đêm thôi, trong khi bạn bè đang chìm
đắm trong giấc ngủ mệt mỏi, thì anh lại mơ thấy
em, khắp mình đầy máu, quần áo tả tơi, anh còn nghe
thấy tiếng em khóc, tiếng con Hạnh gọi mẹ tuyệt
vọng, tiếng cười man rợ thỏa mãn của bọn hải tặc.
Thu ơi, Em viết thư cho anh ngay đi, em viết cho
anh biết em và con đang làm gì, có mẹ con có an
lành không nghe em!
Anh còn nghe được tin trại cho biết, từ đầu tháng
sau, nhà nước sẽ cho thân nhân trong miền Nam ra
để thăm tù, anh biết chắc rằng, anh sẽ là một trong
những người đầu tiên được găầp lại người thân của
mình sau bao nhiêu năm trời xa cách. . .
Trời ơi, chỉ nghĩ thấy được gặp lại em, được hôn
con, anh đã cảm thấy như mình được tái sinh vậy!
Thư thứ năm của Hải.
Thu
và Con thương nhớ.
Anh đã nhận được quà và thư của em. Biết là em và
con an lành, là anh hết lo sợ nữa rồi. Em còn nhớ
anh Lâm cùng đơn vị với anh không? Thư nhà anh ấy
cho biết, chị Lâm và hai đứa con gái vượt biên,
gặp hải tặc. Cả ba mẹ con đều bị hãm hiếp hết sức
thê thảm. Sau đó, chúng ném chị Lâm xuống biển.
Hai đứa con gái bị chúng đem đi mất. . .
Vừa rồi là đợt thăm nuôi thứ 2 rồi, anh cứ ngóng
trông mãi, nhưng vẫn không thấy em và con ra thăm
anh, tuy nhiên, nếu sức khỏe của em không cho phép
như em nói thì anh cũng an tâm. Những lá thư nồng
nàn, chan chứa tình yêu em gửi anh đều đặn như hiện
nay, cũng đủ nuôi sống anh rồi!. Những dòng chữ
của em, như những dòng máu đang từ từ, hàng tháng,
hàng ngày thấm vào huyết quản, nuôi sống thân anh.
Người ta vẫn bảo, trong những lúc nguy nan, trong
những lúc tuyệt vọng thì mới biết thế nào là tình
yêu, là niềm tin, là son sắt, Thu ạ. . .
Tội nghiệp thay nhiều đồng đội của anh, một con
số không phải là nhỏ, không rõ lý do, đã không nhận
được quà gia đình gửi cho, không có đến một lá thư
nữa. Tội nghiệp cho nỗi tủi thân đầy nước mắt của
họ là chừng nào: Trong lúc, những người khác, trong
đó có anh, đang ngấu nghiến đọc những tâm tư, tình
cảm của người thân, của vợ hiền, của con dại. Trong
khi anh đang ướm thử chiếc áo ấm, hay đang mặc nó,
thì họ ngồi ủ rũ như những pho tượng trên những
tảng đá vắng vẻ. .
Chúa lòng lành đã bỏ quên họ, hay chính những người
thân họ đã dứt tình?
Có nhiều người đau xót biết tin: Người vợ của họ,
đã đi lấy chồng khác, đã mất tích trên đường vượt
biên. . . Than ôi, có nhìn thấy những đớn đau ,
tủi phận của những người ấy, anh càng thấy anh còn
nhiều hạnh phúc, cám ơn em! Cám ơn Thu, em là nguồn
sống, là tia sáng đang chiếu rọi, đang dẫn dắt cho
anh trên con đường vạn lý để tìm về một nẻo thiên
đường, có hạnh phúc của em và của con vẫy gọi.
III. HÀ.
Thư của Hà gửi cho cháu Hạnh:
Hạnh
tội nhiệp của cô Hà.
Cô viết thư này cho Hạnh, đúng vào ngày 49 của mẹ,
đúng vào ngày sinh nhật thứ 12 của con.
Cô đã nhận được thư của con, ảnh chụp đám tang của
mẹ. Cô đã ôm những vật đó vào lòng để khóc thương
cho người chị xấu số của mình, khóc thương cho đứa
cháu côi cút của mình, khóc cho ba cháu, người chồng
chung tình, đang ôm ấp hình ảnh vợ hiền, con ngoan
để sống trong một thời gian tủi nhục đớn đau.
Hạnh ơi, những ước nguyện của mẹ, những ý muốn của
con, những điều chỉ bảo của bác Thanh về những việc
cô phải làm đối với ba của cháu. Cô đang làm. Cho
đến giờ, ba con vẫn còn tin, tin mãnh liệt là mẹ
con vẫn còn sống. Còn đang ở Việt Nam. Còn đang
cận kề với định mệnh xót xa của ba. Còn đang cặm
cụi ngồi đan hết chiếc áo len này đến tấm áo len
khác, cho mùa rét này, cho mùa đông khác. . .
Tất cả thư của ba con, cô đều đọc rất kỹ. Sau đó,
cô để ngay trên bàn thờ có bài vị của mẹ, khi nào
nhận được thư mới, cô cất thư cũ trong một cái hộp.
Cô coi như đó là bảo vật của chính cô.
Hạnh ơi, mỗi lần thắp nhang cho mẹ, nhìn lá thư
của ba con, phủ đầy những tàn nhang, lòng cô quặn
đau. Dòng nước mắt của cô như đang chia ra làm ba
ấy, một cho mẹ, một cho con, một cho người tù khổ
sai ở tận cuối trời. . .
Cô gởi kèm theo đây, những tờ giấy trắng học trò,
để con viết thư cho ba con, nhiều thư ba nhắc, ba
muốn được đọc thư của con. Cô còn một điều này nữa,
rất khó khăn cho mình, là ba con luôn luôn mong
mỏi, thậm chí nài nỉ là được mẹ con dẫn con ra ngoài
Bắc thăm ba. Trong thư vừa rồi gửi cho ba, cô có
nói là mẹ con không được khỏe, còn con thì đang
phải học. Thôi cứ lần lữa như thế đi, Hạnh nhé,
nhớ viết thư cho ba, gửi về ngay cho cô.
Cho cô gửi lời thăm bác Thanh, chú Hoàng.
Hôn con tội nghiệp.
Thư của Hà gửi chị Thanh.
Em
có một thói quen, mỗi khi viết thư cho anh Hải là
em lại viết thư cho chị, sau khi viết xong hai lá
thư, em đem thư em viết cho anh Hải, đặt trên bàn
thờ, em thắp nhang cho chị Thu, em có nói với chị:
- “ Chị ơi, chị đọc lại lá thư này đi xem em viết
có đúng ý chị không, những lời, ý trong thư này,
thực ra không phải của em, em đã chép lại những
ý chính của chị trong cuốn nhật ký, chị đã cẩn thận
gửi em cất giữ. Em tin rằng, ở nơi suối vàng cô
quạnh kia, chị có thể mãn nguyện là tấm lòng của
chị đối với anh đã được em gửi đến tận trái tim
của anh rồi.”
Chị Thanh ơi, mỗi lần như thế, mỗi lần cầm lá thư
em viết cho anh Hải như thế, bỏ vào thùng thư, em
có cảm tưởng, một người đang ở trần gian, chuyển
thư của một người vợ dưới cõi âm cho người chồng,
cũng ở dưới âm phủ.
Rồi em còn có cảm tưởng em như một ông Tề Thiên
Ðại Thánh, đang hóa thân của mình, thổi phù một
cái để trở thành hàng trăm hàng ngàn ông Tề thiên
khác.
Trong những thư anh Hải viết về nhà, ngoài những
thư anh nhờ dân gửi giùm như trước đây ở Yên Bái,
anh đều không nói đến những sinh hoạt của trại nhưng
những người đi thăm nuôi về họ kể lại, là ở ngoài
ấy, các anh khổ sở trăm bề. Có người còn đoan quyết
rằng: Nếu chuyện địa ngục là có thật, thì các anh
ấy, những người con yêu dấu của tổ quốc, đang sống
trong một địa ngục, được thiết lập ngay tại trần
gian này. Họ đã bị đối xử còn quá hơn con vật: Mỗi
tuần chỉ có một ngày, một bữa với hai chén cơm lưng,
những ngày còn lại phải ăn toàn ngô sắn, lại không
được no. Các bà ấy kể rằng, nhìn những người chồng
ăn ngấu nghiến những lát cơm nóng bà ấy nấu nhờ
trong nhà “ Hạnh phúc” của trại, mà các bà ấy phải
khóc òa lên. . .
Thư của Hà
Chị
Thanh yêu quý.
Thư này, em viết cho chị ngay vào giờ phút giao
thừa. Trong một năm, giờ phút này, nó bắt ta phải
tìm về ký ức nhiều nhất. Em lại vốn ghét ký ức,
vì nó là nguồn cội của mọi khổ đau. . .
Căn nhà của chúng mình, thời trước đầm ấm quây quần
là dường nào, thì nay vô cùng đơn lẻ . Nửa tháng
trước em đã đem quần áo và đồ dùng gửi cho anh Hải,
lần này, không phải bằng bưu điện mà gửi theo một
chị ra thăm chồng ở cùng trại với ảnh.
Anh Hải luôn luôn nhắn chị Thu ra thăm cho anh gặp
mặt, thư nào cũng vậy. Tội nghiệp anh ấy, vào những
ngày giáp tết như thế này, nhìn thấy người ta lũ
lượt thăm chồng, không biết là nỗi tủi thân của
anh ấy chua xót là chừng nào?
Càng nghĩ như thế, em càng khổ tâm, em càng băn
khoăn đến câu chị viết cho em trong lá thư mới nhất:
. . . “ Gia đình mình, có ba chị em gái, thì mất
hai người , chị và Thu đều mắc nợ của Hải, tuy rằng
vận nước đã kéo theo biết bao nhiêu khắc nghiệt
cho biết bao nhiêu con người, nhưng những liên hệ
tình cảm ấy, làm cho chị vẫn mang một nỗi khắc khoải
không nguôi.”
Chẳng lẽ, chị và chị Thu, nợ ảnh, còn em cũng nợ
ảnh luôn hay sao?
Em đang bị hóa thân thành nhiều người. Lúc thì là
chị, lúc thì là Hạnh, nhiều nhất là chị Thu. Có
những lúc, đang thay chị Thu viết thư cho anh Hải,
em đã khóc, em đã tự hỏi:
. . . “ Mình là ai kia kìa?”
Trước kia, mỗi khi viết thư cho anh ấy, em phải
tự đặt mình vào tâm trạng của chị Thu, tìm những
tâm tư tình cảm của chị trong cuốn nhật ký, rồi
khó khăn lắm em mới giàn trải lên trên trang giấy
được, nhưng bây giờ em đã không có những khó khăn
ấy nữa! Em viết cho anh Hải bằng chính cái tâm của
em, bằng chính những nhịp đập trong trái tim em.
Và hình như có một chất men gì đã thấm lịm, đang
đưa đẩy em vào một cõi thiêng liêng. . .
Còn một điều ngở ngàng này nữa đang xẩy ra cho em,
em đã bồn chồn khi chậm nhận được thư của ảnh, em
đã khóc vùi khi đọc thư của ảnh, em đã xót xa khi
những cơn gió giao mùa thổi đến với câu hỏi chứa
đầy nỗi băn khoăn:
. . . “ Bây giờ anh ấy ra sao?”
Chị Thanh ơi, chị đã từng
yêu, tâm trạng của người con gái khi bắt đầu yêu
nó như thế nào hả chị? Con tim của người đang yêu
và hành trình của nó, bắt đầu từ đâu, rồi nó dẫn
dắt mình đi đến đâu hả chị? Rồi em lại nghĩ, tên
anh là Hải, hải là biển cả, nước sông cứ trôi, trôi
trăm năm ra biển cả mênh mông!
Trời ơi! Cứ nghĩ đến việc em yêu anh ấy, em không
biết, hạnh phúc hay bất hạnh đang đến với em đây?
Nếu em yêu anh Hải, thì thật là cay nghiệt, thật
là xót xa, thật là sự an bài trớ trêu của định mệnh,
mà không có một nhà văn nào, không có một ông đạo
diễn nào có thể làm nổi, ngoài ông trời: Có nhà
nào, có hai cô con gái, cả hai cô đều yêu một người?
Một câu hỏi nữa lại đến với em: “ Em yêu anh Hải,
em có lỗi với chị không? Có lỗi với chi Thu không?
Có lỗi với cháu Hạnh không? Hay có lúc em còn lẩn
thẩn, em có lỗi với anh Hoàng không? Với chị và
anh Hoàng, em nghĩ rằng không! Nhưng với chị Thu
và cháu Hạnh thì sao? Có lần em đã đem câu hỏi này,
hỏi chị ấy. Trong làn khói lung linh, em nhìn chị
để tìm câu trả lời. Có lần em thấy chị cười, có
lần em thấy chị như muốn khóc, như vậy là làm sao
hả chị Thanh?
Người ta bảo cõi âm, hay nước Chúa là cõi vĩnh hằng
nhưng đối với những linh hồn đã được siêu thoát,
đã trang trải xong nợ nần thế sự kia kìa, với những
người còn mắc nỗi oan tình, thì vẫn còn vấn vương,
vẫn còn lẩn quất. Em đã nhiều lần khấn chi Thu như
thế này:
. . . “ Chị ơi! Nếu chị có linh thiêng, xin về báo
mộng cho em, xin trả lời em một câu hỏi duy nhất:
Em phải làm gì cho chị, cho anh ấy?”
Nhưng tuyệt nhiên không thấy
chị ấy hiện về. Như thế có phải là không có cõi
khác ư? Con người khi dời dương thế,là đã siêu linh
tịnh độ, là đã bắt đầu đi vào đoạn cuối của một
con đường, đã vào hẳn nơi gió bụi để biến thành
những hạt cát vô hồn không hả chị? Hay chị ấy không
muốn về, không muốn trả lời những câu hỏi mà không
một ai, có thể trả lời em được, phải vậy không hả
chị Thanh?
Nhưng, . . . Em biết chắc một điều, trước mặt em
bây giờ, tạo vật và đất trời, đều đổi khác cả, đều
đáng yêu cả. Ánh sáng chiếu vào phòng dậy muộn,
tiếng chim gọi nhau về tổ, tiếng lá cây rơi chạm
đất, em cứ ngỡ như tiếng con tim em đang rạt rào,
đang chờ đợi. Con bạn em nó bảo: “ Chờ đợi là hạnh
phúc. Còn cái gì đã nắm bắt được thì càng lâu càng
chán. . .” Phải vậy không chị?
Em xin ngừng viết, với câu hỏi chị phải trả lời
cho em càng sớm càng tốt: “ Em có nên đi thăm anh
Hải không, và em sẽ nói với anh Hải như thế nào?”
Chị trả lời em ngay, chị Thanh nhé!”
Thư của Hà gửi chị Thanh.
Em
đã nhận được thư của chị, và bây giờ, Em đang ngồi
trên chuyến tầu xuyên Việt! Chị biết không: Ngay
khi nhận được thư của chị thì em đã có tất cả những
câu trả lời cho em rồi. Em đã chờ chị sẽ viết “
Cứ ra thăm Hải đi, cứ nói là chị Thu đã qua đời
rồi đi, cứ nói luôn nỗi lòng của em đi?” . . . Em
bồn chồn chờ chị trả lời như thế, và chị đã viết
như thế thật!
Chuyến đi này, khởi đầu bằng tất cả sự náo nức bồn
chồn của em, khởi đầu bằng những câu hỏi không có
ác ý của những bà đi thăm chồng, cùng đi một chuyến
tầu:
- Ra thăm bố con hả?
- Bố cháu ở trại nào?
Em đã không trả lời, rồi nhắm mắt, ngồi nghe tiếng
bánh xe nghiến trên con đường sắt, em đắm mình trong
một cảm giác: Có ông bụt đang quay cuộn chỉ thời
gian, đang chở cả một mùa xuân trên chiếc xe hỏa
cũ kỹ, cho kì ngộ đến gần. . .
Em sẽ không kể cho chị nghe,
em phải trèo đèo lội suối như thế nào, mới tới được
một khu trại, trại Vĩnh Quang 2 vào lúc trời nhờ
nhờ tối, những vòm tre nghiêng nghiêng đã ngả sang
mầu nâu thẫm rì rào theo gió đẩy đưa, mắc lên trên
ấy một mảnh trăng liềm . . . Ðứng trên con dốc nhìn
xuống, chỉ thấy những mái nhà lờ mờ, âm u rờn rợn.
Em có cảm tưởng như em đang đứng trước một hang
động có con quái vật đang giam giữ người thân của
mình.
Người ta đã dẫn em đến căn nhà “ Hạnh phúc”. Ðó
là một dẫy nhà tranh vách đất, được chia ra nhiều
gian, được phân ra làm nhiều ngăn thành những “
phòng” nhỏ, bằng những tấm màn hoa sặc sở. . .”
Người cán bộ nói giọng lơ lớ:
- Các anh ấy đang đi lao động ở trên Tam Ðảo, tối
mai mới về. Chúng tôi sẽ chiếu cố cho các chị, ngay
tối mai. . . A! Các anh này, trong quá trình học
tập đều không có vấn đề gì. Trại sẽ chiếu cố cho
các anh ấy, được ngủ lại đêm với các chị tại đây”
. . “ Chiếu cố cho ngủ với nhau một đêm!” Các bà
vợ nghe đến đây thảng thốt nổi sung sướng. Còn em,
nhìn những chiếc giường đơn trong những ô có kéo
vải kia, em không biết phải tả cho chị nghe như
thế nào nữa, cái cảm giác lúc đó nó lạ lùng như
thế nào nữa. Chỉ biết lúc đầu, mặt em lạnh toát.
Rồi bừng đỏ. Rồi như người đang lên cơn sốt. Rồi
như có một cục than hồng đang di chuyển sát tận
mặt em, đang từ từ tiến vào các mạch máu, rồi chạy
rần rật khắp cả châu thân em.
Sáng hôm sau em dạy sớm, nhìn
qua cửa sổ, sương lạnh còn là đà mặt đất, em đã
thấy các tù nhân làm việc từ hồi nào. Vườn rau xanh
với những vuông luống thẳng tắp như những lằn kẻ.
Những người tù, kẻ thì gánh nước, kẻ đang cuốc đất,
người đang nhổ rau. Tất cả như những hình nhân,
chập chờn, chới với trong một màn sương mù ảm đạm.
Khi nắng đã bắt đầu lên, khi sương đã tan, các người
tù vẫn cặm cụi làm việc. Bốn góc vườn có bốn người
cảnh vệ, đang chĩa những họng súng về phía họ. Các
anh ấy, những người tù, thỉnh thỏang lại liếc nhìn
về chúng em. Có anh làm bộ đi lấy một cái gì đó
để tiến gần hàng rào tre, hỏi một câu bâng quơ,
nhưng chan chứa nỗi khao khát:
- Ở trong Nam ra đó hả?
- Anh ấy ở đội mấy, tên là gì?.
Trời ơi, không thể tưởng tượng được rằng, đó là
những sĩ quan đã một thời làm thổn thức trái tim
của biết bao nhiêu thiếu nữ ở hậu phương, đã chiến
thắng biết bao cuộc hành quân, làm tan vỡ biết bao
nhiêu chiến dịch công kích của địch quân. Bây giờ
trông kìa! Những bộ quần áo tù, màu lam, rách rưới,
hờ hững ôm lấy những mảnh thân gầy! Chúa, Phật quả
đã bỏ quên họ mất rồi!
Trời chập choạng tối. Người cán bộ tập họp các thân
nhân vào gian nhà chính. Hắn nói:
- . . . “ Chúng tôi có buổi họp này để đả thông
tư tưởng cho các chị, trước khi các chị gặp chồng.
Việc các chị được gần gũi các anh ấy là một ân huệ
hết sức to lớn của Ðảng, vì thế các anh các chị
có vui vầy, cũng không được quên động viên nhau
học tập tốt, lao động tốt để sớm trở thành công
dân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Hắn nói huyên thiên, sau đó hắn nói:
- Các chị đã được chỉ định “ Làm chủ” cái giường
của mình, chị nào ngồi ngay vào những cái giường
ấy. Các anh ấy sẽ đến ngay.
Em ngồi khép nép bên mép giường,
một cảm giác vừa xấu hổ, vừa tê tái: Em giống như
giai nhân chờ đợi tân lang trong một đêm động phòng
hoa chúc. . .
Khi em nghe những tiếng ồn ào ào ập tới thì anh
ấy đã đứng ngay trước cửa phòng. Ðúng anh Hải rồi!
Như một cục nam châm, chúng em chạy đến ôm nhau,
nhưng khi hai đôi môi đang run rẩy tìm đến nhau,
chỉ một tích tắc ấy, em đã nhớ ngay đến chị Thu,
em đã đẩy Hải ra:
- Hà đây, Hà đây mà!
Anh bật người ra phía sau, hai tay buông thõng.
Trong bóng tối nhờ nhờ của ô phòng hẹp, anh như
một pho tượng, lạnh băng. Em nhòa nước mắt. . .
Giọng anh đứt quãng:
- Chị đã. . . làm sao rồi phải không? Hà ơi!
- . . .
- Trời ơi! Thu ơi!
Ðêm hôm ấy, trên chiếc giường
chỉ đủ cho một đôi vợ chồng lâu ngày mới gặp. Trời
lại mưa, một cơn mưa trái mùa. Gió lùa hun hút.
Ðêm dài mưa rơi, em có cảm tưởng đếm được từng giọt
buồn se sắt thấm vào tận ruột gan của cả em lẫn
Hải.Trong tiếng rì rầm, tiếng áo quần sột soạt,
tiếng khóc rấm rứt. Tiếng kẻng cầm canh rời rạc.
Tiếng con chim cú lạnh lùng trên chái nhà. Tiếng
con vạc sành khắc khoải kêu sương. . . Em cứ tê
cứng, cứ như lịm đi. . .
Rồi lại cứ khoảng vài giờ, một giọng nói cùng với
ánh đèn pin loang loáng vang lên:
- Các anh nằm tại chỗ điểm danh cho tôi.
“ Nằm tại chỗ điểm danh”! Người trả lời, từ những
cửa miệng đang thì thầm, từ những hơi thở đứt đoạn,
như từ những dấu chấm của một đoạn văn bi ai.
Chị Thanh ơi! Chị có biết cái cảm giác vừa ngây
ngất, vừa rạo rực, vừa khó chịu của em khó diễn
tả như thế nào không? Hình như em không còn có thể
kiểm soát được hơi thở của em nữa! Tai em lùng bùng,
mắt em nhạt nhòa. Cảm giác ấy, cứ như ngọn hải triều
dấy lên từng đợt, từng đợt! Có nhiều lúc em muốn
lấy hết can đảm, muốn nghiêng người, ôm chặt lấy
anh, hôn lên đôi mắt của anh, mà em biết chắc, anh
ấy cũng đang khóc. . .
Còn Hải như một vách đá dựng thẳng đứng, nhô lên
trên mặt nước giá băng. . .
Cả hai đã không chợp mắt, cho đến khi trời sáng,
hai người vẫn như còn nhiều ấm ức. . .
Những người tù đã có lệnh
về trại, em và Hải đứng chôn chân nhìn nhau, em
thấy rõ hơn khuôn mặt thanh tú của Hải, những nét
phong trần đã hằn ra trên trán, bên khóe mắt đẫm
buồn . . Và trong cái nét khắc khổ như một nhà tu
khổ hạnh ấy, em có cảm tưởng, anh như một cây tùng,
đứng trơ vơ trong tuyết lạnh.
Tránh cho mình khỏi khóc, em ngước nhìn lên bầu
trời có ngôi sao mai đang ngân ngấn lệ . Xa xa,
những đám mây trắng xóa đang ôm ấp lấy ngọn Tam
Ðảo. Dưới thung lũng, có hai cánh cò trắng dìu nhau
là đà. . .
Hải nói nhỏ đủ cho em nghe:
- Em phải đi đi. Nghe anh, anh có thể tự lo liệu
được.
Nắm chặt hai cánh tay khô khốc của Hải, em bật khóc:
- Không bao giờ, em sẽ thay cho chị, mãi mãi chờ
anh về. . .
Em ôm lấy Hải, say đắm như
ôm một người tình, còn Hải hôn lên trán em, nhẹ
nhàng như hôn một đứa bé.
KẾT.
Hoàng
đứng tựa lưng vào một gốc cây. Nhìn hai chiếc bóng
trơ vơ của Hà và Hạnh, cùng một màu áo đen tuyền,
đang đứng chắp tay trước ngôi mộ phẳng lì, xanh
sẫm của cỏ, sương chiều lãng đãng. Tiếng côn trùng
rên rỉ như một khúc nhạc buồn, như một nỗi sầu thảm
ngấn đọng khắp không gian.
Giống như người vừa qua thời kỳ mất trí nhớ, anh
lần ngược lên tận những nơi xa xăm của ký ức để
tìm đến một vùng trận mạc. . .
. . . Ðó là vào
năm 1972, vào mùa hè nóng bỏng của đất trời và chiến
trận. Ðơn vị Hoàng vừa tái chiếm xong Cổ thành Quảng
Trị. Tất cả những vật trên mặt đất dù hoang tàn
đổ nát nhưng như đang được hồi sinh sau một cơn
ác mộng khủng khiếp.
Những tà áo mầu tung bay trong gió, những khuôn
mặt tươi cười diễm lệ bên cạnh những khuôn mặt khô
khốc vì khói súng, vì mất ngủ.
Trung tá Hải gọi máy cho Thiếu úy Hoàng:
- Qua đây, qua đây Hoàng ơi, bắt giùm cho tớ con
kỳ đà này với. . .
Con kỳ đà này là một cô gái, đẹp như một đóa hoa
hồng ướt đẫm sương mai, Ðôi mắt ươn ướt, lúc nào
cũng như đang sắp khóc. Có lúc lại nhí nhảnh như
một con chim sơn ca, như một dòng suối hồn nhiên
mê đắm. . .
Hoàng đứng như trời trồng
trước hai giai nhân, anh ngơ ngẩn đến độ, anh lẩn
thẩn nghĩ rằng, nếu có một ông bụt đến thưởng công
cho Hoàng, cho phép anh chọn một, anh phải có một
thời gian dài đắn đo, mà vẫn không biết chọn ai.
. . Hai cánh tay tiên chìa ra:
- Tôi là Thu
- Em là Hà.
Hoàng giả bộ sửa lại quân phục cho ngay ngắn, rồi
đứng nghiêm như đang trình diện thượng cấp:
- Còn tôi, trước hai mỹ nhân, như những tiên cô
hiện ra trong làn khói súng chiến trường này. Bàng
hoàng quá, nên đã quên mất tên của mình rồi!
Có tiếng khóc nức nở từ trong lều vải. Hoàng im
bặt vì biết mình đang đùa cợt không đúng lúc. Ngay
sau đấy anh biết, người đó là chị Thanh, chị của
Hà và Thu
Chị Thanh nhờ một anh quân nhân dẫn đến thăm căn
hầm chỉ huy, nơi Thái đã gục ngã. Thu và Hải cứ
quấn lấy nhau. Hà cười:
- Nhờ anh đưa con kỳ đà cái này đi chơi đi, anh
vô danh ơi!
Hoàng dẫn Hà đi một vòng,
tất cả chỉ thấy tang thương và đổ nát. Hai người
đến ngồi cạnh bờ sông. Con sông Thạch Hãn, mới tháng
trước đây thôi, cuồn cuộn đạn bom. Hôm nay, y như
một bà mẹ hiền từ, lặng lờ chảy. Nước sông như làm
dịu hẳn đi không khí quay quắt của mặt trận. Tại
triền sông bên kia, đám chim tản mạn tìm mồi. Ánh
sáng loa lóa từ mặt sông. . . Một làn sương mỏng
lang thang trên mặt nước, đang lững lờ trôi về phía
hạ du.
Hoàng lấy một cục đá ném ra giữa dòng: “ Quân bất
kiến Hoàng-Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu
đáo hải bất phục hồi”. Bất phục hồi! Ðừng trở về
nữa! Ðừng trở về nữa!
Hà ngạc nhiên, Hoàng muốn nói ai không trở về nữa
cơ chứ?
Có tiếng cười to của Hoàng. . .
Hà nói:
- Các anh cực khổ quá mà cũng cười đùa được, kể
cũng hay thật.
Hoàng lại cười:
- Chẳng lẽ lại khóc hay sao?.
Rồi giọng anh trầm hẳn xuống:
- Cô biết không, những người lính chúng tôi đang
đếm sự sống bằng tiếng tích tắc của thời khắc, chúng
tôi lúc nào cũng như đứng giữa đường biên của cuộc
sống trần thế và thế giới của cái chết. Sống chết
quân bằng! Phù du lắm, mong manh lắm cô ạ! Cái gì
cũng thích làm ngay, cứ như thể, nếu để một lát
nữa thôi, một viên đạn địch sẽ cắt đứt mọi hoài
bão, mọi toan tính, mọi lời thề thốt . . Nên tôi
thích ngồi nhìn những dòng sông là như thế. Ở quê
tôi cũng có một dòng sông, con sông Thu Bồn ấy mà,
nó đã ôm mát cả tuoiẩ thơ của tôi. . . Ôi ! Cô Hà
biết không, Có những đêm trăng, đêm trăng biếc,
có cả ngàn vì sao xuống đấy gội đầu, có những đợt
sóng chao lên tiếng nấc. . . Còn cô, Cô lại mang
tên là Hà, thích thật!
Hà nói: Tôi tên là Hà, tôi cũng thích những dòng
sông chảy trôi. dòng sông thì cứ trôi, trôi trăm
năm và trôi cả ngàn năm. . .
Hà bước xuống bờ sông, rồi quay lại cười:
- Sao ngồi đờ đẫn ra như thế hả ông phỗng, nhớ người
yêu à! Gửi thư tôi mang về cho, nhân tiện xem mặt
cô bé nào đang làm chủ trái tim của viên “ Sĩ quan
đào mỏ” này!
- Sao cô biết biệt danh của tôi?
- Mới đặt chân đến đây, anh Hải đã kể chuyện ấy
rồi, ảnh còn nói, không có anh, chưa thể nào diệt
xong cái chốt lì lợm ấy đâu. . .
Cái chốt ấy, nằm ngay phía
tây của Thành cổ đã tan nát vì bom pháo của cả hai
phía. Cứ mỗi một đợt xung phong, là từ đó, những
tên bắn sẻ của địch đốn ngã một người. Hoàng nhẩm
tính không biết đến bao nhiêu đồng đội của anh đã
ngã gục tại đây. Phải chiếm nó với bất cứ giá nào!
Anh đem dự định ấy nói với Tiểu đoàn trưởng Hải.
Trung tá đắn đo: “ Liều quá, mình không muốn. .
.” Nhưng Hoàng cố gắng nài nỉ mãi. . .
Thế là cứ đến chập tối. Ðại đội của Hoàng thay phiên,
cứ ba người một, một người đào, một người xúc cát
đá vào bao cát, và một người mang ra đổ phía sau.
Ban ngày, công việc tạm ngưng, nhường lại cho không
và pháo yểm.
Khi đường hầm chỉ còn cách cái chốt quái ác ấy không
xa, khi các binh sĩ ta đã bắt đầu nghe được tiếng
rì rầm của bọn cán binh. Anh chọn khoảng một tiểu
đội, nai nịt gọn gàng. Những tràng pháo binh bắn
cận điểm đã ngừng. Anh cùng đồng đội bò gần đến
những miệng hầm. . .
. . . Một tia chớp cùng với tiếng nổ trầm trầm vững
chải. Mật hầm tung lên, Ðất cát bay rào rào cùng
với những tiếng la thất thanh của quân địch. Hoàng
và đồng đội vùng dậy, lao lên, siết cò. Tiếng súng
nổ giòn giã như tiếng gõ nhịp của một khúc quân
hành hùng tráng, thôi thúc anh và đồng đội tiến
lên. . .
Hoàng ngước nhìn trời đêm thăm thẳm. Anh thật không
ngờ sự việc lại dễ dàng chóng vánh đến như thế.
. .
Hải ngồi ngay bên máy truyền tin. Anh nghe rõ những
tiếng lựu đạn nổ rời rạc, âm u. Những tràng súng
sắc lạnh, hối hả. Rồi tiếng của Hoàng nổi lên:
- Nhân vị đây 1, chúng tôi đã làm chủ cái chốt Alfa
rồi.
Ðêm ấy, thật yên tĩnh! Hóa ra cả một Cổ thành đổ
nát như thế này, đại đơn vị của Cộng quân, lớp đã
rút lui, lớp bị tiêu diệt, chỉ còn lại cái chốt
quái ác này. . .
Ðến sáng, Hoàng cho bung ra lục soát, trong mùi
tử thi xông lên nồng nặc. Anh đã tìm thấy thân xác
đã rữa ra của Thái. .
Có tiếng Hà:
- Thi sĩ đang làm thơ đấy à? Ở đây, sông nước đâu
mà ca bài Tương tiến tửu?
- Chị thấy không? Dòng sông và dòng đời đang là
một tiền định “ Trôi trăm năm và trôi cả ngàn năm!”
Hà đùa:
- Này! Không được phép gọi “tui” là chị nghe không?
Phải gọi bằng dì. Thưa dì Hà, cháu là Hoàng, có
điều bẩm báo. . .
- Vâng cháu xin bẩm báo với nãi nãi rằng: Nãi nãi
ới! Nải nải có thấy không, nước sông đã trôi?. .
. Sông đã trôi ra biển!
Hà cười buồn, cô nhìn về phía mộ Thu, như phân bua
với một nẻo hư không:
- Ðâu có còn nồng nàn như chú với con Hạnh đâu,
nhưng tôi với anh Hải bây giờ không còn phải chờ
đợi nữa, chúng tôi đã ăn chung bữa, ngủ chung giường
, Có chung những cảm giác ân ái nóng bỏng, và đã
có hai đứa con chung. Chúng tôi đang đi chung một
con đường, nhưng thật chua xót, tôi và Hải vẫn có
một cái không chung: Cuộc đời riêng!
Anh nhìn xuống mặt nước hồ xanh sẫm. Gió thổi làm
những chiếc lá úa tàn cứ như xoắn lại với nhau
Nguyễn
Trọng Hoàn