Mỗi Ngày Một Chuyện
MÙA ĐÔNG NỘI THẤT - CAO MỴ NHÂN
MÙA ĐÔNG NỘI THẤT - CAO MỴ NHÂN
Mỗi
lần nhìn cây lá sơ rơ, heo may thổi xạc xào trên cành cội khẳng khiu, khô
khốc...là một lần tôi nhớ đến cụ giáo già, bạn của ông nội tôi, ở làng Sở thật
xa xưa...
Quý
cụ vừa kéo thuốc lào, bình ấm kêu ro ro, vừa tằng hắng đọc bài thơ Bốn Mùa, của
thi sĩ Thôi Hiệu thời Đường bên Tàu.
Thi
sĩ Thôi Hiệu còn là tác giả bài Đường thi danh tiếng Hoàng Hạc Lâu, mà hầu hết
các nhà thơ VN thời cận và hiện đại đều thích thú, đã dịch, hoặc phỏng dịch để
phổ biến tới đông đảo khách
thơ nhàn lãm .
Riêng
bài Bốn Mùa ngắn gọn, thì giới chung chung hầu như ai cũng thuộc...Nếu không
thuộc lời, thì cũng biết cái ý của thi sĩ Thôi Hiệu tả cảnh thế nào :
Xuân
du phương thảo địa
Hạ
thưởng lục hà trì
Thu
ẩm hoàng hoa tửu
Đông
ngâm bạch tuyết thi...
(Thôi Hiệu
704 - 754)
Lắng
nghe tiếng gió heo hút, luồn qua vách liếp, ông nội tôi đã mang chiếc ấm nhỏ
bằng nắm tay đựng rượu cúc, để lên chiếc kiềng bằng gang nhỏ xíu, đặt trên
chiếc dĩa đất nung đỏ, dĩa đựng dầu lạc có mồi tim thắp lửa...
Ông
nội tôi hâm bình rượu cúc để mời cụ giáo, rồi quý cụ gật gù ngâm vịnh.
"Bạch
tuyết thi" quả là một hình ảnh đẹp cụ ạ . Cụ có thể tưởng tượng ngồi trong
thảo am, hay thiếu thất, ngó ra ngoài trời bát ngát mầu tuyết giá.
Tôi,
là ông nội tôi đó, chưa thấy
tuyết dầy đâu, nhưng hôm xưa lên thăm nhà cậu Ph, ở Chapa bên trong Lao Kay,
cậu Ph là ba tôi, đưa tới núi Hoàng Liên vãn cảnh, buổi trưa cụ ạ, mây mù trắng
xoá như tuyết, tôi cũng liên tưởng tới bạch tuyết ...
Không
ngồi chơi lâu, cụ giáo ra về ...ông nội tôi "xin gởi cụ" hộp trà cúc
bằng thiếc, có giấy bọc ngoài, chữ Tàu trên nền trời sương giá, vẽ tranh thuỷ
mặc ở Hàn Sơn .
Chuyện
qua đi quá lâu, hôm nay nhân tiết đông về, từ bao giờ, khi lên bậc trung học,
tôi đã võ vẽ học điển tích cổ điển...
Chợt
nhớ có lần ba tôi kể: ông nội tôi sanh năm 1880.
Ông
nội tôi không là nhà văn, nhà võ gì hết, cụ cố chỉ học chữ Nho, biết chữ Hán,
và đặc biệt còn học chữ Pháp để đi làm thông ngôn cho Tây, vào những thập niên
thuộc tiền bán thế kỷ 20 vừa qua.
Hoá
cho nên, tôi có dịp ngồi ...suy nghĩ về ông nội tôi, để có thể tìm hiểu "thực
trạng xã hội" phần nào giai đoạn cổ kim tương hỗ.
Thí
dụ: Thi hào Nguyễn Du (1766 - 1820), tức là cụ Nguyễn Du cuối thời Lê Trung
Hưng, đã hiện diện suốt triều vua Gia Long chấp chánh (1802 - 1820 ).
Ông
nội tôi ( 1880 - 1950 ), như vậy khi tiếng đại bác đầu tiên của quân viễn chinh
Pháp bắn vô Đà Nẵng năm 1858, thi hào Nguyễn Du đã mất trước đó 38 năm, ông nội
tôi sanh sau tiếng súng đó 22 năm.
Một
thủa nào, ông nội tôi kiếm thăm cụ Tú Xương (1870-1907), để sau đó thực sự theo
học tiếng Tây, chính là giai đoạn đầu thế kỷ 20 .
"
Ném bút lông đi, viết bút chì " (Tú Xương).
Cũng
giai đoạn đó, là nhiều mối
tranh chấp xẩy ra ở xã hội VN, nhất là ngoài Bắc, tôi chỉ xin mon men tìm hiểu
về một nhà dân thường, ông nội tôi.
Ông
nội tôi kể rằng, qua đầu thế kỷ 20, những mâu thuẫn không phải chỉ ngoài xã
hội, mà trong mỗi gia đình nhỏ, cũng có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Ông
nội tôi có 4 con trai, 2 con gái .
2
con gái thì một người là chị ba tôi, sống bình thản bên chồng con bác ấy .
Một
người là em ba tôi, và là em út luôn, tên Hải Âu, thì thường ra Hà Nội, hay lên
Chapa thăm nhà ba má tôi, có khi ở lại thật lâu mới về.
Chú Thạc là chồng cô Hải Âu, chẳng biết
có làm gì khác không, thủa bé, tôi thấy chú chuyên chơi đàn bầu .
4
con trai của ông nội tôi, cũng được chia ra 2 phần rõ rệt .
Hai
bác Cả và thứ hai, thì bám chặt cung cách sống cũ, học chữ Nho và làm ruộng tư
điền tư thổ.
Ba
tôi thứ 3 và chú tôi ra Hà Nội học chữ Tây, ở trường Bưởi rồi cung thi vô Công chánh, ba tôi được bổ
dụng ở làng nghỉ mát Chapa, dành cho Tây tứ xứ về nghỉ, tôi hay kể chuyện Chapa
rồi, còn chú tôi được bổ dụng ở Sở Công chánh tỉnh Hải Dương .
Như
trên tôi đã trình bầy, nhà ông nội tôi là 2 chiến tuyến đông tây rõ rệt.
Sau
này di cư vào nam, thì cứ phần hành nào theo phần hành nấy .
Hai
bác trai tôi, bác gái và gia đình cô Hải Âu ở lại, còn gia đình ba tôi và gia
đình chú tôi thì hiện diện ngay ở Saigon sau hiệp định chia đôi đất nước có 2
tháng .
Ông
nội tôi đã mất trước cuộc di cư 4 năm.
Nhà
cửa ruộng vườn của ba tôi, vẫn để nguyên si như không hề di cư, không uỷ quyền
sang nhượng cho cô bác ruột thịt nào cả. Vì nếu tỏ ý cho quý vị trong gia tộc
biết, là nhà ba tôi không thể lên đường được, những người ở lại sẽ làm khó dễ
ba tôi ngay.
Thế
mà sau ngày đổi đời bi thảm 30-4-1975 . Ai trong họ, bên này hay bên kia, cứ
tưởng chết hết rồi . Vậy mà nhiều ngày liên tiếp gia đình tôi đều có họ hàng vô
thăm để có đôi lời than vãn khổ cực .
Lạ
một điều là không có lên lạc, mà sao quý vị ấy tìm nhà trúng phooc.
Biết
là ở một gia đình dòng họ vậy, cũng ít nhiều dịp nghe ba tôi kể chuyện nhà,
nhưng tôi không quan tâm lắm, vì hàng anh em ba tôi đã có một khoảng cách.
Tới
tôi là đã quá xa xôi...
Những
ngày ở trong tù cải tạo, chúng tôi hay phải làm những bản kiểm điểm lý lịch .
Họ
cứ muốn chúng tôi kê khai nọ kia, để sơ ý, hay vô tư chẳng ngờ, thì lộ ra những
điều mà họ muốn biết .
Sự
thực thì cũng chẳng có ai khai man, chỉ là quên hay chưa thấy cần thiết khai
thật kỹ càng .
Riêng
tôi thì nhìn vào lý lịch, chỉ có vậy, cuộc sống đơn dản, quá bình thường chả
cần gì phải nguỵ trang cả.
A,
chỉ có một điều là trong bản lý lịch của tôi , lúc nào tên ông nội tôi cũng là
Cao Văn Ông (mãn phần).
Họ
không tin và không chịu, họ bảo đồng ý ông nội chị vậy, nhưng phải có tên Cao
Văn Ông của chị như
thế nào chứ, ông nhưng phải tên tuổi là gì khác cơ, thí dụ: Trần Văn Ghế, Lê
Văn Bàn chẳng hạn
Tôi
trả lời : Biết vậy, nhưng ông nội tôi, tên là Cao Văn Ông 100% đấy, không tin thì thôi, chớ chả lẽ tôi
đặt tên khác cho ông nội tôi à?
Tất
nhiên ông nội tôi tên khác chứ, sao lại Cao Văn Ông được ...
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
MÙA ĐÔNG NỘI THẤT - CAO MỴ NHÂN
MÙA ĐÔNG NỘI THẤT - CAO MỴ NHÂN
Mỗi
lần nhìn cây lá sơ rơ, heo may thổi xạc xào trên cành cội khẳng khiu, khô
khốc...là một lần tôi nhớ đến cụ giáo già, bạn của ông nội tôi, ở làng Sở thật
xa xưa...
Quý
cụ vừa kéo thuốc lào, bình ấm kêu ro ro, vừa tằng hắng đọc bài thơ Bốn Mùa, của
thi sĩ Thôi Hiệu thời Đường bên Tàu.
Thi
sĩ Thôi Hiệu còn là tác giả bài Đường thi danh tiếng Hoàng Hạc Lâu, mà hầu hết
các nhà thơ VN thời cận và hiện đại đều thích thú, đã dịch, hoặc phỏng dịch để
phổ biến tới đông đảo khách
thơ nhàn lãm .
Riêng
bài Bốn Mùa ngắn gọn, thì giới chung chung hầu như ai cũng thuộc...Nếu không
thuộc lời, thì cũng biết cái ý của thi sĩ Thôi Hiệu tả cảnh thế nào :
Xuân
du phương thảo địa
Hạ
thưởng lục hà trì
Thu
ẩm hoàng hoa tửu
Đông
ngâm bạch tuyết thi...
(Thôi Hiệu
704 - 754)
Lắng
nghe tiếng gió heo hút, luồn qua vách liếp, ông nội tôi đã mang chiếc ấm nhỏ
bằng nắm tay đựng rượu cúc, để lên chiếc kiềng bằng gang nhỏ xíu, đặt trên
chiếc dĩa đất nung đỏ, dĩa đựng dầu lạc có mồi tim thắp lửa...
Ông
nội tôi hâm bình rượu cúc để mời cụ giáo, rồi quý cụ gật gù ngâm vịnh.
"Bạch
tuyết thi" quả là một hình ảnh đẹp cụ ạ . Cụ có thể tưởng tượng ngồi trong
thảo am, hay thiếu thất, ngó ra ngoài trời bát ngát mầu tuyết giá.
Tôi,
là ông nội tôi đó, chưa thấy
tuyết dầy đâu, nhưng hôm xưa lên thăm nhà cậu Ph, ở Chapa bên trong Lao Kay,
cậu Ph là ba tôi, đưa tới núi Hoàng Liên vãn cảnh, buổi trưa cụ ạ, mây mù trắng
xoá như tuyết, tôi cũng liên tưởng tới bạch tuyết ...
Không
ngồi chơi lâu, cụ giáo ra về ...ông nội tôi "xin gởi cụ" hộp trà cúc
bằng thiếc, có giấy bọc ngoài, chữ Tàu trên nền trời sương giá, vẽ tranh thuỷ
mặc ở Hàn Sơn .
Chuyện
qua đi quá lâu, hôm nay nhân tiết đông về, từ bao giờ, khi lên bậc trung học,
tôi đã võ vẽ học điển tích cổ điển...
Chợt
nhớ có lần ba tôi kể: ông nội tôi sanh năm 1880.
Ông
nội tôi không là nhà văn, nhà võ gì hết, cụ cố chỉ học chữ Nho, biết chữ Hán,
và đặc biệt còn học chữ Pháp để đi làm thông ngôn cho Tây, vào những thập niên
thuộc tiền bán thế kỷ 20 vừa qua.
Hoá
cho nên, tôi có dịp ngồi ...suy nghĩ về ông nội tôi, để có thể tìm hiểu "thực
trạng xã hội" phần nào giai đoạn cổ kim tương hỗ.
Thí
dụ: Thi hào Nguyễn Du (1766 - 1820), tức là cụ Nguyễn Du cuối thời Lê Trung
Hưng, đã hiện diện suốt triều vua Gia Long chấp chánh (1802 - 1820 ).
Ông
nội tôi ( 1880 - 1950 ), như vậy khi tiếng đại bác đầu tiên của quân viễn chinh
Pháp bắn vô Đà Nẵng năm 1858, thi hào Nguyễn Du đã mất trước đó 38 năm, ông nội
tôi sanh sau tiếng súng đó 22 năm.
Một
thủa nào, ông nội tôi kiếm thăm cụ Tú Xương (1870-1907), để sau đó thực sự theo
học tiếng Tây, chính là giai đoạn đầu thế kỷ 20 .
"
Ném bút lông đi, viết bút chì " (Tú Xương).
Cũng
giai đoạn đó, là nhiều mối
tranh chấp xẩy ra ở xã hội VN, nhất là ngoài Bắc, tôi chỉ xin mon men tìm hiểu
về một nhà dân thường, ông nội tôi.
Ông
nội tôi kể rằng, qua đầu thế kỷ 20, những mâu thuẫn không phải chỉ ngoài xã
hội, mà trong mỗi gia đình nhỏ, cũng có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Ông
nội tôi có 4 con trai, 2 con gái .
2
con gái thì một người là chị ba tôi, sống bình thản bên chồng con bác ấy .
Một
người là em ba tôi, và là em út luôn, tên Hải Âu, thì thường ra Hà Nội, hay lên
Chapa thăm nhà ba má tôi, có khi ở lại thật lâu mới về.
Chú Thạc là chồng cô Hải Âu, chẳng biết
có làm gì khác không, thủa bé, tôi thấy chú chuyên chơi đàn bầu .
4
con trai của ông nội tôi, cũng được chia ra 2 phần rõ rệt .
Hai
bác Cả và thứ hai, thì bám chặt cung cách sống cũ, học chữ Nho và làm ruộng tư
điền tư thổ.
Ba
tôi thứ 3 và chú tôi ra Hà Nội học chữ Tây, ở trường Bưởi rồi cung thi vô Công chánh, ba tôi được bổ
dụng ở làng nghỉ mát Chapa, dành cho Tây tứ xứ về nghỉ, tôi hay kể chuyện Chapa
rồi, còn chú tôi được bổ dụng ở Sở Công chánh tỉnh Hải Dương .
Như
trên tôi đã trình bầy, nhà ông nội tôi là 2 chiến tuyến đông tây rõ rệt.
Sau
này di cư vào nam, thì cứ phần hành nào theo phần hành nấy .
Hai
bác trai tôi, bác gái và gia đình cô Hải Âu ở lại, còn gia đình ba tôi và gia
đình chú tôi thì hiện diện ngay ở Saigon sau hiệp định chia đôi đất nước có 2
tháng .
Ông
nội tôi đã mất trước cuộc di cư 4 năm.
Nhà
cửa ruộng vườn của ba tôi, vẫn để nguyên si như không hề di cư, không uỷ quyền
sang nhượng cho cô bác ruột thịt nào cả. Vì nếu tỏ ý cho quý vị trong gia tộc
biết, là nhà ba tôi không thể lên đường được, những người ở lại sẽ làm khó dễ
ba tôi ngay.
Thế
mà sau ngày đổi đời bi thảm 30-4-1975 . Ai trong họ, bên này hay bên kia, cứ
tưởng chết hết rồi . Vậy mà nhiều ngày liên tiếp gia đình tôi đều có họ hàng vô
thăm để có đôi lời than vãn khổ cực .
Lạ
một điều là không có lên lạc, mà sao quý vị ấy tìm nhà trúng phooc.
Biết
là ở một gia đình dòng họ vậy, cũng ít nhiều dịp nghe ba tôi kể chuyện nhà,
nhưng tôi không quan tâm lắm, vì hàng anh em ba tôi đã có một khoảng cách.
Tới
tôi là đã quá xa xôi...
Những
ngày ở trong tù cải tạo, chúng tôi hay phải làm những bản kiểm điểm lý lịch .
Họ
cứ muốn chúng tôi kê khai nọ kia, để sơ ý, hay vô tư chẳng ngờ, thì lộ ra những
điều mà họ muốn biết .
Sự
thực thì cũng chẳng có ai khai man, chỉ là quên hay chưa thấy cần thiết khai
thật kỹ càng .
Riêng
tôi thì nhìn vào lý lịch, chỉ có vậy, cuộc sống đơn dản, quá bình thường chả
cần gì phải nguỵ trang cả.
A,
chỉ có một điều là trong bản lý lịch của tôi , lúc nào tên ông nội tôi cũng là
Cao Văn Ông (mãn phần).
Họ
không tin và không chịu, họ bảo đồng ý ông nội chị vậy, nhưng phải có tên Cao
Văn Ông của chị như
thế nào chứ, ông nhưng phải tên tuổi là gì khác cơ, thí dụ: Trần Văn Ghế, Lê
Văn Bàn chẳng hạn
Tôi
trả lời : Biết vậy, nhưng ông nội tôi, tên là Cao Văn Ông 100% đấy, không tin thì thôi, chớ chả lẽ tôi
đặt tên khác cho ông nội tôi à?
Tất
nhiên ông nội tôi tên khác chứ, sao lại Cao Văn Ông được ...
CAO MỴ NHÂN (HNPD)