Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Lược Sử hình thành Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam - Võ Trung Tín & Nguyễn Hữu Viên
Lược Sử hình thành
Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam
I Bối cảnh Lịch Sử Chính Trị Quân Sự :
Ngày 14/8/1945 tại Tokyo, Nhật Hoàng Hiro Hito tuyên
bố đầu hàng quân đội đồng minh do Hoa Kỳ cầm đầu vô điều kiện, Thế Giới Chiến
Tranh lần hai chấm dứt. Lực lượng đồng minh ủy thác trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra cho quân đội
Tưởng Giới Thạch, phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào cho quân đội Anh. Pháp theo chân
quân Anh trở lại VN nhằm mục đích tiếp tục cai trị
sau 5 tháng gián đoạn vì Nhật đảo chánh.
Lợi dụng tình trạng chính trị không rõ ràng, ngày 17
tháng 8/1945 tại Hà Nội các viên chức Việt Nam và các đảng phái yêu nước Quốc
Gia tổ chức cuộc tập họp dân chúng trước nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ Trần
Trọng Kim và biểu dương ý chí bảo vệ đất nước. Nhưng đã bị Việt Minh Cộng sản
do HCM lảnh đạo tung cán bộ trà trộn trong đám đông, lương lẹo hô hào đòi hỏi
Hoàng Ðế Bảo Ðại thoái vị và cướp chánh quyền tại Hà-Nội. Cướp lấy nền độc lập của dân
Việt chứ không phải cướp chính quyền trong tay người Pháp hay Nhựt
Theo thỏa thuận của các cường
quốc thuộc phe đồng minh, tại hội nghị Potsdam và hội nghị Yalta thì sau khi thế
giới đại chiến thứ II kết thúc, các nước thuộc địa vẫn giử nguyên trạng nghỉa là
vẫn duy trì chính quyền đã có từ trước và dần tiến tới thể chế dân chủ.
Vua Bão Đại và chính phủ Trần
Trọng Kim lúc đó là chính quyền hợp pháp, được độc lập và giử nguyên trạng tiếp
tục ổn định tình hình và nắm quyền cai trị quốc gia.
Năm 1945, Việt Minh Cộng Sản
không có công trạng gì trong việc kháng chiến chống Pháp và lật đổ đế quốc Nhật.
Vua Bão Đại lúc đó vì không am hiểu tình hình và vì muốn tránh cảnh nồi da xáo
thịt nên đã tuyên bố thoái vị ngày 25/8/1945 chính phủ Tràn Trọng Kim cũng đã từ
chức trước áp lực của Việt Minh. Đó là một sai lầm tai hại cho đất nước.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh chưa cũng cố được chính quyền Cộng Sản tại
Hà Nội thì Pháp đã thay chân quân Anh trở lại tái chiếm Sàigòn và lan sang các tỉnh Nam Việt
rồi Trung Việt và toàn cõi Việt Nam đẩy ông Hồ và đảng Cộng Sản của ông vô
bưng.
Nhận thấy một bên là thực dân thống trị, một bên là đảng Cộng Sản vô nhân đạo chuyên lừa lọc, không bên nào có
thể đem lại quyền tự quyết cho dân tộc, hòa bình cho quê hương nên một số các
nhà chính trị quốc gia trong đó có Cựu Hoàng Bảo Ðại đã tích cực vận động với
chính phủ Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Các nhà chính trị quốc gia muốn nương theo Pháp loại
bỏ đảng cộng sản ra trước rồi đẩy Pháp ra khỏi Việt Nam sau. Trong khi đó, Pháp
muốn mượn Người Việt Quốc Gia đánh bại CS và giữ VN trong
Liên Hiệp Pháp.
Với những toan tính như vậy, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký
một hiệp định với Cao Ủy Emile Bollaert ngày 5/6/1948 trên tàu Duguay Trouin tại Vịnh Hạ Long và một hiệp định khác với
Tổng Thống Pháp Vincent Auriol tại Paris ngày 8/3/1949. Theo đó Pháp công nhận
“Việt Nam là một Quốc Gia Ðộc Lập trong khối Liên
Hiệp Pháp”.
Chủ trương về một ý thức hệ
quốc gia VN chống cộng sản bắt nguồn từ các văn kiện lịch sử nầy. Theo đó Pháp
đã trao trả độc lập và thống nhất cho VN thì Việt Minh CS sẽ không còn lý do gì
để tiếp tục chiến tranh. Nhưng những con người Hồ chí Minh và đảng CSVN chỉ
biết tuân theo nghĩa vụ quốc tế do Nga Tàu chỉ đạo, họ không những tiếp tục
chiến tranh tại VN mà còn mở rộng chiến tranh giải phóng để bảnh trướng chủ
nghỉa cộng sản sang toàn cỏi Đông Dương.
Thời đó, tình hình kinh tế bên Pháp bị suy thoái và
chiến tranh ngày càng gia tăng, Người Pháp thấy không thể tái cai trị VN một
cách dễ dàng như trước kia, những nhà chính trị Quốc Gia Việt Nam càng thêm
thuận lợi trong việc thương lượng với chính phủ Pháp.
Ngày 6/5/1950 Chính Phủ Trần Văn Hữu ra đời với Quốc
Hiệu VIỆT NAM, Quốc Kỳ nền Vàng ba sọc đỏ, Quốc Ca là Thanh Niên Hành Khúc.
Nước Việt Nam chính thức được thống nhất từ Nam Quan cho đến mũi Cà Mau sau 80 năm
bị chia rẽ để trị của người Pháp…
Trong lúc đó, Cộng Sản đã thống trị toàn cõi Trung Hoa
lục địa, họ viện trợ ào ạt và trang bị quân sự cho Việt Cộng có khả năng tham
dự những trận chiến cấp Trung Ðoàn, Sư Ðoàn, phối hợp Bộ Binh và Pháo Binh.
Trận đánh đầu tiên tại vùng Cao Bắc Lạng năm 1950 đã gây tổn thất nặng nề cho quân đội viễn chinh Pháp.
Ngày 11/5/1950
Quốc Hội Pháp chính thức chấp nhận thành lập Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam
với quân số 60,000 người. Và kể từ đó Quân
Ðội Quốc Gia Việt Nam (QĐQG-VN) lần
lượt hình thành cho đến tháng 4/1975.
II- Giai đoạn sơ khai của tiến trình hình thành
QĐQG Việt Nam
Ngày 1/10/1946, Pháp thành lập lực lượng Vệ Binh Cộng
Hòa Nam Kỳ. Đây là lực lượng quân sự đầu tiên của Chính Phủ Nam Kỳ tự trị do bác
sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ Tướng (tham
chánh ngày 7-5-1946). Ngoài lực lượng này, Pháp cũng tổ chức những lực lượng
quân sự phụ thuộc khác như phụ lực quân, hương dũng, hương vệ để tăng cường cho
lực lượng Quân Đội Pháp tại miền Nam. Về sau lực lượng nầy được cải danh thành
Vệ Binh Nam Việt khi trở thành Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Cũng từ đó, chương
trình phát triển lực lượng quân sự địa phương trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp
bắt đầu.
Ngày 12-4-1947 Bảo Vệ Quân ra đời tại Huế do Hội đồng
chấp chánh Trung Phần thành lập, Ông Đinh Sơn Thung được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng, về sau đơn vị
nầy được cải danh thành Việt Binh Đoàn và do Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lễ từ quân đội Pháp
chuyển sang VN chỉ Huy.
- Tháng 7-1948 một lực lượng quân sự địa phương, Bảo
Chính Đoàn cũng được thành lập tại miền Bắc VN… và một trường đào tạo Sĩ Quan
Việt Nam cấp Trung Ðội Trưởng được thành lập tại Ðập Ðá, Huế. (Về sau di chuyển
lên Đà Lạt tiếp nhận Trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt
của Pháp và cải danh thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Cho đến những năm
1960 trường nầy cải tổ chương trình đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch, thời gian kéo
dài 4 năm và đổi danh xưng là Trường Võ Bị Quốc Gia )
Ðơn vị Nhảy Dù Việt Nam đầu tiên được thành lập vào
ngày 1/1/1948 là Ðại Ðội 1 Nhảy Dù Ðông Dương (1ere Compagnie Indochinoise
Parachutiste CIP ). Ðơn vị nầy được biệt phái cho TÐ1Biệt Kích Nhảy Dù thuộc
địa của Pháp (Bataillon Colonial
Commando Parachutiste BCCP). Nhận thấy
khả năng chiến đấu hữu hiệu của Đại Đội 1 Nhảy Dù Đông Dương nên sau đó các Ðại
Ðội 3, 5, 7 Nhảy Dù Ðông Dương được
thành lập. Những Ðại Ðội nầy cũng được biệt phái cho các Tiểu Ðoàn Nhảy Dù Pháp
làm Ðại Ðội thứ Tư trong các đơn vị Nhảy Dù Pháp. Khi các Tiểu Ðoàn Biệt Kích Nhảy Dù luân
chuyển về Pháp thì các ÐÐND Ðông Dương-Việt Nam được tái biệt phái cho các đơn
vị thay thế. Sĩ quan và Hạ Sĩ Quan
chỉ huy các Ðại Ðội Nhảy Dù Ðông Dương phần lớn là người Pháp do các Tiểu Ðoàn
gốc cung cấp.
Năm 1949, thêm một đơn vị biệt lập, Ðại Ðội 1 Nhảy Dù Phòng Vệ Bắc Việt được thành lập và Ðại Ðội
Trưởng là Trung Úy Nguyễn Khánh. Một trong những Trung Ðội Trưởng là Trung Úy Ðỗ
Cao Trí.
- Ngày 13/4/1949, Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành
sắc lệnh 66/SG chính thức hóa các đơn vị vệ binh tại các địa phương thành Quân
Ðội chính quy và các quân nhân đều được hưởng lương bổng của
Quốc gia, (cao hơn lương của phụ lực quân rất nhiều). Các đơn vị Vệ Binh được
hưởng là Vệ Binh Nam Việt, Việt Binh Đoàn (Trung Việt), Bảo Chính Đoàn ( Bắc
Việt) và Vệ Binh Sơn Cước và có cùng danh xưng chung là Vệ Binh Quốc Gia.
- Ngày 1 tháng 7/1949, Quốc Trưởng Bảo Đại ký dụ
số 1/CP và dụ số 2/CP để tổ chức các cơ
quan công quyền, quy chế công sở, xác định Việt Nam có 3 phần: Bắc Việt, Trung
Việt, Nam Việt. Mỗi phần có ngân sách riêng, do một
Thủ Hiến điều hành. Vị Thủ Hiến của mỗi phần cũng là Tổng Chỉ Huy lực lượng
quân sự địa phương.
- Ngày
1/10/1949, bốn Tiểu Ðoàn Bộ Binh Việt Nam (BVN= Bataillon Vietnamien) đầu tiên được thành lập là các Tiểu Đoàn số 1(BVN 1) tại Bạc Liêu (gốc Cao
Đài) , BVN2 tại Thái Bình; BVN3 tại Rạch Giá và BVN4 tại Hưng Yên đánh dấu Quân Đội Quốc Gia VN từ giai đoạn phụ lực và vệ binh sang giai đoạn
chính quy.
Thành phần của một BVN gồm có:
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có 6 Sĩ Quan (TĐT, TĐP,
SQTình Báo, SQTT, Y Sĩ và một Tuyên Úy), một
Đại Đội Chỉ Huy và 4 Đại Đội tác chiến, quân số lý thuyết là 829 người
gồm 23 Sĩ Quan, 110 Hạ Sĩ Quan và 696 Binh Sĩ.
ĐĐ Chỉ Huy có Ban Chi Huy ĐĐ 9
người, Ban Hành Chánh 24 người, Ban Truyền Tin 24 người, Ban Quân Y 9 người,
Ban Quân Xa 24 người, Trung Đội Súng nặng 28 người và Trung Đội Công Binh 28
người.
Ngoài các chương trình huấn luyện, đào tạo sĩ quan chỉ
huy trong nước, một số sĩ quan Việt Nam đầu tiên cũng được gửi theo học tại các
quân trường của Pháp. Cuối năm 1949, Quân Đội Quốc Gia VN đả có 45 ngàn quân.
Ngày 11/5/1950 tại Sài Gòn, Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam với lập
trường chống Cộng Sản, và gia tăng quân số lên đến 60 ngàn người, bao gồm một
nữa là lực lượng chủ lực chính quy, một nữa là vệ binh. Nhiệm vụ của Quân Đội
Quốc Gia Việt Nam là bình định và đảm trách một phần nhiệm vụ tác chiến thay
dần các đơn vị Quân Đội Pháp. Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của QĐQG-VN là
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. ThT Hinh gốc là Sĩ Quan
Không Quân từ quân đội Pháp chuyển sang. Bản doanh Bộ Tổng Tham Mưu tọa lạc
trên đường Trần Hưng Đạo thuộc Quận 5 Sài Gòn.
Ngày 12 tháng 6 năm 1950, chương trình quân viện của
Chính Phủ Hoa Kỳ được chính thức thông báo chuyển sang cho Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam. Cuối năm 1950, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam có 65 ngàn chiến binh.
Ngày 23-12-1950, Pháp-Mỹ-Việt ký hiệp-định hỗ tương
phòng thủ và viện trợ quân sự; theo đó Mỹ viện-trợ cho VN hai tỷ Mỹ-Kim trong bốn năm, từ 1950 đến 1954 để trang bị
cho Quân-Đội Quốc Gia Việt Nam. Cùng ngày, nghị-định thành-lập hai trường
Sĩ-Quan Trừ-Bị Nam-Định và Thủ Đức được ban hành, nhằm đào tạo Sĩ-Quan ngạch
trừ-bị cho QĐQG-VN. Khóa Sĩ-Quan Trừ-Bị đầu tiên khai giảng cùng một ngày
9/10/1951 tại Nam Định và Thủ Đức.
Trường Sĩ-quan Trừ-Bị Nam- Định chỉ đào-tạo được một
khóa rồi đóng cửa vĩnh viễn năm 1952. Trường Sĩ-Quan Trừ-Bị Thủ-Đức hoạt-động
tới cuối tháng 4-1975, lúc đó mang tên là Trường Bộ-binh, đặt ở Long-Thành.
Ngày 1/5/1952 do dụ số 43QP Bộ
Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt
·
Tổng Tham Mưu Trưởng và văn phòng,
·
Tham Mưu Trưởng.
·
3 vị TMP Nhân Viên, Hành Quân & Huấn Luyện và Tiếp Vận.
·
4 Phòng Tham Mưu 1, 2, 3 và 4.
·
Chỉ Huy Trưởng Viễn Thông.
·
Nha An Ninh Quân Đội.
·
Ban Hải Quân.
·
Ban Không Quân.
·
Trung Tâm Công Văn Công Điện.
·
và 4 Nha Nhân Viên, Nha Quân Nhu, Nha Quân Cụ (gồm cả Sở Vật Liệu Truyền
Tin) và Nha Quân Y.
Trụ sở tọa lạc tại số 606 Trần
Hưng Đạo Sài Gòn cho tới năm 1956 di chuyển đến trại Trần Hưng Đạo (Camp
Chanson của Pháp giao lại cho VNCH) kế bên phi trường Tân Sơn Nhất Phú Nhuận.
Tướng Lê Văn Tỵ:
Ông Lê
Văn Tỵ sinh năm 1903, xuất thân trường Thiếu Sinh Quân Đông Dương rồi phục vụ trong quân đội Pháp
tại Việt Nam
với chức vụ Tiểu
đội trưởng Địa phương quân, cấp Trung sĩ. Ông được cử đi học ngành pháo binh và đào
tạo để trở thành một sĩ quan chỉ huy quân đội Quốc gia Việt Nam.. Năm 1950, khi
quân đội Việt Nam được hình
thành ở cấp phần (Nam Việt, Trung Việt, Bắc Việt), ông Tỵ mang cấp Trung tá và là sĩ quan Việt Nam có cấp cao nhất tại Nam
Việt lúc bấy giờ. Ngày
Hưng Quốc Khánh Niệm 6 tháng 6/1951, ông Tỵ là tổng chỉ huy cuộc duyệt binh đầu
tiên của các lực lượng Việt Nam tại Sài Gòn, cuộc duyệt binh lịch sử dưới quyền
chủ tọa của Quốc Trưởng Bảo Đại. Năm
1952, khi các quân khu được hình thành, ông là vị sĩ quan Tư lệnh đầu tiên của Đệ Nhất Quân Khu (bao gồm các tỉnh
Nam Việt). Lúc bấy giờ ông đã mang cấp Đại Tá.
Tháng
11/1954, nhiều sự kiện dồn dập đã mở đầu cho bước đường thăng tiến của vị Đại
tá tư lệnh Đệ Nhất Quân Khu. Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh (Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam) chống đối Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 20 tháng
11, Quốc Trưởng Bảo Đại gửi điện văn gọi Trung
Tướng Hinh sang Pháp
để trình diện Quốc Trưởng và
cách chức Tổng Tham Mưu trưởng của tướng Hinh.
Trong
khi đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã thăng cấp Thiếu Tướng
cho Đại Tá Lê Văn Tỵ. Ngày 1 tháng 12/1954, tân Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ được đề
cử giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung
Tướng Nguyễn Văn Hinh. Cũng trong ngày này, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ được cử
làm Tổng Thanh Tra Quân Đội.
Trong lúc hoạt động quân sự của CS Việt Minh được các
cường quốc CS Nga Tàu yểm trợ tối đa làm cho Bộ Tư Lệnh viễn chinh Pháp ngày
càng bối rối với các trận đánh cấp Trung Đoàn rồi Đại Đoàn ( lớn hơn Trung Đoàn
và nhỏ hơn Sư Đoàn ) và một căn cứ quân sự kiên cố bậc nhất của Pháp được xây
dựng trong lòng chảo Điện Biên Phủ với 13,000 quân trú phòng bị thất thủ vào
ngày 7/5/1954 dẩn đến hiệp định Geneve ngày 20/7/1954 chia cắt Việt Nam thành
hai miền: Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra do Cộng Sản cai trị. Miền Nam từ vĩ
tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa theo thể chế Tự Do.
Cho đến thời điểm nầy QĐQG-VN có: 168 ngàn quân gồm 81 Tiểu Đoàn Khinh Quân (mỗi Tiểu Đoàn 737 người), 21
TĐ Vệ Binh, 9 TĐ Pháo Binh, một Liên Đoàn Nhảy Dù với 5 Tiểu Đoàn tác chiến, một
Trung Đoàn Thiết Giáp, 6 Đại Đội Truyền Tin, 6 Đại Đội Công Binh và 6
Đại Đội Quân Vận.
III Giai Ðoạn hình thành Binh Chủng Nhảy Dù -
Liên Đoàn Nhảy Dù
Song song với việc thành lập các đơn vị Sư Ðoàn Bộ
Binh Việt Nam, Quân Đội Pháp cũng thành lập các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam. Ngày 15/7/1951, bởi quyết định số 1547/EMIFT/1 (Etat
Major Interarmees et des Forces Terrestres) Đại Đội 1 Nhảy Dù Đông Dương ( 1er
Compagnie Indochinoise Parachutiste – 1CIP) và Đại Đội 1 Phòng Vệ Bắc Việt ( 1
Compagnie de la Garde) được kết hợp thành lập Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù Việt Nam (1er
Bataillon de Parachutistes Vietnamiens) đầu tiên tại Chí Hoà Sài Gòn ( Nha
Hỏa-Xa tại cống Bà-Xếp Hòa-Hưng ), phần lớn các cán bộ chỉ huy đều do người
Pháp nắm giữ. TĐT đầu tiên là Đại Úy Vervelle kế đó là các Đại Úy Chapuis, Đ/U
Picheri và sau đó mới chuyển qua SQ VN là Đại Úy Nguyễn Khánh rồi Thiếu Tá
Albert Lê Quang Triệu, Đại Úy Vũ Quang Tài... Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại Trung
Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù trong căn cứ Tân Sơn Nhất, và một Trung Tâm khác tại
Phi-Trường Bạch Mai Hà Nội.
Từ ngày 30/8/1951 đến ngày 9/9/1951 một Đại Đội/TĐ1ND
–VN đươc thả xuống cù lao Ré tỉnh Quảng Nam để tham dự cuộc hành quân
“Pirate”tấn công một lực lượng CS Việt Minh vừa xâm nhập vào đảo nầy. Đây là
trận thử lửa đầu tiên của TĐ1ND-VN.
Ngày 1/4/1952 Tiểu Ðoàn 4 Nhảy Dù được thành lập tại
Ðà Nẳng Nhưng sau vì thiệt hại nặng trong một cuộc chạm súng với một Trung Ðoàn
Cộng quân tại Seno
Lào nên giải tán.
Vào ngày 1/9/1952 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được thành lập
tại Trường Bưởi Hà-Nội (Quân số lấy từ các quân
nhân Việt và Pháp thuộc Tiểu Đoàn 10 Nhảy Dù Thuộc Điạ ( TĐ10ND thuộc địa bị thiệt hại nặng trong trận đánh với CSBV tại Ba-Vì,
Bắc Việt ). Quân số đầu tiên cuả đơn vị gồm
446 Pháp và 408 người Việt do một Sĩ Quan
Pháp (Đại Úy
Monteil) làm Tiểu Đoàn Trưởng.
Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại trường nhảy dù cạnh phi
trường Bạch Mai Hà Nội.
Một lính dù VN mặc bộ quân phục "Windproof",
mũ trận M1 với quai
đeo bằng vải được biến cải phù hợp với vóc dáng
Từ ngày 30/8/1951 đến ngày 9/9/1951 một Đại Đội/TĐ1ND
–VN đươc thả xuống cù lao Ré tỉnh Quảng Nam để tham dự cuộc hành quân “Pirate”tấn
công một lực lượng CS Việt Minh vừa xâm nhập vào đảo nầy. Đây là trận thử lửa
đầu tiên của TĐ1ND-VN.
Ngày 1/4/1952 Tiểu Ðoàn 4 Nhảy Dù được thành lập tại
Ðà Nẳng Nhưng sau vì thiệt hại nặng trong một cuộc chạm súng với một Trung Ðoàn
Cộng quân tại Seno
Lào nên giải tán.
Vào ngày 1/9/1952 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được thành lập
tại Trường Bưởi Hà-Nội (Quân số lấy từ các quân
nhân Việt và Pháp thuộc Tiểu Đoàn 10 Nhảy Dù Thuộc Điạ ( TĐ10ND thuộc địa bị thiệt hại nặng trong trận đánh với CSBV tại Ba-Vì,
Bắc Việt ). Quân số đầu tiên cuả đơn vị gồm
446 Pháp và 408 người Việt do một Sĩ Quan
Pháp (Đại Úy
Monteil) làm Tiểu Đoàn Trưởng.
Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại trường nhảy dù cạnh phi
trường Bạch Mai Hà Nội.
Ngày 1/9/1953 Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù được thành lập tại
Trường Bưởi, Hà Nội từ những cán bộ Việt Nam thuộc Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù
Thuộc Điạ. Ngày 20/11/1953 TĐ5ND-VN cùng với trên 4,000 lính Nhảy Dù khác nhảy
xuống căn cứ Điện Biên Phủ trong một cuộc hành quân nhảy dù lớn nhất từ sau Đệ
Nhị Thế Chiến. Ngày 13/3/1954 TĐ5ND-VN lại nhảy xuống Điện Biên Phủ một lần nữa
trong nổ lực tăng viện giải vây cho căn cứ nầy. Khi ĐBP thất thủ, TĐ5ND hoàn
toàn tan rã và được tái thành lập vào tháng 8/1954
Ngày 1/9/1953
Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù được thành lập tại Hải Phòng. Vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên là
Capitaine Lehmann. Hầu hết Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan chỉ huy đơn vị nhảy dù
Pháp thuyên chuyển tới. Ngày 1 tháng 3 năm 1955, Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù bị giải
tán để lấy quân số bổ sung cho các đơn vị khác khi thành lập Liên Đoàn Nhảy Dù
Việt Nam.
Ðến ngày 1/5/1954
thêm TĐ6ND được thành lập tại Tân Sơn Nhì Gia Định với thành phần Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan hoàn
toàn Việt Nam được lựa chọn hầu hết là quân số của TÐ19 Khinh Quân tại Cà Mau
(đa số là người Khmer Krộm) Thiếu Tá Đổ Cao Trí là vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu
tiên. Khi Thiếu Tá Trí lên làm Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù ngày 29/9/1954 thì Đại Úy Thạch Con Tiểu Đoàn Phó được chỉ định thay thế.
Một đơn vị Nhảy Dù Việt Nam dàn chào Quốc Trưởng Bảo Đại tại
Trường Võ Bị Việt Nam năm 1954
Ngày 29/9/1954 Pháp chính thức bàn giao Quân Đội lại
cho Việt-Nam tại sân cờ Liên Đoàn 3 Nhảy Dù GAP 3 (Groupement Aéroporté
Parachutiste No.3) Nha Trang trong chương trình trao trả độc lập cho Việt-Nam.
Liên Ðoàn Nhảy Dù Việt
Nam được thành lập từ đó gồm 4
Tiểu Ðoàn 1,3,5 & 6 (giải tán TĐ7 ND để lấy quân số bổ sung cho các Tiểu
Đoàn, BCH Liên Đoàn và các đơn vị yểm trợ)
Liên Đoàn Nhảy Dù có 4.000 người gồm Bộ Chỉ Huy, Đại
Đội Chỉ Huy Liên Đoàn, các Tiểu Đoàn 1, 3, 5, 6 Nhẩy Dù, và Tiểu Đoàn Trợ Chiến (gồm các đơn vị Đại Đội Quân Y, Đại Đội Công
Binh , Đại Đội Súng Cối, Đại Đội Kỹ Thuật; Phân Đội Truyền Tin và Trung Đội
Tiếp Tế Thả Dù .
Mỗi Tiểu Đoàn Nhảy Dù có một Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn, một Đại Đội Trợ Chiến và 3 (sau này là 4) đại đội tác chiến, tổng số lên
tới 1000 người. Các cấp chỉ huy đầu tiên
của Liên Đoàn Nhảy Dù gồm có:
- Chỉ Huy Trưởng : Thiếu Tá Đỗ
Cao Trí.
- Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù , Tiểu
Đoàn Trưởng là Đại Úy Vũ Quang Tài.
- Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn
Trưởng là Đại Úy Phan Trọng Chinh
- Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Tiểu Đoàn
Trưởng là Trung
Úy Nguyển Văn Viên
- Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Tiểu Đoàn
Trưởng là Đại Úy Thạch Con.
- Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù
Tiểu Đoàn Trưởng là Đại Úy Trịnh Xuân Nghiêm,
Các đơ n vị yễm trợ:
- Ðại Ðội Quân Y, Đại Đội Trưởng là Đại Úy Bác Sĩ Ngô Thiên Khai.
- Đại Đội Công Binh Nhảy Dù, ĐĐTrưởng là
Thiếu Úy Hoàng Công Chức.
- Đại Đội Súng Cối Nhảy Dù, Đại Đội Trưởng là
Thiếu Úy Huỳnh Long Phi.
- Phân Đội Truyền Tin Nhảy Dù, Phân Đội Trưởng là Trung Uy Nguyển Văn Viên (khác với Trung Úy Viên TĐT/ TĐ5ND
).
- Ðại Ðội Kỹ Thuật, Đại Đội Trưởng là Trung Úy
Nguyễn Khoa
Ngày 25/3/1955 Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Nhảy Dù và 2 Tiểu Đoàn 3 & 5ND được di
chuyển vào Sàigòn và BCH đóng tại Trại Quân Cụ cạnh chợ Trần Quốc Toản.
Ngày 4 /6 /1955 toàn bộ Liên Đoàn đều di chuyển vào
Sài Gòn để hoàn chỉnh và thống nhất chỉ huy dưới quyền cuả các Sĩ Quan Việt
Nam.
Ngày 1/5/1955 Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù được thành lập tại Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhất,
Tây-Bắc ngoại ô Sài Gòn, rập theo trường nhẩy dù Fort Benning của Mỹ, được thành lập cùng năm, dùng tài sản của trường
Pháp trước kia và cùng tọa lạc với Liên Đoàn Nhảy Dù, Chuẩn Úy Trần Văn Vinh là
Chỉ Huy Trưởng đầu tiên.
Ngày 1/9/1956, Trung Tá Nguyển Chánh Thi thay thế Đại
Tá Đỗ Cao Trí trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù. Đại Tá Đỗ Cao Trí được đề bạt đảm nhiệm chức vụ Tư
Lệnh Đệ Tam Quân Khu (gồm các
tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Yên, Bình Định)
Ngày 26/10/1959, Theo đà phát triển quân đội, Liên
Đoàn Nhảy Dù được cải danh thành Lữ-Đoàn Nhảy Dù và vẫn dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi.
Ngày 12/11/1960 Trung Tá Cao Văn Viên đang là Tham Mưu
Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống, được đề cử giữ chức Tư-Lệnh Lữ-Đoàn Nhảy Dù và
sau đó được thăng cấp Đại Tá thay thế Đại Tá Nguyển Chánh Thi tham gia đảo
chánh TT Ngô Đình Diệm bất thành và lưu vong sang Kampuchea.
Các Sĩ Quan thuộc Liên Đoàn Nhảy Dù năm
1955
IV Giai đoạn phát triển 1961 – 1967.
Ngày 1/12/1959 Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được thành lập tại
Sàigòn với Tiểu Ðoàn Trưởng là Đại Úy Trương Quang Ân.
Đầu năm 1961 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được tái thành
lập tại Biên Hòa, Tiểu Ðoàn
Trưởng là Đại Úy Ngô Xuân Nghị.
Năm 1962, Lữ Ðoàn Nhảy Dù tổ chức thành 2 Chiến Ðoàn
để đáp ứng nhu cầu gia tăng của chiến trường: Chiến Ðoàn 1 gồm 3 Tiểu Ðoàn 1,3
& 8ND do Thiếu Tá Dư Quốc Ðống làm Chiến Đoàn Trưởng, bản doanh đóng tại
căn cứ Hoàng Hoa Thám và Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù gồm 3 Tiểu Ðoàn 5, 6 & 7ND,
do Thiếu Tá Ðỗ Kế Giai làm Chiến Đoàn Trưởng, bản doanh đóng tại Tam Hiệp Biên Hòa.
Ðầu tháng 4/1964 sau chiến thắng
Hồng Ngự trong khu vực phía Tây Ðồng Tháp Mười, Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh
LĐND được đặc cách thăng Thiếu Tướng tại mặt trận và sau đó được đề cử giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ TTM
và Trung Tá Dư Quốc Đống được đặc cách thăng cấp Đại Tá thay thế chức vụ Tư
Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù.
Ngày1/9/1965, TÐ2ND được thành lập tại Sàigòn. Tiểu
Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng. Vào ngày 1/10/1965 TÐ9ND cũng được
thành lập tại Sàigòn với Thiếu Tá Lê Văn Huệ làm Tiểu Ðoàn Trưởng.
Và để đáp ứng nhu cầu phát triến của LÐND, một Tiểu
Ðoàn Pháo Binh 105 ly cơ hữu cũng được thành lập trong năm 1965 và đơn vị Quân
Y Nhảy Dù cũng được nâng cấp thành Tiểu Ðoàn QYND trong thời gian nầy để cung cấp dịch vụ y tế trị
liệu và tản thương kịp thời cho đơn vị.
Ngày 19/6/1967, TÐ11ND được thành lập tại đồi Tăng
Nhơn Phú Thủ Ðức do Thiếu Tá Nguyễn Viết Cần làm Tiểu Ðoàn Trưởng.
Để thích ứng với hệ thống chỉ huy “tam tam chế”, thêm
Chiến Đoàn 3ND được thành lập vào ngày 1/7/1967 do Trung Tá Nguyễn Khoa Nam làm
Chiến Đoàn Trưởng.
Ngày 1/12/1965 Lữ Đoàn Nhảy Dù được Bộ Tổng Tham Mưu
cải danh thành Sư Đoàn Nhảy Dù vẫn do Thiếu Tướng
Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh và ngày 1/4/1968 các Chiến Đoàn Nhảy Dù được cải danh
thành Lữ Ðoàn: Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Hồ Trung Hậu làm Lữ Đoàn Trưởng,
Lữ Đoàn 2 ND do Trung Tá Đào Văn Hùng làm Lữ Đoàn Trưởng. và Lữ Đoàn 3 ND do
Trung Tá Nguyễn Khoa Nam làm Lữ Đoàn Trưởng.
Theo sự gia tăng nhu cầu ngày càng nhiều của chiến
trường và để yểm trợ hỏa lực hữu hiệu cho ba LĐND,
trong khi chờ đợi sự yểm trợ của các đơn vị pháo binh diện địa,
BCH/PB/SĐND&TĐ2PBND được thành lập ngày 1/12/68, sang năm 1969, TĐ3PBND
được thành lập. Trong thời gian nầy 3 Đại Đội Trinh Sát Nhảy Dù thống thuộc 3
Lữ Đoàn Nhảy Dù cũng được thành lập.
Ðến đầu năm 1969, SÐND có 3 Lữ Ðoàn ND gồm cả thảy 9
Tiểu Ðoàn Nhảy Dù tác chiến, 3 Đại Đội Trinh Sát và 3 Tiểu Ðoàn Pháo Binh Nhảy Dù.
Năm 1970, các đơn vị Công Binh và Truyền Tin thuộc
SĐND cũng được nâng cấp thành TĐTT/SĐND và TĐCB/SĐND
Ngày 11/11/1972 sau mùa Hè đỏ lửa, Chuẩn Tướng Lê
Quang Lưỡng chính thức đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh SÐND thay thế TrT Dư Quốc
Ðống.
Ðầu năm 1974, để đối đầu với sự gia tăng xâm nhập vào
miền Nam của CSBV, Bộ TTM/QLVNCH chấp thuận cho SÐND thành lập thêm Lữ Ðoàn 4
Nhảy Dù do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Ðoàn Trưởng, và 6 Tiểu Ðoàn 12, 14, 15,
16, 17, 18 Nhảy Dù, ÐÐ4TSND và TÐ4PBND. Trong thời gian cuối cùng của VNCH năm
1975, LĐ4ND trách nhiệm bảo vệ quanh vòng đai Đô Thành Sàigòn.
SĐND là một Sư Đoàn thiện chiến của QLVNCH, được sự
kính nể của các Quân Lực Đồng Minh và
ngay cả đối phương của chúng ta.
Tài liệu Tham khảo :
-
Quân Sử Quân Đội Quốc Gia Việt
-
Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Đức
Phương, Làng Văn xuất bản tại Toronto Ontario Canada năm 2001.
-
Những Sự Thật Chiến Tranh VN 1954 – 1975 của
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại Tá Lê Bá Khiếu và Tiến Sỉ Nguyễn Văn – Tác giả
xuất bản và giữ bản quyền.
-
Lịch Sử hình thành QL-VNCH của Trần Hội và Trần
Đổ Cẩm trên trang nhà History Of The VietNam War 1945 – 1975.
-
Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu trong
SĐND.
-
Những hình ảnh trong quyển
sách hầu hết truy cập từ Internet.
-
Insignia of
The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F.
Pugh.
NNgày 15/5/1970: Trung Tướng Đỗ Cao Trí thăm viếng trai tỵ
nạn Việt Kiều Kampuchea hồi hương - hình ảnh © Bettmann/CORBIS
Trong buổi lễ xuất quân đánh sang
Campuchia trong tháng
1 năm 1971,
Tướng Trí tuyên bố là Ông sẽ sống và chết với ba quân trên chiến trường và Ông đã giữ đúng lời hứa. Ông đã
cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Quân Đội và Tổ Quốc.
Các Sĩ Quan cấp Thiếu Tá Nhảy Dù trong ngày Quốc Khánh 1967
Nguyễn Văn Be, Nguyễn Phẫm Bường, Phạm Ngọc Lân, Nguyễn Văn Tư và Hoàng Cơ Lân
TĐ5ND-VN chuẩn bị nhảy xuống trận địa Điện Biên Phủ 1954
Võ TrungTín & Nguyễn Hữu Viên (HNPD)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Lược Sử hình thành Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam - Võ Trung Tín & Nguyễn Hữu Viên
Lược Sử hình thành
Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam
I Bối cảnh Lịch Sử Chính Trị Quân Sự :
Ngày 14/8/1945 tại Tokyo, Nhật Hoàng Hiro Hito tuyên
bố đầu hàng quân đội đồng minh do Hoa Kỳ cầm đầu vô điều kiện, Thế Giới Chiến
Tranh lần hai chấm dứt. Lực lượng đồng minh ủy thác trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra cho quân đội
Tưởng Giới Thạch, phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào cho quân đội Anh. Pháp theo chân
quân Anh trở lại VN nhằm mục đích tiếp tục cai trị
sau 5 tháng gián đoạn vì Nhật đảo chánh.
Lợi dụng tình trạng chính trị không rõ ràng, ngày 17
tháng 8/1945 tại Hà Nội các viên chức Việt Nam và các đảng phái yêu nước Quốc
Gia tổ chức cuộc tập họp dân chúng trước nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ Trần
Trọng Kim và biểu dương ý chí bảo vệ đất nước. Nhưng đã bị Việt Minh Cộng sản
do HCM lảnh đạo tung cán bộ trà trộn trong đám đông, lương lẹo hô hào đòi hỏi
Hoàng Ðế Bảo Ðại thoái vị và cướp chánh quyền tại Hà-Nội. Cướp lấy nền độc lập của dân
Việt chứ không phải cướp chính quyền trong tay người Pháp hay Nhựt
Theo thỏa thuận của các cường
quốc thuộc phe đồng minh, tại hội nghị Potsdam và hội nghị Yalta thì sau khi thế
giới đại chiến thứ II kết thúc, các nước thuộc địa vẫn giử nguyên trạng nghỉa là
vẫn duy trì chính quyền đã có từ trước và dần tiến tới thể chế dân chủ.
Vua Bão Đại và chính phủ Trần
Trọng Kim lúc đó là chính quyền hợp pháp, được độc lập và giử nguyên trạng tiếp
tục ổn định tình hình và nắm quyền cai trị quốc gia.
Năm 1945, Việt Minh Cộng Sản
không có công trạng gì trong việc kháng chiến chống Pháp và lật đổ đế quốc Nhật.
Vua Bão Đại lúc đó vì không am hiểu tình hình và vì muốn tránh cảnh nồi da xáo
thịt nên đã tuyên bố thoái vị ngày 25/8/1945 chính phủ Tràn Trọng Kim cũng đã từ
chức trước áp lực của Việt Minh. Đó là một sai lầm tai hại cho đất nước.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh chưa cũng cố được chính quyền Cộng Sản tại
Hà Nội thì Pháp đã thay chân quân Anh trở lại tái chiếm Sàigòn và lan sang các tỉnh Nam Việt
rồi Trung Việt và toàn cõi Việt Nam đẩy ông Hồ và đảng Cộng Sản của ông vô
bưng.
Nhận thấy một bên là thực dân thống trị, một bên là đảng Cộng Sản vô nhân đạo chuyên lừa lọc, không bên nào có
thể đem lại quyền tự quyết cho dân tộc, hòa bình cho quê hương nên một số các
nhà chính trị quốc gia trong đó có Cựu Hoàng Bảo Ðại đã tích cực vận động với
chính phủ Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Các nhà chính trị quốc gia muốn nương theo Pháp loại
bỏ đảng cộng sản ra trước rồi đẩy Pháp ra khỏi Việt Nam sau. Trong khi đó, Pháp
muốn mượn Người Việt Quốc Gia đánh bại CS và giữ VN trong
Liên Hiệp Pháp.
Với những toan tính như vậy, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký
một hiệp định với Cao Ủy Emile Bollaert ngày 5/6/1948 trên tàu Duguay Trouin tại Vịnh Hạ Long và một hiệp định khác với
Tổng Thống Pháp Vincent Auriol tại Paris ngày 8/3/1949. Theo đó Pháp công nhận
“Việt Nam là một Quốc Gia Ðộc Lập trong khối Liên
Hiệp Pháp”.
Chủ trương về một ý thức hệ
quốc gia VN chống cộng sản bắt nguồn từ các văn kiện lịch sử nầy. Theo đó Pháp
đã trao trả độc lập và thống nhất cho VN thì Việt Minh CS sẽ không còn lý do gì
để tiếp tục chiến tranh. Nhưng những con người Hồ chí Minh và đảng CSVN chỉ
biết tuân theo nghĩa vụ quốc tế do Nga Tàu chỉ đạo, họ không những tiếp tục
chiến tranh tại VN mà còn mở rộng chiến tranh giải phóng để bảnh trướng chủ
nghỉa cộng sản sang toàn cỏi Đông Dương.
Thời đó, tình hình kinh tế bên Pháp bị suy thoái và
chiến tranh ngày càng gia tăng, Người Pháp thấy không thể tái cai trị VN một
cách dễ dàng như trước kia, những nhà chính trị Quốc Gia Việt Nam càng thêm
thuận lợi trong việc thương lượng với chính phủ Pháp.
Ngày 6/5/1950 Chính Phủ Trần Văn Hữu ra đời với Quốc
Hiệu VIỆT NAM, Quốc Kỳ nền Vàng ba sọc đỏ, Quốc Ca là Thanh Niên Hành Khúc.
Nước Việt Nam chính thức được thống nhất từ Nam Quan cho đến mũi Cà Mau sau 80 năm
bị chia rẽ để trị của người Pháp…
Trong lúc đó, Cộng Sản đã thống trị toàn cõi Trung Hoa
lục địa, họ viện trợ ào ạt và trang bị quân sự cho Việt Cộng có khả năng tham
dự những trận chiến cấp Trung Ðoàn, Sư Ðoàn, phối hợp Bộ Binh và Pháo Binh.
Trận đánh đầu tiên tại vùng Cao Bắc Lạng năm 1950 đã gây tổn thất nặng nề cho quân đội viễn chinh Pháp.
Ngày 11/5/1950
Quốc Hội Pháp chính thức chấp nhận thành lập Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam
với quân số 60,000 người. Và kể từ đó Quân
Ðội Quốc Gia Việt Nam (QĐQG-VN) lần
lượt hình thành cho đến tháng 4/1975.
II- Giai đoạn sơ khai của tiến trình hình thành
QĐQG Việt Nam
Ngày 1/10/1946, Pháp thành lập lực lượng Vệ Binh Cộng
Hòa Nam Kỳ. Đây là lực lượng quân sự đầu tiên của Chính Phủ Nam Kỳ tự trị do bác
sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ Tướng (tham
chánh ngày 7-5-1946). Ngoài lực lượng này, Pháp cũng tổ chức những lực lượng
quân sự phụ thuộc khác như phụ lực quân, hương dũng, hương vệ để tăng cường cho
lực lượng Quân Đội Pháp tại miền Nam. Về sau lực lượng nầy được cải danh thành
Vệ Binh Nam Việt khi trở thành Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Cũng từ đó, chương
trình phát triển lực lượng quân sự địa phương trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp
bắt đầu.
Ngày 12-4-1947 Bảo Vệ Quân ra đời tại Huế do Hội đồng
chấp chánh Trung Phần thành lập, Ông Đinh Sơn Thung được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng, về sau đơn vị
nầy được cải danh thành Việt Binh Đoàn và do Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lễ từ quân đội Pháp
chuyển sang VN chỉ Huy.
- Tháng 7-1948 một lực lượng quân sự địa phương, Bảo
Chính Đoàn cũng được thành lập tại miền Bắc VN… và một trường đào tạo Sĩ Quan
Việt Nam cấp Trung Ðội Trưởng được thành lập tại Ðập Ðá, Huế. (Về sau di chuyển
lên Đà Lạt tiếp nhận Trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt
của Pháp và cải danh thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Cho đến những năm
1960 trường nầy cải tổ chương trình đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch, thời gian kéo
dài 4 năm và đổi danh xưng là Trường Võ Bị Quốc Gia )
Ðơn vị Nhảy Dù Việt Nam đầu tiên được thành lập vào
ngày 1/1/1948 là Ðại Ðội 1 Nhảy Dù Ðông Dương (1ere Compagnie Indochinoise
Parachutiste CIP ). Ðơn vị nầy được biệt phái cho TÐ1Biệt Kích Nhảy Dù thuộc
địa của Pháp (Bataillon Colonial
Commando Parachutiste BCCP). Nhận thấy
khả năng chiến đấu hữu hiệu của Đại Đội 1 Nhảy Dù Đông Dương nên sau đó các Ðại
Ðội 3, 5, 7 Nhảy Dù Ðông Dương được
thành lập. Những Ðại Ðội nầy cũng được biệt phái cho các Tiểu Ðoàn Nhảy Dù Pháp
làm Ðại Ðội thứ Tư trong các đơn vị Nhảy Dù Pháp. Khi các Tiểu Ðoàn Biệt Kích Nhảy Dù luân
chuyển về Pháp thì các ÐÐND Ðông Dương-Việt Nam được tái biệt phái cho các đơn
vị thay thế. Sĩ quan và Hạ Sĩ Quan
chỉ huy các Ðại Ðội Nhảy Dù Ðông Dương phần lớn là người Pháp do các Tiểu Ðoàn
gốc cung cấp.
Năm 1949, thêm một đơn vị biệt lập, Ðại Ðội 1 Nhảy Dù Phòng Vệ Bắc Việt được thành lập và Ðại Ðội
Trưởng là Trung Úy Nguyễn Khánh. Một trong những Trung Ðội Trưởng là Trung Úy Ðỗ
Cao Trí.
- Ngày 13/4/1949, Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành
sắc lệnh 66/SG chính thức hóa các đơn vị vệ binh tại các địa phương thành Quân
Ðội chính quy và các quân nhân đều được hưởng lương bổng của
Quốc gia, (cao hơn lương của phụ lực quân rất nhiều). Các đơn vị Vệ Binh được
hưởng là Vệ Binh Nam Việt, Việt Binh Đoàn (Trung Việt), Bảo Chính Đoàn ( Bắc
Việt) và Vệ Binh Sơn Cước và có cùng danh xưng chung là Vệ Binh Quốc Gia.
- Ngày 1 tháng 7/1949, Quốc Trưởng Bảo Đại ký dụ
số 1/CP và dụ số 2/CP để tổ chức các cơ
quan công quyền, quy chế công sở, xác định Việt Nam có 3 phần: Bắc Việt, Trung
Việt, Nam Việt. Mỗi phần có ngân sách riêng, do một
Thủ Hiến điều hành. Vị Thủ Hiến của mỗi phần cũng là Tổng Chỉ Huy lực lượng
quân sự địa phương.
- Ngày
1/10/1949, bốn Tiểu Ðoàn Bộ Binh Việt Nam (BVN= Bataillon Vietnamien) đầu tiên được thành lập là các Tiểu Đoàn số 1(BVN 1) tại Bạc Liêu (gốc Cao
Đài) , BVN2 tại Thái Bình; BVN3 tại Rạch Giá và BVN4 tại Hưng Yên đánh dấu Quân Đội Quốc Gia VN từ giai đoạn phụ lực và vệ binh sang giai đoạn
chính quy.
Thành phần của một BVN gồm có:
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có 6 Sĩ Quan (TĐT, TĐP,
SQTình Báo, SQTT, Y Sĩ và một Tuyên Úy), một
Đại Đội Chỉ Huy và 4 Đại Đội tác chiến, quân số lý thuyết là 829 người
gồm 23 Sĩ Quan, 110 Hạ Sĩ Quan và 696 Binh Sĩ.
ĐĐ Chỉ Huy có Ban Chi Huy ĐĐ 9
người, Ban Hành Chánh 24 người, Ban Truyền Tin 24 người, Ban Quân Y 9 người,
Ban Quân Xa 24 người, Trung Đội Súng nặng 28 người và Trung Đội Công Binh 28
người.
Ngoài các chương trình huấn luyện, đào tạo sĩ quan chỉ
huy trong nước, một số sĩ quan Việt Nam đầu tiên cũng được gửi theo học tại các
quân trường của Pháp. Cuối năm 1949, Quân Đội Quốc Gia VN đả có 45 ngàn quân.
Ngày 11/5/1950 tại Sài Gòn, Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam với lập
trường chống Cộng Sản, và gia tăng quân số lên đến 60 ngàn người, bao gồm một
nữa là lực lượng chủ lực chính quy, một nữa là vệ binh. Nhiệm vụ của Quân Đội
Quốc Gia Việt Nam là bình định và đảm trách một phần nhiệm vụ tác chiến thay
dần các đơn vị Quân Đội Pháp. Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của QĐQG-VN là
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. ThT Hinh gốc là Sĩ Quan
Không Quân từ quân đội Pháp chuyển sang. Bản doanh Bộ Tổng Tham Mưu tọa lạc
trên đường Trần Hưng Đạo thuộc Quận 5 Sài Gòn.
Ngày 12 tháng 6 năm 1950, chương trình quân viện của
Chính Phủ Hoa Kỳ được chính thức thông báo chuyển sang cho Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam. Cuối năm 1950, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam có 65 ngàn chiến binh.
Ngày 23-12-1950, Pháp-Mỹ-Việt ký hiệp-định hỗ tương
phòng thủ và viện trợ quân sự; theo đó Mỹ viện-trợ cho VN hai tỷ Mỹ-Kim trong bốn năm, từ 1950 đến 1954 để trang bị
cho Quân-Đội Quốc Gia Việt Nam. Cùng ngày, nghị-định thành-lập hai trường
Sĩ-Quan Trừ-Bị Nam-Định và Thủ Đức được ban hành, nhằm đào tạo Sĩ-Quan ngạch
trừ-bị cho QĐQG-VN. Khóa Sĩ-Quan Trừ-Bị đầu tiên khai giảng cùng một ngày
9/10/1951 tại Nam Định và Thủ Đức.
Trường Sĩ-quan Trừ-Bị Nam- Định chỉ đào-tạo được một
khóa rồi đóng cửa vĩnh viễn năm 1952. Trường Sĩ-Quan Trừ-Bị Thủ-Đức hoạt-động
tới cuối tháng 4-1975, lúc đó mang tên là Trường Bộ-binh, đặt ở Long-Thành.
Ngày 1/5/1952 do dụ số 43QP Bộ
Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt
·
Tổng Tham Mưu Trưởng và văn phòng,
·
Tham Mưu Trưởng.
·
3 vị TMP Nhân Viên, Hành Quân & Huấn Luyện và Tiếp Vận.
·
4 Phòng Tham Mưu 1, 2, 3 và 4.
·
Chỉ Huy Trưởng Viễn Thông.
·
Nha An Ninh Quân Đội.
·
Ban Hải Quân.
·
Ban Không Quân.
·
Trung Tâm Công Văn Công Điện.
·
và 4 Nha Nhân Viên, Nha Quân Nhu, Nha Quân Cụ (gồm cả Sở Vật Liệu Truyền
Tin) và Nha Quân Y.
Trụ sở tọa lạc tại số 606 Trần
Hưng Đạo Sài Gòn cho tới năm 1956 di chuyển đến trại Trần Hưng Đạo (Camp
Chanson của Pháp giao lại cho VNCH) kế bên phi trường Tân Sơn Nhất Phú Nhuận.
Tướng Lê Văn Tỵ:
Ông Lê
Văn Tỵ sinh năm 1903, xuất thân trường Thiếu Sinh Quân Đông Dương rồi phục vụ trong quân đội Pháp
tại Việt Nam
với chức vụ Tiểu
đội trưởng Địa phương quân, cấp Trung sĩ. Ông được cử đi học ngành pháo binh và đào
tạo để trở thành một sĩ quan chỉ huy quân đội Quốc gia Việt Nam.. Năm 1950, khi
quân đội Việt Nam được hình
thành ở cấp phần (Nam Việt, Trung Việt, Bắc Việt), ông Tỵ mang cấp Trung tá và là sĩ quan Việt Nam có cấp cao nhất tại Nam
Việt lúc bấy giờ. Ngày
Hưng Quốc Khánh Niệm 6 tháng 6/1951, ông Tỵ là tổng chỉ huy cuộc duyệt binh đầu
tiên của các lực lượng Việt Nam tại Sài Gòn, cuộc duyệt binh lịch sử dưới quyền
chủ tọa của Quốc Trưởng Bảo Đại. Năm
1952, khi các quân khu được hình thành, ông là vị sĩ quan Tư lệnh đầu tiên của Đệ Nhất Quân Khu (bao gồm các tỉnh
Nam Việt). Lúc bấy giờ ông đã mang cấp Đại Tá.
Tháng
11/1954, nhiều sự kiện dồn dập đã mở đầu cho bước đường thăng tiến của vị Đại
tá tư lệnh Đệ Nhất Quân Khu. Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh (Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam) chống đối Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 20 tháng
11, Quốc Trưởng Bảo Đại gửi điện văn gọi Trung
Tướng Hinh sang Pháp
để trình diện Quốc Trưởng và
cách chức Tổng Tham Mưu trưởng của tướng Hinh.
Trong
khi đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã thăng cấp Thiếu Tướng
cho Đại Tá Lê Văn Tỵ. Ngày 1 tháng 12/1954, tân Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ được đề
cử giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung
Tướng Nguyễn Văn Hinh. Cũng trong ngày này, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ được cử
làm Tổng Thanh Tra Quân Đội.
Trong lúc hoạt động quân sự của CS Việt Minh được các
cường quốc CS Nga Tàu yểm trợ tối đa làm cho Bộ Tư Lệnh viễn chinh Pháp ngày
càng bối rối với các trận đánh cấp Trung Đoàn rồi Đại Đoàn ( lớn hơn Trung Đoàn
và nhỏ hơn Sư Đoàn ) và một căn cứ quân sự kiên cố bậc nhất của Pháp được xây
dựng trong lòng chảo Điện Biên Phủ với 13,000 quân trú phòng bị thất thủ vào
ngày 7/5/1954 dẩn đến hiệp định Geneve ngày 20/7/1954 chia cắt Việt Nam thành
hai miền: Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra do Cộng Sản cai trị. Miền Nam từ vĩ
tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa theo thể chế Tự Do.
Cho đến thời điểm nầy QĐQG-VN có: 168 ngàn quân gồm 81 Tiểu Đoàn Khinh Quân (mỗi Tiểu Đoàn 737 người), 21
TĐ Vệ Binh, 9 TĐ Pháo Binh, một Liên Đoàn Nhảy Dù với 5 Tiểu Đoàn tác chiến, một
Trung Đoàn Thiết Giáp, 6 Đại Đội Truyền Tin, 6 Đại Đội Công Binh và 6
Đại Đội Quân Vận.
III Giai Ðoạn hình thành Binh Chủng Nhảy Dù -
Liên Đoàn Nhảy Dù
Song song với việc thành lập các đơn vị Sư Ðoàn Bộ
Binh Việt Nam, Quân Đội Pháp cũng thành lập các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam. Ngày 15/7/1951, bởi quyết định số 1547/EMIFT/1 (Etat
Major Interarmees et des Forces Terrestres) Đại Đội 1 Nhảy Dù Đông Dương ( 1er
Compagnie Indochinoise Parachutiste – 1CIP) và Đại Đội 1 Phòng Vệ Bắc Việt ( 1
Compagnie de la Garde) được kết hợp thành lập Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù Việt Nam (1er
Bataillon de Parachutistes Vietnamiens) đầu tiên tại Chí Hoà Sài Gòn ( Nha
Hỏa-Xa tại cống Bà-Xếp Hòa-Hưng ), phần lớn các cán bộ chỉ huy đều do người
Pháp nắm giữ. TĐT đầu tiên là Đại Úy Vervelle kế đó là các Đại Úy Chapuis, Đ/U
Picheri và sau đó mới chuyển qua SQ VN là Đại Úy Nguyễn Khánh rồi Thiếu Tá
Albert Lê Quang Triệu, Đại Úy Vũ Quang Tài... Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại Trung
Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù trong căn cứ Tân Sơn Nhất, và một Trung Tâm khác tại
Phi-Trường Bạch Mai Hà Nội.
Từ ngày 30/8/1951 đến ngày 9/9/1951 một Đại Đội/TĐ1ND
–VN đươc thả xuống cù lao Ré tỉnh Quảng Nam để tham dự cuộc hành quân
“Pirate”tấn công một lực lượng CS Việt Minh vừa xâm nhập vào đảo nầy. Đây là
trận thử lửa đầu tiên của TĐ1ND-VN.
Ngày 1/4/1952 Tiểu Ðoàn 4 Nhảy Dù được thành lập tại
Ðà Nẳng Nhưng sau vì thiệt hại nặng trong một cuộc chạm súng với một Trung Ðoàn
Cộng quân tại Seno
Lào nên giải tán.
Vào ngày 1/9/1952 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được thành lập
tại Trường Bưởi Hà-Nội (Quân số lấy từ các quân
nhân Việt và Pháp thuộc Tiểu Đoàn 10 Nhảy Dù Thuộc Điạ ( TĐ10ND thuộc địa bị thiệt hại nặng trong trận đánh với CSBV tại Ba-Vì,
Bắc Việt ). Quân số đầu tiên cuả đơn vị gồm
446 Pháp và 408 người Việt do một Sĩ Quan
Pháp (Đại Úy
Monteil) làm Tiểu Đoàn Trưởng.
Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại trường nhảy dù cạnh phi
trường Bạch Mai Hà Nội.
Một lính dù VN mặc bộ quân phục "Windproof",
mũ trận M1 với quai
đeo bằng vải được biến cải phù hợp với vóc dáng
Từ ngày 30/8/1951 đến ngày 9/9/1951 một Đại Đội/TĐ1ND
–VN đươc thả xuống cù lao Ré tỉnh Quảng Nam để tham dự cuộc hành quân “Pirate”tấn
công một lực lượng CS Việt Minh vừa xâm nhập vào đảo nầy. Đây là trận thử lửa
đầu tiên của TĐ1ND-VN.
Ngày 1/4/1952 Tiểu Ðoàn 4 Nhảy Dù được thành lập tại
Ðà Nẳng Nhưng sau vì thiệt hại nặng trong một cuộc chạm súng với một Trung Ðoàn
Cộng quân tại Seno
Lào nên giải tán.
Vào ngày 1/9/1952 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được thành lập
tại Trường Bưởi Hà-Nội (Quân số lấy từ các quân
nhân Việt và Pháp thuộc Tiểu Đoàn 10 Nhảy Dù Thuộc Điạ ( TĐ10ND thuộc địa bị thiệt hại nặng trong trận đánh với CSBV tại Ba-Vì,
Bắc Việt ). Quân số đầu tiên cuả đơn vị gồm
446 Pháp và 408 người Việt do một Sĩ Quan
Pháp (Đại Úy
Monteil) làm Tiểu Đoàn Trưởng.
Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại trường nhảy dù cạnh phi
trường Bạch Mai Hà Nội.
Ngày 1/9/1953 Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù được thành lập tại
Trường Bưởi, Hà Nội từ những cán bộ Việt Nam thuộc Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù
Thuộc Điạ. Ngày 20/11/1953 TĐ5ND-VN cùng với trên 4,000 lính Nhảy Dù khác nhảy
xuống căn cứ Điện Biên Phủ trong một cuộc hành quân nhảy dù lớn nhất từ sau Đệ
Nhị Thế Chiến. Ngày 13/3/1954 TĐ5ND-VN lại nhảy xuống Điện Biên Phủ một lần nữa
trong nổ lực tăng viện giải vây cho căn cứ nầy. Khi ĐBP thất thủ, TĐ5ND hoàn
toàn tan rã và được tái thành lập vào tháng 8/1954
Ngày 1/9/1953
Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù được thành lập tại Hải Phòng. Vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên là
Capitaine Lehmann. Hầu hết Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan chỉ huy đơn vị nhảy dù
Pháp thuyên chuyển tới. Ngày 1 tháng 3 năm 1955, Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù bị giải
tán để lấy quân số bổ sung cho các đơn vị khác khi thành lập Liên Đoàn Nhảy Dù
Việt Nam.
Ðến ngày 1/5/1954
thêm TĐ6ND được thành lập tại Tân Sơn Nhì Gia Định với thành phần Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan hoàn
toàn Việt Nam được lựa chọn hầu hết là quân số của TÐ19 Khinh Quân tại Cà Mau
(đa số là người Khmer Krộm) Thiếu Tá Đổ Cao Trí là vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu
tiên. Khi Thiếu Tá Trí lên làm Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù ngày 29/9/1954 thì Đại Úy Thạch Con Tiểu Đoàn Phó được chỉ định thay thế.
Một đơn vị Nhảy Dù Việt Nam dàn chào Quốc Trưởng Bảo Đại tại
Trường Võ Bị Việt Nam năm 1954
Ngày 29/9/1954 Pháp chính thức bàn giao Quân Đội lại
cho Việt-Nam tại sân cờ Liên Đoàn 3 Nhảy Dù GAP 3 (Groupement Aéroporté
Parachutiste No.3) Nha Trang trong chương trình trao trả độc lập cho Việt-Nam.
Liên Ðoàn Nhảy Dù Việt
Nam được thành lập từ đó gồm 4
Tiểu Ðoàn 1,3,5 & 6 (giải tán TĐ7 ND để lấy quân số bổ sung cho các Tiểu
Đoàn, BCH Liên Đoàn và các đơn vị yểm trợ)
Liên Đoàn Nhảy Dù có 4.000 người gồm Bộ Chỉ Huy, Đại
Đội Chỉ Huy Liên Đoàn, các Tiểu Đoàn 1, 3, 5, 6 Nhẩy Dù, và Tiểu Đoàn Trợ Chiến (gồm các đơn vị Đại Đội Quân Y, Đại Đội Công
Binh , Đại Đội Súng Cối, Đại Đội Kỹ Thuật; Phân Đội Truyền Tin và Trung Đội
Tiếp Tế Thả Dù .
Mỗi Tiểu Đoàn Nhảy Dù có một Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn, một Đại Đội Trợ Chiến và 3 (sau này là 4) đại đội tác chiến, tổng số lên
tới 1000 người. Các cấp chỉ huy đầu tiên
của Liên Đoàn Nhảy Dù gồm có:
- Chỉ Huy Trưởng : Thiếu Tá Đỗ
Cao Trí.
- Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù , Tiểu
Đoàn Trưởng là Đại Úy Vũ Quang Tài.
- Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn
Trưởng là Đại Úy Phan Trọng Chinh
- Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Tiểu Đoàn
Trưởng là Trung
Úy Nguyển Văn Viên
- Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù Tiểu Đoàn
Trưởng là Đại Úy Thạch Con.
- Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù
Tiểu Đoàn Trưởng là Đại Úy Trịnh Xuân Nghiêm,
Các đơ n vị yễm trợ:
- Ðại Ðội Quân Y, Đại Đội Trưởng là Đại Úy Bác Sĩ Ngô Thiên Khai.
- Đại Đội Công Binh Nhảy Dù, ĐĐTrưởng là
Thiếu Úy Hoàng Công Chức.
- Đại Đội Súng Cối Nhảy Dù, Đại Đội Trưởng là
Thiếu Úy Huỳnh Long Phi.
- Phân Đội Truyền Tin Nhảy Dù, Phân Đội Trưởng là Trung Uy Nguyển Văn Viên (khác với Trung Úy Viên TĐT/ TĐ5ND
).
- Ðại Ðội Kỹ Thuật, Đại Đội Trưởng là Trung Úy
Nguyễn Khoa
Ngày 25/3/1955 Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn Nhảy Dù và 2 Tiểu Đoàn 3 & 5ND được di
chuyển vào Sàigòn và BCH đóng tại Trại Quân Cụ cạnh chợ Trần Quốc Toản.
Ngày 4 /6 /1955 toàn bộ Liên Đoàn đều di chuyển vào
Sài Gòn để hoàn chỉnh và thống nhất chỉ huy dưới quyền cuả các Sĩ Quan Việt
Nam.
Ngày 1/5/1955 Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù được thành lập tại Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhất,
Tây-Bắc ngoại ô Sài Gòn, rập theo trường nhẩy dù Fort Benning của Mỹ, được thành lập cùng năm, dùng tài sản của trường
Pháp trước kia và cùng tọa lạc với Liên Đoàn Nhảy Dù, Chuẩn Úy Trần Văn Vinh là
Chỉ Huy Trưởng đầu tiên.
Ngày 1/9/1956, Trung Tá Nguyển Chánh Thi thay thế Đại
Tá Đỗ Cao Trí trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù. Đại Tá Đỗ Cao Trí được đề bạt đảm nhiệm chức vụ Tư
Lệnh Đệ Tam Quân Khu (gồm các
tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Yên, Bình Định)
Ngày 26/10/1959, Theo đà phát triển quân đội, Liên
Đoàn Nhảy Dù được cải danh thành Lữ-Đoàn Nhảy Dù và vẫn dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi.
Ngày 12/11/1960 Trung Tá Cao Văn Viên đang là Tham Mưu
Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống, được đề cử giữ chức Tư-Lệnh Lữ-Đoàn Nhảy Dù và
sau đó được thăng cấp Đại Tá thay thế Đại Tá Nguyển Chánh Thi tham gia đảo
chánh TT Ngô Đình Diệm bất thành và lưu vong sang Kampuchea.
Các Sĩ Quan thuộc Liên Đoàn Nhảy Dù năm
1955
IV Giai đoạn phát triển 1961 – 1967.
Ngày 1/12/1959 Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được thành lập tại
Sàigòn với Tiểu Ðoàn Trưởng là Đại Úy Trương Quang Ân.
Đầu năm 1961 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được tái thành
lập tại Biên Hòa, Tiểu Ðoàn
Trưởng là Đại Úy Ngô Xuân Nghị.
Năm 1962, Lữ Ðoàn Nhảy Dù tổ chức thành 2 Chiến Ðoàn
để đáp ứng nhu cầu gia tăng của chiến trường: Chiến Ðoàn 1 gồm 3 Tiểu Ðoàn 1,3
& 8ND do Thiếu Tá Dư Quốc Ðống làm Chiến Đoàn Trưởng, bản doanh đóng tại
căn cứ Hoàng Hoa Thám và Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù gồm 3 Tiểu Ðoàn 5, 6 & 7ND,
do Thiếu Tá Ðỗ Kế Giai làm Chiến Đoàn Trưởng, bản doanh đóng tại Tam Hiệp Biên Hòa.
Ðầu tháng 4/1964 sau chiến thắng
Hồng Ngự trong khu vực phía Tây Ðồng Tháp Mười, Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh
LĐND được đặc cách thăng Thiếu Tướng tại mặt trận và sau đó được đề cử giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ TTM
và Trung Tá Dư Quốc Đống được đặc cách thăng cấp Đại Tá thay thế chức vụ Tư
Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù.
Ngày1/9/1965, TÐ2ND được thành lập tại Sàigòn. Tiểu
Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng. Vào ngày 1/10/1965 TÐ9ND cũng được
thành lập tại Sàigòn với Thiếu Tá Lê Văn Huệ làm Tiểu Ðoàn Trưởng.
Và để đáp ứng nhu cầu phát triến của LÐND, một Tiểu
Ðoàn Pháo Binh 105 ly cơ hữu cũng được thành lập trong năm 1965 và đơn vị Quân
Y Nhảy Dù cũng được nâng cấp thành Tiểu Ðoàn QYND trong thời gian nầy để cung cấp dịch vụ y tế trị
liệu và tản thương kịp thời cho đơn vị.
Ngày 19/6/1967, TÐ11ND được thành lập tại đồi Tăng
Nhơn Phú Thủ Ðức do Thiếu Tá Nguyễn Viết Cần làm Tiểu Ðoàn Trưởng.
Để thích ứng với hệ thống chỉ huy “tam tam chế”, thêm
Chiến Đoàn 3ND được thành lập vào ngày 1/7/1967 do Trung Tá Nguyễn Khoa Nam làm
Chiến Đoàn Trưởng.
Ngày 1/12/1965 Lữ Đoàn Nhảy Dù được Bộ Tổng Tham Mưu
cải danh thành Sư Đoàn Nhảy Dù vẫn do Thiếu Tướng
Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh và ngày 1/4/1968 các Chiến Đoàn Nhảy Dù được cải danh
thành Lữ Ðoàn: Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Hồ Trung Hậu làm Lữ Đoàn Trưởng,
Lữ Đoàn 2 ND do Trung Tá Đào Văn Hùng làm Lữ Đoàn Trưởng. và Lữ Đoàn 3 ND do
Trung Tá Nguyễn Khoa Nam làm Lữ Đoàn Trưởng.
Theo sự gia tăng nhu cầu ngày càng nhiều của chiến
trường và để yểm trợ hỏa lực hữu hiệu cho ba LĐND,
trong khi chờ đợi sự yểm trợ của các đơn vị pháo binh diện địa,
BCH/PB/SĐND&TĐ2PBND được thành lập ngày 1/12/68, sang năm 1969, TĐ3PBND
được thành lập. Trong thời gian nầy 3 Đại Đội Trinh Sát Nhảy Dù thống thuộc 3
Lữ Đoàn Nhảy Dù cũng được thành lập.
Ðến đầu năm 1969, SÐND có 3 Lữ Ðoàn ND gồm cả thảy 9
Tiểu Ðoàn Nhảy Dù tác chiến, 3 Đại Đội Trinh Sát và 3 Tiểu Ðoàn Pháo Binh Nhảy Dù.
Năm 1970, các đơn vị Công Binh và Truyền Tin thuộc
SĐND cũng được nâng cấp thành TĐTT/SĐND và TĐCB/SĐND
Ngày 11/11/1972 sau mùa Hè đỏ lửa, Chuẩn Tướng Lê
Quang Lưỡng chính thức đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh SÐND thay thế TrT Dư Quốc
Ðống.
Ðầu năm 1974, để đối đầu với sự gia tăng xâm nhập vào
miền Nam của CSBV, Bộ TTM/QLVNCH chấp thuận cho SÐND thành lập thêm Lữ Ðoàn 4
Nhảy Dù do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Ðoàn Trưởng, và 6 Tiểu Ðoàn 12, 14, 15,
16, 17, 18 Nhảy Dù, ÐÐ4TSND và TÐ4PBND. Trong thời gian cuối cùng của VNCH năm
1975, LĐ4ND trách nhiệm bảo vệ quanh vòng đai Đô Thành Sàigòn.
SĐND là một Sư Đoàn thiện chiến của QLVNCH, được sự
kính nể của các Quân Lực Đồng Minh và
ngay cả đối phương của chúng ta.
Tài liệu Tham khảo :
-
Quân Sử Quân Đội Quốc Gia Việt
-
Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Đức
Phương, Làng Văn xuất bản tại Toronto Ontario Canada năm 2001.
-
Những Sự Thật Chiến Tranh VN 1954 – 1975 của
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại Tá Lê Bá Khiếu và Tiến Sỉ Nguyễn Văn – Tác giả
xuất bản và giữ bản quyền.
-
Lịch Sử hình thành QL-VNCH của Trần Hội và Trần
Đổ Cẩm trên trang nhà History Of The VietNam War 1945 – 1975.
-
Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu trong
SĐND.
-
Những hình ảnh trong quyển
sách hầu hết truy cập từ Internet.
-
Insignia of
The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F.
Pugh.
NNgày 15/5/1970: Trung Tướng Đỗ Cao Trí thăm viếng trai tỵ
nạn Việt Kiều Kampuchea hồi hương - hình ảnh © Bettmann/CORBIS
Trong buổi lễ xuất quân đánh sang
Campuchia trong tháng
1 năm 1971,
Tướng Trí tuyên bố là Ông sẽ sống và chết với ba quân trên chiến trường và Ông đã giữ đúng lời hứa. Ông đã
cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Quân Đội và Tổ Quốc.
Các Sĩ Quan cấp Thiếu Tá Nhảy Dù trong ngày Quốc Khánh 1967
Nguyễn Văn Be, Nguyễn Phẫm Bường, Phạm Ngọc Lân, Nguyễn Văn Tư và Hoàng Cơ Lân
TĐ5ND-VN chuẩn bị nhảy xuống trận địa Điện Biên Phủ 1954
Võ TrungTín & Nguyễn Hữu Viên (HNPD)