Truyện Ngắn & Phóng Sự
NGÔ QUANG TRƯỞNG – CỔ KIM NHƯ DANH TƯỚNG *
NGÔ QUANG TRƯỞNG – CỔ KIM NHƯ DANH TƯỚNG
Phan Nhật Nam
Phi Trường Biên Hòa nằm im dưới nắng khô rốc như một khoảng sân gạch
nung chín, hơi nóng từ phi đạo do những tấm vĩ sắt PSP ghép vào nhau
bốc lên lớp khí lung linh hừng hừng như làn khói từ một đám cháy âm
ỉ đâu dưới mặt đất. Ngọn núi Bửu Long bên ngoài hàng rào sân bay với
hàng cây trên sườn núi, đỉnh đồi, cũng không cho thêm độ xanh tươi,
im mát của thiên nhiên, mà chỉ tăng phần trần trụi của khu vực. Gió
khô thổi từng chập tung bụi đỏ dọc con đường đất chạy quanh Phi
Trường, lay động lật bật những tấm che chắn tháo gỡ từ những thùng
giấy, ghép lại với nhau làm lều tạm trú cho đám lính canh giữ vòng
đai an ninh.
Chiếc xe jeep mang phù hiệu Nhảy Dù với con số 5 màu đỏ nơi tấm
kiếng chắn gió chạy chậm trên đường vòng đai là điểm linh động duy
nhất của toàn cảnh tượng. Đám lính từ trong những căn lều trạm trú
lần lượt hiện ra, đứng nghiêm theo lệnh hô của người chỉ huy, chào
tay lên vành mũ sắt, đợi chiếc xe đi tới. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù ngừng xe xuống mỗi vị trí gác, ông đi thẳng,
bước nhẹ, đến trước mỗi hàng quân, chào tay, nói nhỏ với người chỉ
huy. Cho anh em nghỉ. Nhìn thẳng mắt vào mỗi người lính, ông hỏi
chuyện thân mật như với người thân. Nóng quá, anh em có đem đủ nước
uống không, nhớ chùi súng, thông nòng cho sạch, đừng để bị đất bụi
bám vô. Sau khi hỏi thăm đủ đến mỗi người lính, ông lại chào tay
trước khi bước lên xe. Chiếc lưng và thân người thẳng đứng, lưng áo
tác chiến hoa nhẩy dù bó căng thân thể cao gầy. Do bị thương từ một
saut nhẩy dù bồi dưỡng, nay phần thân trên phải chịu bó cứng trong
một lớp áo giáp bột thạch cao. Nắng nung khô áo vải hoa dù ny lông
như lớp bánh tráng nướng chín, nhưng mỗi ngày hai lần, Thiếu Tá Ngô
Quang Trưởng tự thân đi vòng quanh Phi Trường để kiểm soát đơn vị
đang giữ nhiệm vụ ứng chiến, an ninh.
Chiều hôm nay thứ bảy, sao anh không để ông Phó đi thay, người lại
bị bó bột như vậy, nóng chịu sao nổi ? Đại Úy Ngô Xuân Nghị, Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Dù, đơn vị chung chiến đoàn, cùng chịu trách
nhiệm an ninh Phi Trường Biên Hòa tỏ ý ái ngại khi Thiếu Tá Trưởng
ghé qua thăm đơn vị nầy (cũng trong vòng đai Phi Trường Biên Hòa)
sau lần kiểm soát cuối ngày.
Binh sĩ anh em người ta còn phải chịu nóng, cực hơn mình nhiều.
Thiếu Tá Trưởng ngồi xuống chiếc ghế, gỡ nón sắt đặt xuống bên cạnh.
Nét mặt nghiêm nghị trầm tư.
Đến chiều tối, viên sĩ quan trực Tiểu Đoàn 7 khi ghé qua văn phòng
Tiểu Đoàn Trưởng để trình ký văn thư, anh vẫn thấy người Tiểu Đoàn
Trưởng đơn vị bạn ngồi ở vị thế và cách thức lúc ban chiều. Chiếc
nón sắt đặt bên cạnh, lưng thẳng cứng, sắc mắt nhìn nghiêm lạnh. Chỉ
khác, chai Scott để trên bàn đã vơi quá nửa.
Khi đi ra khỏi văn phòng, gã Thiếu Úy trẻ tuổi có ý nghĩ:
‘’Chắc ông ấy uống rượu là uống cho có vậy thôi, chứ ai ngồi uống
với bạn mà im lặng đến thế. Hẳn ông đang gặp điều buồn phiền nhưng
không nói ra ?’’ Và có thể, sau này gã sẽ quên đi nhiều chuyện,
nhưng sắc mặt nhìn của người ngồi trước ly rượu kia sẽ ghi dấu với
gã rất lâu. Viên Thiếu Úy nghĩ thầm, và tin chắc mình đã có nhận xét
chính xác.
LẦN GIỮ VỮNG THỨ NHẤT
Bắt đầu năm 1963, tình hình quân sự Miền Nam đã có những chỉ dấu suy
thoái, lực lượng du kích, địa phương cộng sản được thành lập từ hai
năm trước với những vũ khí đơn sơ, tự chế tạo như súng ngựa trời,
đạp lôi, mìn bẫy, nay được tăng cường thêm thành phần cán bộ hồi
kết, lẫn cán bộ Bắc Việt mới xâm nhập, cùng với những vũ khí mới,
hữu hiệu nhất do khối cộng sản viện trợ. Lực lượng nầy biến cuộc nổi
dậy của du kích địa phương nên thành một cuộc chiến tranh bán quy
ước, chuyển qua giai đoạn chuẩn bị tấn công lật đổ chính quyền hợp
hiến Miền Nam.
Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Quân Khu IV giữ trách nhiệm an
ninh quân sự toàn Vùng Châu Thổ sông Cửu Long, nắm quyền Tư Lệnh
ngày đầu năm Dương Lịch 1 tháng 1 năm 1963. Tướng Cao nhận nhiệm vụ
vốn không hoàn toàn do từ khả năng chỉ huy cần có đối với một Tư
Lệnh Vùng, nhưng vì là người trung tín của Tổng Thống Diệm, lại được
lòng của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, Giáo Phận Vĩnh Long, nơi đồn
trú của Sư Đoàn 9 Bộ Binh, một đơn vị nòng cốt của Vùng. Hơn thế
nữa, Tướng Cao còn được lòng tin của Cố Vấn Chỉ Đạo Ngô Đình Cẩn,
bởi gốc người Phú Cam, Huế, đồng hương, đồng đạo với Cố Vấn. Thiếu
Tướng Cao cũng là thành viên trong Quân Ủy Trung Ương Đảng Cần Lao
do Cố Vấn Ngô Đình Nhu sáng lập, lãnh đạo. Từ vị thế vững chắc về
mặt ‘’chính trị’’ nầy nên Tướng Cao không mấy quan tâm, năng nổ
trong nhiệm vụ điều quân dẹp loạn, mà mục tiêu trước tiên là làm vừa
lòng những người đỡ đầu, quyết định về sự nghiệp, công danh của ông.
Thế nên, về phương diện quân sự, ông phải làm thế nào để Vùng trách
nhiệm ‘’có được tiếng an ninh’’ trong báo cáo gởi về Dinh Độc Lập,
để nơi đây chuyển đến Tòa Đại Sứ Mỹ làm yên tâm ông Đại Sứ vốn là
người bảo thủ (Được dẫn chứng qua giai thoại: Đại Sứ Nolting cho
thay thế bức hình Tổng Thống Thomas Jefferson nơi phòng làm việc
bằng bức họa Tổng Thống George Wasington, bởi vị Tổng Thống tiên
khởi nầy ít có tính chất ‘’tranh biện’’ (1), không muốn nghe những
phê phán, chỉ trích. Để tỏ rõ tinh thần, thái độ ‘’bảo thủ tích
cực’’ này, trong một buổi họp mặt Phù Luân Hội, Chi Hội Sài Gòn, ông
Đại Sứ thay mặt chính phủ Mỹ ở Việt Nam đã tin tưởng tuyên bố: ‘’Quả
thật đã có một sự chuyển mình kỳ lạ ở nơi đất nước này, nếu những
người hay chỉ trích chính phủ có được quyết tâm phụng vụ cho chế độ
(2).’’ Thế nên, Dinh Độc Lập cố gây ấn tượng cho vị Đại Sứ yên lòng
chuyển tiếp những tin tức mà ông đánh giá là ‘’tiến triển tốt’’ về
Phòng Tình Hình Tòa Bạch Ốc, để lại đây, Trung Tâm Chỉ Đạo Chiến
Tranh Việt Nam, với J.F. Kennedy vị Tổng Thống đời thứ 35, nhân dáng
điển hình cho sức mạnh đang lên của Mỹ, căn cứ từ những báo cáo kể
trên, có thể nói lên lời thẳng thừng, ‘’Tôi sẽ rút ra khỏi Việt Nam
sau 1965 và bất kể phải mang tiếng là người nhượng bộ cộng sản đi
chăng nữa…’’ với người bạn thiết, Ken O’Donnell (3).
Nhưng giữa những báo cáo như trên của Tòa Đại Sứ và ‘’thực tế chiến
trường’’ do các phóng viên David Halberstan, Neil Sheehan, Charles
Mohr…viết lại theo lời tường thuật từ những viên cố vấn nầy tuổi
khoảng 30, 40, tràn đầy năng nổ, tự tin cao độ cách ‘’tự tin có tính
di truyền’’ của giòng giống da trắng thượng hạng sau ba Thế Kỷ thống
lĩnh thế giới với chủ nghĩa tư bản [Phát xít Đức lẫn cộng sản (cùng
mang nhãn hiệu người Đức chứ không của ai khác) cũng chỉ là biến
thái quá độ (trở thành hai mặt tương phản) từ chế độ tư bản Tây Âu],
nay hiện thực quyền bá chủ thế giới trên tất cả các lãnh vực (khoa
học-kỹ thuật, kinh tế-tài chánh, chính trị-quân sự), qua tác động
quyết định của đồng Đô la Mỹ. Những Cố Vấn Mỹ trẻ tuổi nầy (từ thực
lực, vị thế Quân Đội, nhiệm vụ chính trị-quân sự và có cả ý nghĩa
một cuộc ‘’cách mạng ý thức hệ’’ mà họ là thành viên đại diện) tự
đánh giá bản thân là những nhân vật ngoại hạng (theo những mẫu mực
vừa thực, vừa giả, được thông tục hóa, quảng cáo cùng khắp, khắc sâu
vào tâm lý đám đông của một ‘’xã hội kỹ thuật-tiêu thụ-giải trí’’ để
nên thành một khuôn đúc ‘’y như thực’’, gồm tổng hợp…John Wayne,
James Bond, Rambo, Batman…) Và vì ‘’văn hóa cũng chỉ là một kỹ
nghệ’’ được tận dụng tới nơi tới chốn, theo cách định nghĩa của
Robert Lekachman (Báo New York Times khi điểm sách ‘’The Culture
Consumer’’ của Alvin Toffler, St Martin’s Press, NY 1964), nên loại
mẫu mã ‘’y như thực’’ kia qua ‘’kỹ nghệ văn hóa tiêu thụ’’ được tổ
chức cao từ lối sống Mỹ đã ‘’biến tướng nên thực’’ theo một diễn
tiến tự nhiên, vô cùng ‘’hợp lý’’. Chuỗi biến tướng kia hiện thực
qua tập thể viên chức Tòa Đại Sứ từ cấp cao nhất đến nhân viên điều
hành, thành phần Cố Vấn Mỹ ở các đơn vị Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa,
những chuyên viên Bình Định, Tình Báo, Chính Trị thuộc các Phòng, Sở
thuộc quyền điều động bởi Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn, Phóng Viên những
nhật báo, tuần báo lớn, Hãng Thông Tấn do tài phiện Mỹ nắm giữ. Tất
cả tập họp đông đúc, đa dạng nầy tự động biến tướng nên thành những
‘’nhân vật huyền thoại, loài người có khả năng thay đổi, giải quyết
tất cả mọi tình huống’’, đi đến mức độ tự cho mình (và cơ quan mình
phụ trách) có trách nhiệm, nghĩa vụ mang vác vận mạng của toàn thế
giới, của mỗi dân tộc, mỗi con người (những quốc gia và những sắc
dân nhận lãnh viện trợ Mỹ lại là những xác chứng rõ nét hơn cho quan
niệm Americanism nầy). Huống gì ở đây, nơi Miền Nam, với một chủng
loại người thuộc một dân tộc kém cõi chỉ có thể là ‘’những người
tình hảo hạng, nhưng không thể là những chiến sĩ can đảm được, tuy
nhiên, nếu như được huấn luyện và thúc vào đít thì có thể khá
hơn!!’’ Lời của Cố Vấn John Paul Vann (chỉ là một Sĩ Quan cấp Tá
trong thời điểm ấy) nói với David Halberstand về ‘’trị giá’’ của
người Việt, người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (nếu muốn nói rõ
hơn). Thái độ nầy không khác xa với những ‘’ông quan’’ xuất thân từ
Quân Đoàn Viễn Chinh, hoặc Bộ Thuộc Địa Đế Quốc Pháp đánh giá những
Kỳ Hào, Tổng, Lý, Cai, Đội khố xanh, khố đỏ người Việt ở Thế Kỷ
trước.
Thế nhưng, giữa những người Mỹ khác biệt nhau về chức vụ, công tác,
phương tiện diễn đạt, cách thức thực hiện, cho dù họ chỉ nhắm đến
một mục tiêu duy nhất, tối thượng: ‘’Bảo vệ quyền lợi của xã hội Mỹ,
người lính của Quân Đội Mỹ’’, cách đánh giá cuộc chiến tranh mà họ
bày ra ở Việt Nam lại theo những quan điểm hoàn toàn khác hẳn. Điển
hình cho sự phân hóa này là bản thân Tổng Thống Kennedy cũng đã phải
hơn một lần kêu lên với các Phụ Tá: ‘’Có phải các ông đã đến và trở
về cùng một nước đấy phải không ? khi đọc hai báo cáo tình hình quân
sự-chính trị-xã hội hoàn toàn đối nghịch trước khi có quyết định
chấp thuận, hay gạt bỏ dự mưu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Và
khi cần có chọn lựa chung quyết đối với sự kiện nghiêm trọng nầy thì
vị Tổng Thống được tiếng bản lĩnh, sắc xảo kia phải thốt lời thở
than với một người bạn: ‘’Chính phủ của tôi bị vỡ toang ra rồi!’’
khi nghe những ý kiến, đánh giá hoàn toàn mâu thuẫn của những thành
viên nội các về cùng một vấn đề, một đối tượng Lượng Định Tình Thế
Việt Nam (4).
Trong tình hình phân liệt từ thượng tầng lãnh đạo đến thành phần chỉ
huy trung cấp như vừa kể ra, chính phủ Mỹ nơi chính quốc, chốn xa
đất nước Việt Nam nửa vòng thế giới lại muốn toàn quyền chỉ huy,
quyết định về một cuộc chiến dai dẳng, thiệt hại nhất, hao tốn những
số lượng tài chánh khổng lồ qua tận dụng, tiêu phí nguồn vật lực,
khí tài tưởng như bất tận và điều động một khối nhân lực đắt giá
nhất của Quân Sử Thế Giới (chỉ một thứ không được người Mỹ kể ra khi
kết toán chiến tranh Việt Nam là sinh mạng dân, lính của Quốc Gia
gọi là Việt Nam Cộng Hòa với những tổn thất không thể nào bồi hoàn
đối với toàn dân tộc nầy, nếu tính cả hai miền Nam, Bắc. Lẽ tất
nhiên, trách nhiệm về phía ngýời cộng sản lại là một vấn đề khác),
mà cho đến nay, gần ba mươi nãm sau ngày ký Hiệp Định Tái Lập Hòa
Bình tại Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973), vẫn chưa có kết luận chung
nhất, huống hồ lúc chiến tranh đang được thử nghiệm vào thời đoạn
bắt đầu thập niên 60.
Trận Ấp Bắc mở màn ngày 2 tháng 1 1963 là một trận chiến điển hình
của giai đoạn vừa kể ra trên, mà từ đó, góp phần vào việc thành hình
những quyết định chính trị, quân sự quan trọng của chính phủ Mỹ, dẫn
dắt đến lần chung cuộc của miền Nam vào năm 1975. Cũng nói rõ một
điều trận đánh xẩy ra chỉ sau ngày Tướng Huỳnh Văn Cao nhận nhiệm vụ
một ngày và cao điểm chiến trường xẩy ra vào ngày cuối tuần, thứ bảy
(mồng 5) và chủ nhật (mồng 6) tháng Giêng Dương Lịch, khi Tướng Cao
chỉ huy cuộc hành quân truy kích lực lượng cộng sản. Có một yếu tố
ít ai để ý, cho dù người nhạy cảm nhất đấy là, ‘’ngày N của cuộc
hành quân là 3 tháng 1’’ Sinh nhật Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Không
biết phía bên nào đã chủ động giăng ra ‘’cái bẫy hào nhoáng 3 tháng
1’’ nầy, nhưng chắc một điều Ngày N của cuộc hành quân đã không còn
là một điều bảo mật quân sự.
Được tin Quân Báo khoảng hơn 100 lính cộng sản (của hai đại đội trừ)
bố trí dài theo các ấp chiến đấu Ấp Bắc, Tân Thới, thuộc Xã Ấp Bắc,
Quận Tân An, Tỉnh Mỹ Tho, khoảng 40 dặm Tây-Nam Sài Gòn, ngày 2
tháng 1 năm 1963, Đại Tá Bùi Đình Đạm, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh sử
dụng một Tiểu Đoàn cơ hữu trực thăng vận xuống bãi đáp phía Bắc mục
tiêu, từ đây đánh vào Ấp Bắc băng qua những khu đồng ruộng trống
trãi sau mùa gặt. Lực lượng địa phương gồm hai Tiểu Đoàn Bảo An (sau
1965, cải danh thành Địa Phương Quân) Tỉnh Mỹ Tho do Thiếu Tá Lâm
Quang Thơ chỉ huy, di chuyển từ phía Nam làm thành phần chận bít
không cho bộ đội cộng sản rút ra hướng nầy. Đại Úy Lý Tòng Bá điều
động Đại Đội 7 Cơ Giới gồm bốn Chi Đội Thiết Vận Xa M-113 (một Chi
Đội chỉ huy và ba Chi Đội tác chiến) dự trù tấn công dứt điểm mục
tiêu từ hướng Tây. Khoảng đồng ruộng phía Đông được bỏ trống để đánh
lừa thành phần bộ đội cộng sản tháo chạy khỏi Ấp Bắc và sẽ là mục
tiêu để phi, pháo dứt điểm, tiêu diệt đối phương. Cuộc hành quân đặt
dưới quyền chỉ huy tổng quát của Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Quân
Khu với ngày ‘’chiến thắng dự trù 3 tháng 1 để dâng lên Tổng Thống
một món quà sinh nhật có ý nghĩa’’.
Nhưng sự thể hoàn toàn không đúng như trù liệu đối với cả hai bên
lâm chiến. Về phía cộng sản, lực lượng bố trí tại Ấp Bắc không chỉ
là quân số hơn 100 của hai đại đội địa phương như ước tính ban đầu
từ phía Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV, Sư Đoàn 7 mà là hơn ba trăm quân
cộng sản của hai tiểu đoàn chủ lực 514 và 316 thuộc vùng Tiền Giang,
Đồng Tháp. Đạo quân nầy chiếm giữ địa thế thuận tiện dọc theo những
bờ kinh, chủ động tổ chức thế trận, kiểm soát toàn bộ ‘’xạ
trường-bãi đáp’’ của đơn vị Bộ Binh Sư Đoàn 7 được trực thăng vận
đến. Theo thuận ngữ quân sự khi bãi đáp bị ‘’Hot LZ’’, tức là đã lâm
tình trạng nguy hiểm bất lợi nhất đối với một cuộc hành quân trực
thăng vận. Vào năm 1963, chiến thuật này đang ở giai đoạn thử nghiệm
và trận Ấp Bắc lại là một của những lần thao dượt đầu tiên. Và qua
báo chí (với đối tượng là quần chúng tại Mỹ) thì cuộc hành quân trực
thăng vận lại được viết lại một cách ‘’tuyệt với’’ như sau: ‘’Đi ra
trận (trên trực thăng) giống như ngồi ghế dành riêng cho báo chí dự
khám một trận football…Và thế rồi, thấy dưới kia một tên việt cộng
chạy loạng choạng, ngả nghiêng trên đồng ruộng…Trực thăng xà xuống
đuổi theo…(5) ‘’Cảnh mô tả của Halberstan nhân ngày sinh nhật 28
tuổi, được ‘’ông thầy John Paul Vann’’ cho đi theo dự cuộc ‘’săn
người’’, như bọn lãnh chúa thời Trung Cổ dùng chó săn tù nhân để
giải trí. Trận chiến không cân sức này (vì một bên chỉ là đám du
kích ngu ngơ như vừa mô tả trên), một bên lại được Cố Vấn Mỹ tận
tình ‘’làm thầy chỉ dạy’’ cách đánh giá của Halberstan về Vann nói
riêng, và các Cố Vấn Mỹ nói chung, đồng thời được yểm trợ phi pháo
tối đa) đáng lẽ kết thúc mau chóng với thắng lợi dễ dàng, vẻ vang
(như cách kể lại của Hallberstan, hoặc như trong combat, bộ phim
chuyện chiến tranh dài nhiều kỳ chiếu trên TV, Đài 11 của Quân Đội
Mỹ ở Việt Nam), nhưng khi vị sĩ quan Việt Nam chỉ rặc một loại
‘’raggedy-ass little bastard’’, chữ nghĩa của Neil Sheehan, Ký Giả
Hãng Thông Tấn UPI (5bis), nên kéo theo lần chết chóc, thất bại cho
Cô Vấn, Quân Đội Mỹ, làm hư hỏng ước tính chiến lược chính trị của
chính quyền Mỹ.
Và khi trận chiến kết thúc, (thì tựa như những lời kể lại khác nhau
về bi kịch ở Cổng Rashomon của phim ảnh đạo diễn Kurosawa), Tướng
Cao báo cáo về Bộ Tổng Tham Mưu và Dinh Độc Lập những chiến thắng to
lớn. Tướng Paul Harkins, Tư Lệnh MACV tiếp lời gởi về Ngũ Giác Đài,
đến Tướng Maxwell Taylor, Tham Mưu Trưởng Liên Quân và Bộ Trưởng
Quốc Phòng McNamarra những tin tức thắng lợi ‘’có tính khả quan’’.
Viên Bộ Trưởng tài gỏi nầy liền ra lệnh Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh
Hạm Đội Thái Bình Dương đến ngay Sài Gòn hai ngày sau để xét xem sự
thực chiến thắng. Vị Đô Đốc đưa ra nhận định: ‘’Đấy là một chiến
thắng của Quân Đội Nam Việt Nam vì quân cộng sản đã bỏ vị trí mà
chạy’’ Nhận định được quan chức quân sự, chính khách cao cấp người
Mỹ tán đồng, vì họ cho rằng, theo chiến tranh quy ước (như vừa xẩy
ra ở Đại Hàn 1950-1953), khi địch quân (nay cũng là một đối tượng có
chung tính chất, phương thức tác chiến như bộ đội cộng sản Bắc Hàn)
bỏ vị trí, tức là quân chính phủ đã thắng lợi (6). Nhưng Trung Tá
John Paul Vann, Cố Vấn của Đại Tá Bùi Đình Đạm thì lại có nhận định
khác hẳn, và chuyển cho báo chí bản đánh giá của riêng mình về cuộc
hành quân: ‘’Đấy là một cuộc trình diễn thảm hại chẳng ra cái đếch
gì cả…(7)’’. Vài tháng sau, khi bị mất chức, viên sĩ quan nầy tấn
công thẳng thừng giới chức Mỹ lẫn Việt, Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn và
Washington. Y cho rằng: ‘’Thành phần lãnh đạo Mỹ muốn lấp liếm sự
thật về chiến tranh Việt Nam, do từ tham vọng quá độ…Muốn dựng nên
(một cách giả tạo) thành quả cụ thể chắc ăn’’. Về phía chính phủ Sài
Gòn thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị cáo buộc: ‘’Cố duy trì tình
trạng bất an ninh để nhận viện trợ Mỹ!!’’ (8). Chẳng biết căn cứ vào
đâu, Vann cho rằng: ‘’Thay vì thả Tiểu Đoàn 1 Dù xuống phía Đông của
Ấp Bắc để chận đường tháo lui của lực lượng cộng sản, thì Tổng Thống
Diệm lại ra lệnh thả xuống phía Tây vào lúc trời hoàng hôn, gây nên
cảnh giao tranh hỗn loạn giữa hai đơn vị bạn (quân Dù và Sư Đoàn 7
Bộ Binh)’’. Sự nhầm lẫn (cố ý) nầy được Phạm Phong Dinh kể lại trong
‘’Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Cơn Bão Lửa, trang 118’’.
Đối với những nhân sự trực tiếp tham dự trận đánh cũng có cách tường
thuật đối nghịch. Đại Úy Lý Tòng Bá, Đơn Vị Trưởng Đại Đội 7 Cơ Giới
(chiến xa) thì cho rằng thiệt hại hai bên ngang nhau, Đại Đội của
ông mất 8 Xạ Thủ đại liên, phía cộng sản để lại 8 xác chết đếm được.
Đại Úy Bá nói thêm: ‘’Sở dĩ các Xạ Thủ đại liên bị thiệt mạng là do
Bộ Tổng Tham Mưu không lưu ý phiếu trình của ông về việc thiết trí
các tấm chắn đạn trên pháo tháp của xe M-113, cũng một phần địa thế
không thuận tiện, nên ông đã phải bố trí các thiết vận xa theo đội
hình hàng dọc khiến cuộc điều quân bị chậm chạp. (9)’’ Khác với lần
đụng tr ận sau nầy (cũng ở Ấp Bắc, đầu năm 1964), ông đã bố trí Chi
Đoàn Thiết Vận Xa theo đội hình hàng ngang, thêm đơn vị Biệt Động
Quân của Đại Úy Sơn Thương tùng thiết, nên ông đã ‘’đấm một quả thôi
sơn vào mặt việt cộng’’ với chiến thuật điều quân nhanh chóng hiệu
quả (9). John Scanlon kể lại chuyện này cho John Paul Vann. Vann
truyền lại cho những ‘’tử đệ’’ thân tín trong báo giới (do chính N.
Sheehan hãnh diện tự nhận), những gã nầy tiếp đưa lên báo và sau này
viết thành sách được giới phê bình Mỹ đánh giá: ‘’Một cuốn sách viết
về lịch sử (Việt Nam) tuyệt tác nhất’’ Báo Chicago Sun Times đánh
giá về ‘’Việt Nam, A History’’ của Stanley Karnow’’.
Nhưng dù có ác tâm, thiên kiến bao nhiêu, những cây viết ‘’trung
trực, giỏi gian’’ kể trên của báo giới Mỹ cũng không thể có một lời
xuyên tạc nào đối với Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, đơn vị chịu hoàn cảnh tác
chiến bất lợi nhất thả xuống trận địa lúc trời sập tối, không định
rõ được địa thế, vị trí quân bạn. Và tất nhiên, cũng chịu thiệt hại
lớn nhất, Chết 19, bị thương 33, gồm Đại Úy Nguyễn Trung Hiếu, chỉ
huy Đại Đội nhảy xuống đầu tiên và viên Trung Sĩ Cố Vấn Mỹ. Phía Mỹ
bị thiệt hại 5 trực thăng và những Phi Hành Đoàn đồng tử trận.
Báo cáo về kết quả trận đánh không chỉ giới hạn trong phạm vi quân
sự, những thành phần chống đối chiến tranh Việt Nam, hoặc có hiềm
khích với cá nhân Tổng Thống Diệm, vợ chồng Cố Vấn Nhu, nhân cơ hội,
nại cớ chính quyền Miền Nam bất lực, thúc dục Tổng Thống Kennedy
quyết định loại bỏ người khai sinh nên nền Cộng Hòa Miền Nam. Tân
Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn tháng 8 năm 1963 bật đèn hiệu
cho đánh Tướng Tá để thực hiện âm mưu nhẫn tâm, vụng về nầy mà thật
sự đã có mầm mống sâu xa từ nhiều phía. Trước tiên, phải kể đến
Averell Harriman, sau nầy là Đại Sứ toàn quyền của chính phủ Johnson
(1965), người được đánh giá là một Nhà Ngoại Giao đa năng, tinh
không qua chủ trương hoàn hoãn với phe cộng sản (cụ thể với Liên Sô
từ những năm 40 khi là Đại Sứ ở đây), và sau nầy, năm 1963, khi
thương thảo cùng Liên Sô về Hiệp Ước Ngưng Thử Vũ Khí Nguyên Tử hoặc
đồng thuận cùng Trung Cộng về một giải pháp trung lập Lào, có thêm
sự tán đồng mạnh mẽ của Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Chester Bowles
với lời nói tin tưởng: ‘’Biện pháp trung lập hóa Lào, là mẫu mực mở
rộng cho toàn vùng Đông Nam Á’’ và nhất là Roger Hilsman Thứ Trưởng
Ngoại Giao, Đặc Trách Đông Nam Á Vụ. Nhưng bởi Tổng Thống Diệm lại
hoàn toàn phản đối quan điểm nấy vì ‘’trung lập hóa Lào tức là bật
đèn xanh cho bộ đội Bắc Việt xâm nhập vào Nam theo đường Hồ chí
Minh’’ chạy dọc theo sườn Tây Trường Sơn. Từ Đèo Ngang, Bắc Đồng
Hới, đoàn xâm nhập rẽ vào đất Lào, thay bộ đồ xanh của bộ đội Pathét
Lào và chiếc nón lưỡi trai, rồi từ đó đi theo hành lang an toàn (do
Pathét Lào chiếm đóng, kiểm soát) để về Tchépone, đi sâu xuống vùng
Ba Biên Giới (9 bis), chấm dứt nơi điểm hẹn Lộc Ninh, Hớn Quản của
miền Đông Nam Bộ. Từ khác biệt quan điểm chiến lược-chính trị đến
những hiềm khích mang sắc thái cá nhân, tất cả đồng bùng nổ không
che dấu khi có hoàn cảnh thuận tiện. Và trong chính giới Mỹ, sự mâu
thuẫn về chính sách lại càng nổi bật qua sự kiện phản ảnh tính cách,
phản ứng, quan điểm khác biệt giữa những cá nhân Averell Harriman đã
thẳng thừng từ chối chở Đại Sứ Nolting từ Tòa Bạch Ốc về Trụ Sở Bộ
Ngoại Giao sau một phiên họp, vì vị Đại Sứ đã cực lực chống đối giải
pháp thay thế, lật đổ Tổng Thống Diệm (10). Và Roger Hilsman là tác
giả bức Công Điện ngày 24 tháng 8 năm 1963 gởi về Tòa Đại Sứ Mỹ ở
Sài Gòn để nơi đây bật đèn tín hiệu cho đám Tướng Tá giờ quyết định
hành động. Bức điện văn tai họa này sau đó chính Tổng Thống John
Kennedy phải nhận định lại là một ‘’sai lầm nghiêm trọng’’, vì lúc
ấy ông đang nghỉ mát tại Cape Cod nên nghĩ rằng các Cố Vấn cao cấp
như Ngoại Trưởng Dean Rusk, Bộ Trưởng McNamara, Đại Tướng M. Taylor
đồng chấp nhận. Hóa ra tất cả chỉ do từ bộ ba Harriman, Hilsman và
M. Forrestal, Thứ Trưởng Quốc Phòng của McNamarra (11). Tóm lại,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ có ‘’tội’’ do đã thấy điều sai lầm của
Hiệp Định về Lào mà Harriman và Hilsman cố công gây dựng để tạo
thành quả cho tương lai mai hậu đối với sự nghiệp chính trị của
riêng bản thân của họ.
Trở lại vấn đề quân sự của Nam Việt Nam, Hiệp Định đình chiến ở Lào
ký kết ngày 23 tháng 7 có ngay hệ quả, từ những nhóm du kích cấp
Tiểu Đội, Trung Đội với những vũ khí thô sơ như súng ngựa trời, lựu
đạn nội hóa, đạp lôi, chông, mìn tự chế…lực lượng cộng sản chỉ trong
một thời gian ngắn sau khi ‘’đường đi B (Miền Nam) được thông do
hiệp định ‘’đình chiến’’ ở Lào tạo điều kiện, hoàn cảnh thuận tiện’’
đã có khả năng phát triển những trận đánh lên cấp đại đội, tiểu
đoàn. Trận Ấp Bắc đầu năm 1963 vừa kể trên là một khởi đầu nguy
biến, tiếp theo cuộc biến loạn 1.11 ở cuối năm như một đập vỡ tồi tệ
với lần giải thể ngay lập tức 2000 Ấp Chiến Lược theo lệnh của Dương
Văn Minh đẩy tình hình quân sự Miền Nam vào thế hiểm nghèo, thụ
động. Ngày 1 tháng 11 năm 1964, lần đầu tiên Phi Trường Biên Hòa bị
pháo kích, cũng là một căn cứ quân sự lớn đầu tiên của Miền Nam bị
tấn công phá hoại bởi một đơn vị hỏa lực pháo, cối, loại vũ khí của
chiến tranh quy ước tháng 12 cùng năm 64.Tiểu Đoàn 39 Biệt Động
Quân, Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến bị tổn thất nặng bởi rơi vào
thế trận phục kích ở Bình Giả, Phước Tuy (Đông Nam Sài Gòn khoảng
100 cây số đường thẳng) do một trung đoàn cộng sản thực hiện (các
trung đoàn nấy sau đó biến chế thành sư đoàn Công Trường 7, thành
phần nòng cốt của lực lượng vũ trang thống thuộc Bộ Tư Lệnh Mặt Trận
Giải Phóng) tháng 6 năm 1965 hai trung đoàn Q762 và Q763 của công
trường 7 trên lại thực hiện một cuộc vận động chiến quy mô hơn ở Xã
Đồng Xoài, Bình Dương (Bắc Sài Gòn) gây thiệt hại lớn cho Tiểu Đoàn
2 Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 7 Dù và Tiểu Đoàn 52
Biệt Động Quân. Sài Gòn lẫn Tòa Bạch Ốc rúng động, bởi chiến trường
chỉ cách Thủ Đô Miền Nam không quá 100 cây số đường thẳng. Ấp Nhà
Việc Phú Hòa Đông bên sông Sài Gòn đã là những chiến trường phải
dùng đến máy bay dội bom yểm trợ lực lượng bộ binh mới vào được.
Thế nước quả đã đến hồi thật sự nguy ngập. Nhưng trước khi Thủy Quân
Lục Chiến Mỹ kịp phối trí quân để tăng cường phòng thủ vùng biển
Miền Nam thì đơn vị bách thắng, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với người chỉ
huy Ngô Quang Trưởng đã lập nên kỳ tích hiển hách. Chữ nghĩa không
là lời nói văn hoa. Chúng ta hãy cùng sống lại khúc hùng ca với máu
mỗi người lính đổ xuống nơi những chiến địa hung hiểm trên từng vùng
đất khổ quê hương.
Với 100 trực thăng đổ quân và võ trang yểm trợ, ngày 27 tháng 4 năm
1964 Tiểu Đoàn 5 nhảy xuống Mật Khu Đỗ Xá, vùng Quận Minh Long,
Tây-Bắc Quảng Ngãi sát biên giới Kontum, chận đứng kế hoạch điều
quân của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B1 (danh hiệu phân chia vùng tác chiến
của bộ tổng quân ủy cộng sản Hà Nội Miền Nam Khu ‘’B’’), mưu định
cắt Miền Trung nước Việt Nam theo đường hành lang chạy dài từ vùng
rừng Kontum xuống bờ biển Quảng Ngãi (như đã thực hiện một lần trong
chiến tranh 1945-1954). 15 trực thăng trúng đạn, Tiểu Đoàn chịu tổn
thất ngay từ giờ phút đầu tiên xuống bãi đáp, bốn Đại Đội tác chiến
lẫn Đại Đội chỉ huy liên tiếp chạm địch, nhưng với chiến thuật điều
binh tấn công thần tốc, sau ba ngày kích chiến, Tiểu Đoàn phá vỡ căn
cứ địa kiên cố bất khả xâm phạm của cộng sản đã xây dựng từ giai
đoạn chiến tranh lần thứ nhất 1945-1954. Từ căn cứ địa này, lực
lượng cộng sản mới có thể tràn xuống đồng bằng, thành lập những
‘’vùng giải phóng’’ mới. Các chiến khu Ba Tơ, Mộ Đức một thời vang
danh là mở rộng từ căn cứ địa Đỗ Xá này. Tiểu Đoàn tịch thu 160 súng
đủ lại, kể cả những súng cộng đồng (của phía cộng sản) được tìm thấy
đầu tiên ở chiến trường miền Nam (12). Muốn biết tầm quan trọng của
trận chiến, ta hãy lưu ý đến chỉ tiêu kỹ thuật: ‘’Theo thống kê của
chuyên viên quân sự: Muốn lấy được một vũ khí thì nhất phải có một
binh sĩ bị tử thương, và nếu đã có một binh sĩ tử thương thì ắt phải
có ba binh sĩ bị thương, mất năng lực chiến đấu’’. Đơn vị cấp Tiểu
Đoàn Nhảy Dù vào thời điểm kia có quân số hành quân trung bình từ
500 đến 600 người, khinh binh chưa được trang bị súng XM-16, một
Trung Đội tác chiến chỉ có hai khẩu AR-15. Cần biết như thế để thấy
ra sức chiến đấu uy mãnh của Tiểu Đoàn 5 đối với một lực lượng địch
chắc hẳn phải là cấp trung đoàn chính quy (không kể đơn vị du kích,
lực lượng địa phương) mới có được thành quả chiến thắng với số vũ
khí tịch thu như trên. Trở lại chiến trường miền Nam, chiến thắng ở
Đỗ Xá năm 1964 được lập lại thêm một lần nơi cửa ngõ Sài Gòn, đánh
tan lời tự tán dương ‘’bộ đội anh hùng vũ trang mặt trận giải phóng
niền Nam. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng’’ của những đơn vị cộng sản vùng miền
Đông Nam Bộ. Tháng 2 năm 1965 dọc Quốc Lộ 15, đường đi Sài Gòn-Vũng
Tàu, phối hợp với đơn vị bạn. Tiểu Đoàn 7 Dù, làm thành phần nút
chận để không cho địch quân chạy qua Quốc Lộ 15, khoảng núi ông
Trịnh, Phước Tuy (Bà Rịa), Tiểu Đoàn trực thăng vận nhảy xuống mật
khu Hắc Dịch, xong từ trong lòng địch đánh bung ra. Trận chiến kéo
dài từ lúc ngày vừa rạng qua đêm khuya. Khoảng rừng tối tăm dày đặc
sau hai ngày tác chiến rụng sạch cành lá bởi đạn pháo, đến sáng thứ
ba, lính Tiểu Đoàn 7 thấy qua màn khói đục bóng dáng quân bạn chạy
thấp thoáng truy kích tàn binh địch, thực hiện cuộc rượt bắt cá nhân
đối với những cán binh cộng sản còn lại của trung đoàn thuộc công
trường 7.
Tiểu Đoàn 5 không chỉ đánh phụ hận cho đơn vị bạn những Tiểu Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân bị tổn thất trong trận chiến mùa
Đông 1964, Cũng do những kẻ địch chung phiên hiệu công trường 7 kia,
cũng nơi vùng rừng Bình Giả. Tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) nầy. Nhưng đã
lập nên thế cân bằng an toàn chiến thuật cho mặt trận Vùng 3 và khu
vực Biệt Khu Thủ Đô. Bởi nếu phía cộng sản thắng lợi nơi vùng chiến
trường nầy. Đường về Sài Gòn chỉ cần một đêm điều quân (Năm 1975,
chúng ta đã chứng kiến hướng tấn công (Sài Gòn) nầy được thực hiện
với thời gian chưa tàn điếu thuốc ở những ngày cuối tháng Tư)
Lần cứu nước đầu tiên nầy có mấy ai hay, kể cả những chuyên viên
nghiên cứu tình hình, hoạt động-chính trị quân sự của hai phía
Mỹ-Việt ?
Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng vinh thăng Trung Tá tại mặt trận, ân
thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương vào năm 33 tuổi, chuyển về
nhậm chức Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù (đến 15 tháng 12 năm 1965,
đơn vị mới biên chế thành cấp Sư Đoàn). Hằng ngày, ông đi lặng lẽ từ
Văn Phòng Tham Mưu Trưởng xuống nhà ăn binh sĩ, qua Khu Trung Tâm
Huấn Luyện Tân binh, Huấn Luyện Nhảy Dù. Ánh mắt sắc, nghiêm, nhưng
nhân hậu không bỏ sót một hình ảnh, sinh hoạt nhỏ nhặt nào dù chỉ là
của một tân binh.
Ghi Chú:
1.- Marilyn B. Young the Vietnam Wars 1945-1990 Harper Perenial NY,
USA 1999 (p. 92)
2.- Stanley Karnow Vietnam A History Penguin Books NY, USA 1984
(p.280)
3.- Marilyn B. Young (ibid p. 94)
4.- Stanley Karnow (ibid p. 304)
5.- Marilyn B. Young (ibid p 91)
5bis.- Chính Đạo Việt Nam Niên Biểu. Nhà xuất bản Văn Hóa Houston
TX, USA. Trang 266.
6.7.8.- Stanley Karnow (ibid p. 278, 279)
9.- Lý Tòng Bá Hồi Ký 25 Năm Khói Lửa. Nhà xuất bản Tú Quỳnh CA, USA
1995. Trang 78.
10.- Stanley Karnow (ibid p.304)
11.- Robert S. McNamara In Retrospect Random House NY, USA (p.
52-55)
12.- Đoàn Thêm Những Ngày Chưa Quên. Nhà xuất bản Phạm Quang Khai
Sài Gòn 1966 (Trích đoạn năm 1965)
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ HAI
Bắt đầu mùa Hè 1966, miền Trung dậy nên cơn bão lửa ly khai từ sự
kiện Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng 1 (Đà Nẵng) vào Sài
Gòn họp Hội Đồng Quân Lực (10 tháng 3) và bị những Tướng lãnh Trung
Ương (Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Hội Đồng. Nguyễn cao Kỳ Chủ Tịch Ủy
Ban Hành Pháp Trung Ương. Nguyễn Hữu Có Tổng Ủy Viên Quốc Phòng)
cách chức. Ngoài lý do Tướng Thi ‘’bất tuân thượng lệnh’’ vì đồng
thuận để những nhân vật khuynh tả, phản chiến (lãnh tụ Phật Giáo
khối Ấn Quang, Trí Quang nhóm Giáo Sư Đại Học Huế, Thị Trưởng Đà
Nẵng Bác Sĩ Mẫn, một người du học Pháp về) khuynh loát, giật dây,
ông còn là một đe dọa chính trị đáng ngại đối với chức Chủ Tịch Hành
Pháp (Thủ Tướng) của Nguyễn cao Kỳ, cũng cần tính đến những hiềm
khích, đấu đá vì hành vi tư cách cá nhân giữa hai người. Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Chuân Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Huế) được cử vào Đà Nẵng
thay thế Tướng Thi giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn, Đại Tá Phan Xuân
Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân thay thế Tướng Chuân chỉ huy Sư
Đoàn 1.
Ngày 12 tháng Ba, lấy cớ yêu cầu phục hồi chức vụ cho Tướng Thi,
phong trào chống đối chính phủ trung ương nổ bùng ở Huế, Đà Nẵng,
cũng đồng thời đòi chính quyền Quân Nhân (Sài Gòn) giải tán, thành
lập một chế độ dân cử, sinh viên, thanh niên võ trang thuộc Lực
Lượng Tranh Thủ Cách Mạng dưới quyền điều động của nhóm Tăng Sĩ Phật
Giáo quá khích thực sự tiến hành cuộc khởi loạn (trong giai đoạn này
cũng như vào thời gian sau, có nhiều xác chứng phong trào đã hoàn
toàn bị dẫn dắt bởi cán bộ cộng sản nội thành của những Tỉnh cực Bắc
Trung Bộ, Trí Quang sau năm 1975 là một bằng cớ). Chính phủ Quân
Nhân ở Sài Gòn tạm thời hòa dịu, hứa hẹn thành lập Hội Đồng Tư Vấn,
soạn thảo Hiến Pháp trong vòng hai tháng để chuẩn bị bầu Quốc Hội
Lập Hiến, sau đó sẽ có bầu Tổng Thống vào năm 1967. Chủ Tịch Hành
Pháp Nguyễn cao Kỳ còn xác định rõ một thời điểm, 15 tháng 8 sẽ bầu
Quốc Hội (sau dời lại tháng 10 năm 1966). Nhưng tất cả chỉ là những
giải pháp tạm thời, bề mặt, phe tranh đấu (thành phần chỉ huy của
phong trào Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng) tiếp tục biểu dương uy thế
và bày ra điều yêu sách cuối cùng: Chấm dứt chiến tranh, người Mỹ
ngưng oanh tạc và rút quân khỏi Việt Nam bất chấp chiến thuật khôn
ngoan của Trí Quang qua buổi thuyết giáo (18 tháng 4) tại Chùa Từ
Đàm: ‘’Kêu gọi Phật Tử ngưng biểu tình, Quân Nhân ly khai nộp súng
đạn lại cho chính phủ’’. Những cuộc biểu tình ‘’chống Mỹ cứu nước’’
ở Huế, Đà Nẵng tiếp theo lan rộng khắp cả nước, tại những Thành Phố
quan trọng, nơi có quân Mỹ đồn trú. Tình hình trở nên xấu hơn khi
xẩy ra sự kiện một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ xông vào đám biểu
ngữ bài Mỹ (viết bằng Anh Ngữ) trong một buổi biểu tình tại Huế.
Chính phủ Quân Nhân tại Sài Gòn đợi đến lúc phong trào trở nên quá
khích một cách lộ liễu (bài Mỹ chống Công Giáo), để có duyên cớ
chính đáng (nhất là giải thích với Tòa Đại Sứ, dư luận báo chí Mỹ)
gởi quân trừ bị ra Đà Nẵng. Lực lượng Quân Đội ly khai phần đông là
Quân Nhân thuộc các đơn vị chuyên môn nên không thể nào đương cự với
Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân từ Sài Gòn đưa ra. Cuối
cùng, đến ngày 16 tháng 9, cuộc binh biến miền Trung hoàn toàn bị
dẹp tan. Dẫu Trí Quang dùng đến biện pháp cuối cùng, bày bàn thờ ra
mặt lộ ngăn cản hướng điều quân của phe trung ương. Các Tướng lãnh
chỉ huy những đơn vị Vùng 1 bị đưa ra Tòa, chịu hình phạt quân kỷ và
buộc giải ngũ. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh
(Quảng Ngãi) được chỉ định nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. Đại Tá Ngô
Quang Trưởng, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù giữ nhiệm vụ Tư Lệnh
Sư Đoàn 1. Đại Tá Trưởng có Đại Tá Lê Văn Thân Phụ Tá, Đại Tá Thân,
một trong Tứ Kiệt của Binh Chủng Pháo Binh. Người đứng đầu nhóm bốn
người tuấn kiệt này là Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng vị Tướng thanh
liêm nhất (theo dư luận chung của quân dân miền Nam mà báo Diều Hâu,
Sài Gòn đã phổ biến đề cao).
Đại Tá Ngô Quang Trưởng nhận đơn vị, Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong một
hoàn cảnh bất lợi toàn diện. Những Quân Nhân giữ chức trọng yếu, kể
cả Sĩ Quan chỉ huy trung cấp và Hạ Sĩ Quan (nếu là gốc Phật Giáo)
đồng bị tuyên chuyển sang những đơn vị thuộc các vùng chiến thuật
khác, người còn lại không tin những bạn đồng ngũ mới thuyên chuyển
đến (tình hình tương tự ở các cấp chính quyền, quân sự miền Nam như
sau đảo chánh 1 tháng 11.1963). Nhưng Đại Tá Trưởng vững tin nơi bản
lĩnh cá nhân mình, cùng khả năng đơn vị, đã được thử sức sau hơn
mười năm dài chiến trận miền Nam. Ông cũng rất cậy trông vào vị Tư
Lệnh Phó, người có khả năng Tham Mưu, tổ chức cao, tâm chất trung
trực, đạo đức, thế nên chỉ sau một thời gian ngắn, Sư Đoàn đã chỉnh
đốn lại đội ngũ, phục hồi tư thế chiến đấu như hằng có. Bắt đầu với
những sĩ quan trẻ, những sĩ quan cấp Úy thuộc các Khóa 14, 16 đến 20
Võ Bị Đà Lạt hoặc các Khóa tương đương của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức, đơn vị dần thâu đạt những tiến bộ vượt bực sau một thời gian
ngắn ngũi trong vòng một năm. Chiến trận Mậu Thân 1968, Hành Quân
Lam Sơn 719 và cuộc phản kích mùa Hè 1972 sau nầy là những bằng cớ
chứng thực. Đơn vị thuộc quyền của Người Chỉ Huy Ngô Quang Trưởng là
Sư Đoàn Bộ Binh tác chiến hàng đầu của Quân Lực. Không chỉ với Quân
Đội miền Nam nhưng nếu so sánh cùng thế giới, chúng ta vẫn giữ toàn
quyền hãnh diện. Đại Tướng Abrams sau nầy, khi thay thế Tướng
Westmoreland chỉ huy Quân Đội Mỹ tại Việt Nam đã nói cùng những sĩ
quan, Tướng lãnh của ông: ‘’Sư Đoàn của Tướng Trưởng tác chiến trong
rừng giỏi hơn chúng ta’’ (13). Sự biến đổi thần kỳ nầy không là
chuyện hoang đường. Trận làng Lương Cổ, Thừa Thiên đầu năm 1967 là
một thí dụ điển hình của lần vượt dậy hào hùng kia.
Hệ thống các làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc Huyện Hương Trà,
Thừa Thiên, Tây-Bắc Thành Phố Huế, kết thành một giải hành lang
thiên nhiên mà các đơn vị bộ đội cộng sản từ các mật khu vùng
Tây-Nam Huế (A Sao, A Lưới), thường sử dụng để xâm nhập tiếp cận
Thành Phố (do cố tránh các tiền đồn thượng nguồn sông Hương, mặt Nam
Thành Phố). Những làng nầy từ chiến tranh 1945-1954 đã là những căn
cứ địa vững chắc ‘’những chiến khu-vùng tự do’’, mà quân đội Liên
Hiệp Pháp không thể nào kiểm soát được, bởi hệ thống kinh lạch của
ba con sông, sông Hương, sông Bồ, sông Mỹ Chánh tạo nên một vùng
trũng thấp nằm giữa Phá Tam Giang, cửa Thuận An và Quốc Lộ I ngăn
cản sức tiến của bộ binh, khả năng cơ động của những người chỉ huy
quân sự vùng Thừa Thiên-Huế. Lực lượng cộng sản bám chắc củng cố
vùng bản lề nầy bởi đấy cũng là nơi ém quân để mở những chiến dịch
quan trọng: Cắt đường số I, chận viện lên mặt phía Bắc (Quảng Trị,
Đông Hà và xa hơn, Cồn Tiên, Gio Linh, Khe Sanh…) Đại Tá Trưởng sử
dụng một Tiểu Đoàn Bộ binh cơ hữu làm thành phần nút chặn dùng Đại
Đội Thám Kích của Sư Đoàn, Đại Đội Hắc Báo và Tiểu Đoàn 9 Dù (tăng
phái), hợp cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M-113, đơn vị thống thuộc
của Sư Đoàn mở hai mũi dùi tấn công chính vào hệ thống công sự, giao
thông hào mà có lẽ đã đào từ ngày bắt đầu cuộc chiến và càng ngày
càng củng cố độ dày để chịu đựng nổi pháo binh cùng phi cơ oanh
kích. Và cũng có thể đây là lần đầu tiên phía bộ đội cộng sản gặp
phải một đối thủ kỳ lạ những địch thủ tiến thẳng vào hàng rào hỏa
lực của họ. Trận chiến kéo dài từ sáng sớm kéo qua trưa, phía Nhảy
Dù, Bộ Binh, Thiết Giáp đồng bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không
thể tiến vào khu làng qua những cánh đồng ngập nước. Cuối cùng Đại
Tá Trưởng chuyển lệnh trực tiếp đến cùng với Thiếu Tá Nguyễn Thế
Nhã, Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị tăng phái cho khu chiến thuật: ‘’Đơn vị
mới thành lập (do biết rõ khi ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Sư
Đoàn Dù), anh lại vừa thay thế anh Huệ (viên Tiểu Đoàn Trưởng vừa tử
trận tháng trước trong trận Đèo Ba Giốc, vùng Phi Quân Sự), thế nên
tất cả thành bại của đơn vị là ở trận nầy đây.’’ Ông không nói hết
lời, nhưng người Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng đơn vị Dù tăng phái hiểu
được ý: ‘’Đây cũng là lúc quyết định một phần sự nghiệp riêng của
chính ông, viên Tư Lệnh chiến trường một Tướng lãnh xuất thân từ
Binh Chủng Nhẩy dù và cả danh dự Binh Chủng cũng sẽ được chứng thực
nơi chiến trường hiểm hóc, xa xôi này’’. Thiếu Tá Nhã chuyển lại
lệnh cho các Đại Đội Trưởng tác chiến. Và trên cánh đồng loáng nước,
trong ánh sáng chập choạng của buổi chiều diễn ra một cảnh tượng
khốc liệt hùng tráng…Những chiếc M-113 theo lệnh của Đại Úy Hóa, Chi
Đoàn Trưởng đồng mở bung pháo tháp, các xạ thủ đại liên 50 siết cứng
ngón tay vào lẩy cò tuôn loạt đạn công phá mở toang các vị trí cố
thủ của đơn vị việt cộng, lính Nhảy Dù tùng thiết vượt qua mặt chiến
xa, tiến lên thanh toán mục tiêu bằng cận chiến. Những Thiếu Úy
Thuận Văn Chàng, Phạm Văn Thành, Chuẩn Úy Nguyễn Thành Văn…xông lên
trước hàng quân với lựu đạn mở chốt cầm sẵn ở tay. Thân hình họ lảo
đảo ngã xuống bờ ruộng xong đứng lên lại với những tiếng hô…xung
phong…xung phong hòa lẫn tiếng đạn súng tay nổ bục trong thân thể,
da thịt người vì đường đạn đi quá ngắn. Đám bộ đội cộng sản cố thủ
không lường được thế trận với những người lính đối phương quá đỗi
kiên cường, nên đồng loạt đứng dậy khỏi giao thông hào, đưa cao tay
đầu hàng. Trận chiến kết thúc với lời khai: ‘’Chúng cháu được lệnh
cố thủ vị trí vì đây là vùng giải phóng, quê nhà của đồng chí Đại
Tướng!’’ Hóa ra Đại Tá Ngô Quang Trưởng đã phá vỡ huyền thoại từ đã
lâu được phổ biến trong bộ đội cộng sản miền Bắc: ‘’Quân giải phóng
đã kiểm soát được ba phần tư lãnh thổ miền Nam, nhất là những vùng
căn cứ địa cách mạng cũ (trước năm 1954), hoặc cơ sở địa phương, quê
hương các đồng chí lãnh đạo’’. Làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá là
quê hương của Nguyễn chí Thanh, nhưng bộ đội miền Bắc đã không vào
tiếp thu với ‘’chào đón của nhân dân giác ngộ cách mạng’’, mà bởi
những người lính Cộng Hòa theo một cách thế khác hẳn lời tuyên
truyền. Tuy nhiên, trận làng Lương Cổ đầu năm 1967, hoặc lần đánh
bật toàn diện hạ tầng cơ sở, đơn vị du kích, lực lượng địa phương
của bộ đội cộng sản vùng mật khu Phú Thứ, Tây-Nam Huế, bên trái Quốc
Lộ 1 đường đi Đà Nẵng vào khoảng gần cuối năm sau nầy chỉ là phần
dạo đầu. Phải đợi đến buổi thử sức toàn diện. Khi cộng sản quyết tâm
giải phóng miền Nam bằng cuộc Tổng công kích-Tổng nổi dậy theo lời
thúc dục từ Hà Nội, với lời thơ ‘’Chúc Tết’’ của Hồ chí Minh đọc
trong đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân 1968. Trận thử sức làm sáng tỏ một
điều đơn giản cao quý: Quân đội của bên nào thật sự nắm giữ sắc cờ
Nhân Nghĩa của Quê Hương.
27 tháng 2 năm 1968. Những giờ cuối cùng ở Ngũ Giác Đài, McNamara sử
dụng quyền lực còn lại sau 1558 ngày nắm giữ chức vụ trọng yếu nhất
nền Quốc Phòng Mỹ để phủ quyết yêu cầu của Tướng Westmoreland về đề
nghị tăng cường thêm 200.000 nhân sự bổ sung trong các lãnh vực
Chính Trị, Kinh Tế, Quân Sự và Chiến Tranh Tâm Lý. Hành động ‘’được
ăn cả ngã về không’’ gọi là khôn ngoan nầy không phải do trí lực
sáng tạo riêng, nhưng ông ta đã họ được từ Dean Acheson, theo cách
người nầy đã một lần từ nhiệm chức vụ Thứ Trưởng Tài Chánh khi không
đồng ý với chính sách tài chánh của Tổng Thống F. Roosevelt đầu thập
niên 1930. Nhưng thật chỉ là một cách nói, bởi McNamara đã giữ chức
vụ lâu hơn bất kỳ vị tiền nhiệm nào, lâu đến bảy năm với khả năng
quyền lực đặc biệt giành riêng qua hai đời Tổng Thống. Danh tính
‘’McNamara’’ đã được dùng để đặt tên cho một phòng tuyến căn cứ hỏa
lực chạy dài từ Cửa Việt ở biển Đông đến Trại Lực Lượng Đặc Biệt
Làng Vei sát biên giới Lào-Việt. Cần nói thêm một điều: Chiến tranh
Việt Nam có lúc được giới nghiên cứu chiến lược quốc tế gọi là
‘’cuộc chiến McNamara’’ vì người này đã ‘’tổ chức’’ hoạt động quân
sự ở Việt Nam kia thành một tiến trình tiếp vận khổng lồ với phí tổn
đến 4 Tỷ Đô la khởi đi từ 1965, thời điểm lực lượng bộ binh Mỹ bắt
đầu tham chiến ở Việt Nam. Sư Đoàn 1 Không Kỵ, lực lượng bộ binh cơ
động nhất thế giới với một Sư Đoàn trực thăng hơn 400 chiếc cơ hữu
cũng là sản phẩm đắc ý nhất của ông Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới sau
lần rời chức vụ. Nhưng bởi không muốn mang danh là người có liên hệ
đến một thất bại, nên đang trong lúc cao điểm sôi bỏng nhất của cuộc
chiến. Bộ Trưởng Quốc Phòng Liên Bang Bắc Mỹ, McNamara từ chức.
Một tháng trước lần McNamara từ nhiệm, 36 của 44 Tỉnh lỵ, 5 của 6
Thành Phố, 64 của 242 Thị Trấn, Quận Lỵ Thành Phố Miền Nam đồng loạt
bị tấn công bởi một lực lượng 323.500 bộ đội cộng sản gồm 97 tiểu
đoàn và 18 đại đội đặc công biệt động. Cuộc tấn công khởi đi từ đêm
Giao Thừa Tết Mậu Thân, đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968. Và không
phải Sài Gòn với Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu, Tòa Đại Sứ Mỹ dẫu
đã là mục tiêu hàng đầu của cuộc tấn công nhưng Huế lại là Thành Phố
hứng chịu tàn phá nặng nề nhất của trận chiến kéo dài 26 ngày, và
không những chỉ thế, cư dân Huế lại là đối tượng phải thực hiện lần
‘’trả nợ máu’’ theo cách định giá của tập đoàn quân đội cộng sản,
những tiểu tổ hành quyết nằm vùng trong những ngày chiếm đóng, khi
thua trận rút lui. Món nợ máu mà họ không hề vay nhưng phải trả giá
đắt với chính cái chết thảm khốc mà chỉ vào thời Trung Cổ các đội
binh xâm lược thường hành xử đối với quân, dân của xứ sở đối phương.
Phải chăng là giá máu trong vùng ‘’bị Mỹ-Ngụy tạm chiếm’’ vùng đất
mà họ đã sống từ trăm năm xưa cũ, bắt đầu từ Thế Kỷ 17, khi Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa.
Nhưng cuối cùng, Thành Phố Huế được chiếm lại, phục hồi, đạo binh
xâm lược từ miền Bắc, từ các mật khu Tây-Nam Huế, vùng Dãy Phố Buồn
Thiu dọc Phá Tam Giang buộc phải rút lui, để lại những chiến tích,
những hầm chôn người tập thể tại Trường Gia Hội, Bãi Dâu, Khe Đá Mài
vùng núi Ngự Bình, những truông, vực thuộc Thôn Ngũ Tây, Quận Nam
Hòa. Cảnh tượng tàn bạo nầy càng đậm thêm tính ác độc của danh tự
‘’việt cộng’’, cùng mối kinh hoàng do họ gây nên. Một mặt khác, khi
người dân nghe tiếng báng súng đập lách cách vào những thân người di
chuyển, hoặc âm động rì rầm của máy xe thiết vận xa M-113, chiến xa
hạng nặng, lời chuyển lệnh rì rào từ các máy truyền tin có khoa
khuếch đại của bộ binh Mỹ…Họ hé cửa nhìn ra từ những căn nhà mái
thấp, sụp vỡ, leo lét ánh đèn dầu, qua hàng rào lá chè loang lỗ trốc
gốc, cảnh tượng u tối, đe dọa của thời chiến tranh trước 1950, và
thì thào lời mừng rỡ chưa hẳn tin là thật…Lính tới, lính tới…Lính
mình tới…Mỹ tới…Mỹ tới…khi họ thấy chạy thấp thoáng theo đội hình,
dọc hè phố vươn vãi thây người trên gạch ngói đổ nát rơi rớt, những
dạng người lính với y trang màu lục đậm (bộ binh), hoặc tác chiến
hoa của các Binh Chủng Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến
với ba lô nổi gồ trên lưng, khối tròn quen thuộc của chiếc nón sắt.
Tất cả đã trở nên biểu tượng của linh thiêng cứu viện, nguồn hy vọng
thiết thân giữa cảnh chết, sau bao ngày đe dọa hung hiểm bởi cái
chết bao vây. Và khi Huế được sống lại, qua tiếng lời người dân,
danh tính, vị Tướng quân: ‘’Ông Trưởng trong Mang Cá ra Gia Hội thăm
đồng bào’’ gắn liền cùng chiến công Giữ Nước-An Dân, như Trần Hưng
Đạo đã kiên trì bảo vệ Thăng Long (cuối Thế Kỷ 13), của Văn Thiên
Tường đời Nam Tống (đầu Thế Kỷ 13) chết cùng Thành Tương Dương, hoặc
M. I. Kutuzov trải thân với vận mệnh Moscow trong chiến tranh chống
Napoléon năm 1812. Chúng tôi không đặt điều so sánh trong văn
chương, chữ nghĩa, nhưng xác chứng với máu, xương của dân, quân đổ
xuống qua dài cơn lửa đạn. Và điều nầy sẽ thêm một lần xác chứng ở
mùa Hè 1972, cũng với người dân xứ Huế. Nay, chúng ta hãy cùng sống
lại những thời khắc hào hùng bi tráng của quê hương. Đêm Xuân đẫm
nước mắt năm Mậu Thân, 1968.
Hoạt động của phía cộng sản không chỉ là một chiến dịch quân sự
thuần túy, do chiến tranh Việt Nam đã tạo nên một thất lợi tâm lý
trầm trọng trong dư luận Mỹ Quốc, từ sự kiện Walter Cronkrite đã có
mặt tại Sài Gòn ngay trong tháng Hai, khi trận chiến đang bùng nổ
giữa những đường phố, để sau đó trong buổi phát hình ngày 27 cùng
tháng, người hướng dẫn dư luận quần chúng nầy đã mạnh mẽ xác định:
‘’Hơn bao giờ hết, chúng ta có thể nói rằng kinh nghiệm đẫm máu tại
Việt Nam sẽ phải mở ra một lối thoát’’. Lời tiên tri nầy được hiện
thực bởi hòa hội Paris khai mạc vào cuối năm 1968 mà áp lực vốn có
từ nhiều năm trước. Cụ thể lời như lời thúc dục của McNamara (lại là
Mac chứ không ai khác) với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong lần
viếng thăm Sài Gòn từ 1967: ‘’Chúng tôi cần thương thuyết với Hà Nội
để cho cuộc tuyển cử sắp tới (trong năm 1968)’’, hoặc của Đại Sứ
Bunker tại Sài Gòn: ‘’Dư luận Hoa Kỳ đã trói tay Tổng Thống (Mỹ),
thế nên phải có cuộc thương thuyết hòa bình (tại Paris) để chứng tỏ
cùng Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ rằng chúng ta (Hoa Thịnh Đốn lẫn
Sài Gòn) đều mong muốn hòa bình’’. Hoặc thái độ bất phục tùng của
gia đình David Vandivier ở Khu Spanish Harlem, New York mà người cha
vốn là cựu chiến binh Thế Chiến Thứ 2 qua quyết định đưa anh em
David và John Vandivier đến Canada cuối mùa Hè 1968 để tránh lệnh
trưng binh. Và cho dù những sự kiện vừa kể trên đã là điều thực tế,
nhưng Võ nguyên Giáp sau nầy lại xác nhận với Ban Biên Tập Đặc San
NAM, Nhà xuất bản Atlas, Tây Âu: ‘’Ý kiến cho rằng Trung Ương đảng
đặt nặng vấn đề về các phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ trong
quyết định tiến hành Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa ở miền Nam là
một nhận định kém cơ sở’’. Cuối cùng, sự thật chỉ phản ảnh đúng nhất
qua phân tích của Khối Quân Sử, Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa: ‘’Trận chiến Khe Sanh và cuộc Tổng công kích Mậu
Thân, (Hiện thực Nghị Quyết 13 Trung Ương đảng) đồng có những mục
đích:
- Dồn mọi nỗ lực để chiến thắng về mặt quân sự (đối với lực lượng
Mỹ. Điển hình mặt trận Khe Sanh), buộc Mỹ phải rút quân ra khỏi miền
Nam tương tự quân đội Pháp sau trận Điện Biên Phủ (Do dư luận phản
chiến tại Mỹ làm áp lực như phần trên vừa trình bày. Tuy không là
yếu tố quyết định hàng đầu).
- Làm băng rã Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chứng minh cùng dân chúng
miền Nam cũng như dư luận thế giới về sự lớn mạnh (chính trị lẫn
quân sự) của phía cộng sản. Đồng thời dựng nên Mặt Trận Liên Minh
Dân Chủ Hòa Bình tại Sài Gòn, Huế với mục đích vận động quần chúng
nổi dậy lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
- Chuẩn bị, củng cố vai trò chính trị Mặt Trận Giải Phóng trước khi
hội nghị Paris khai diễn. Nhưng cũng có dư luận cho rằng đây là
‘’đòn mật ước’’ giữa Hà Nội và Mỹ (qua trung gian của Liên Xô) để
thanh toán hạ tầng cơ sở Mặt Trận (có khuynh hướng thân Trung Cộng),
giúp Hà Nội có cớ khuynh loát mạnh mẽ hơn đối với thành phần lãnh
đạo cộng sản miền Nam, song song với sự kiện về vai trò của Nguyễn
chí Thanh bị tử trận, thay thế bởi đích danh Võ nguyên Giáp, sự xâm
nhập lực lượng bộ đội chính quy cộng sản miền Bắc vào Nam với khối
lượng lớn. Điều nầy vẫn là một ‘’nghi án chính trị’’ chưa soi sáng
đủ. Tuy nhiên sau 1975, với lần thanh toán không nương tay cái gọi
là ‘’Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam’’ cùng
cách sử dụng ‘’tận diệt’’ những binh đội cộng sản thuộc ‘’chính
phủ’’ nầy với lối đánh thí quân không thương tiếc do những cán bộ
khung đi từ miền Bắc vào sau 30 tháng Tư năm 1975, chỉ huy ở chiến
trường Campuchia (1979), đã là những chứng cớ cụ thể về lần ‘’thanh
toán quyết định giá trị’’ cuối cùng của những ‘’đồng chí miền Bắc
đối với người anh em mặt trận giải phóng miền Nam’’. Một tiểu đoàn
bộ binh thuộc tỉnh đội Rạch Giá khi điều lên Campuchia không hề nhận
được nhu yếu phẩm sinh hoạt hàng ngày, các gia đình bộ đội (hoàn
toàn là cư dân miền Nam) phải tự túc tiếp tế cho con em mình! Tiểu
đoàn nầy sau một thời gian ngắn đã hoàn toàn tan rã, còn lại không
quá 10 người, người sống sót trốn thoát qua Thái Lan bằng đường bộ
(lẽ tất nhiên vùng đất dung thân cuối cùng không đâu khác là nước
Mỹ). Nghi án chính trị vừa kể trên qua thực tế sau năm 1975 hẳn có
mức độ khả thể đáng tin cậy.
TRẬN ĐÁNH
Ngày 20 tháng Giêng 1968, Đại Úy W. H. Dabney chỉ huy Đại Đội 1,
Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiến chiếm đồi
881, cao độ giữ mặt Tây và Tây-Bắc căn cứ Khe Sanh, trên Đường Số 9
hướng biên giới Lào, mở đầu quyết định chọn Khe Sanh làm ‘’diện’’,
thu hút và tiêu diệt lực lượng cộng sản trong khuôn khổ hành quân
Scotland. 5 giờ 30 sáng ngày 21, những quả hỏa tiễn đầu tiên của
phía cộng sản đổ chụp xuống các vị trí pháo binh, bãi đậu xe, phi
đạo dã chiến, sân trực thăng, hầm phòng thủ lực lượng đồn trú. Mười
ba tấn đạn đại pháo gồm 130 ly, hỏa tiễn 122, súng cối 82 ly đồng
rơi xuống cứ điểm mở đầu chiến dịch dứt điểm Khe Sanh với lực lượng
xung kích gồm hai sư đoàn bộ binh nặng 325C và 304 theo lệnh điều
quân của đích thân Võ nguyên Giáp, còn có một sư đoàn khác làm trừ
bị, do chưa điều động vào vùng nên chỉ danh không được xác định.
Trận đánh không hoàn toàn bất ngờ, vì từ buổi sáng Dabney đã nhận
được một ‘’người khách không mời’’, viên Trung Úy bộ đội chính quy
Bắc Việt hồi chánh với cây cờ trắng và bản tường trình chi tiết kế
hoạch tấn công tiến chiếm Khe Sanh của phía cộng sản: ‘’Từ Khe Sanh,
bộ đội cộng sản sẽ điều quân về hướng Đông, dọc theo Đường 9 đánh
chiếm Quảng Trị. tiếp theo sẽ là Huế.’’ Nói chắc một ý niệm. Hành
quân chiếm đóng toàn bộ phần đất Việt Nam Cộng Hòa Bắc đèo Hải Vân.
Chưa hề thấy trong cuộc chiến lâu dài ở Việt Nam có một trường hợp
lệnh hành quân bị tiết lộ một cách chính xác và mau mắn đến như vậy.
Sự kiện lại xảy ra từ phía cộng sản, một phe tham chiến hằng từ lâu
thực hiện tính bảo mật cao độ và có hiệu quả. Người nầy cũng không
quên chi tiết chính xác: Giờ G là 12 giờ 30 của Ngày N 21 tháng
1.1968. (‘’Giờ G’’ của ‘’Ngày N’’: Giờ của ngày quyết định mở đầu
diễn tiến hành quân).
Không chậm trễ, để đối lại, phía Mỹ huy động toàn bộ hệ thống hỏa
lực gớm ghê của họ để ‘’Khe Sanh không thể là một Điện Biên Phủ’’
với kế hoạch đánh bom mang bí danh Niagara, mà chỉ trong vòng 24 giờ
của ngày 21 tháng 1, đã có đến 600 phi vụ do phi cơ Hải Quân và
Không Lực Hoa Kỳ hiệp đồng thực hiện thêm với 49 phi xuất B-52 đến
từ Thái Lan và Đảo Guam. Khi trận đánh kết thúc, chuyên viên hỏa lực
không yểm chiết tính ra số liệu chính xác: Trong 77 ngày Khe Sanh bị
vây hãm, Không Lực, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã thực
hiện 24.000 phi vụ chiến thuật với 350 phi cơ gồm các loại A. 4, 6,
8 Skyhawk và F.4C Phantom. Đồng thời B-52 chiến lược cũng đã tham dự
với 2700 phi xuất. Chúng ta nên biết thêm chi tiết: Mỗi chiếc B-52
trung bình mang 108 quả bom, mỗi quả nặng 245 ký lô.
Tổng kết, sau 77 ngày chiến trận, chung quanh cứ điểm có chiều dài
hai, chiều ngang một cây số gọi là Khe Sanh kia, trên những vị trí
(có rất nhiều điểm chỉ là nghi ngờ) của hai sư đoàn 325C và 304 bộ
binh Bắc Việt, đã có đến 110.000 tấn bom thả xuống. Không kể đến hỏa
lực trực thăng võ trang và các giàn pháo 105, 175 ly của bộ binh Mỹ.
Nhưng Khe Sanh chỉ là một ‘’diện’’ của thế trận là ‘’cái cớ’’ thu
hút quân đội của các phe tham chiến trên chiến địa. Nỗi ĐAU Mậu
Thân. Điểm thật thực sự xẩy ra ở những nơi khác, với những người
dân. Người thường dân của miền Nam nước Việt. Huế được chọn lựa làm
địa điểm dấy lên vũng lửa cảnh xương máu chập chùng lớn nhất.
Đêm Giao Thừa 1967 sang 1968, đài Hà Nội phát ra lời ‘’Thơ Chúc
Tết’’ của Hồ chí Minh có nội dung:
“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà.
Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.”
Pháo Sài Gòn, các Thành Phố miền Nam nổ nhiều hơn tất cả mọi năm.
Hiện tượng pháo nổ dòn dã bày ra điều cay đắng: ‘’Chiến tranh và tất
cả đau thương, khốn cùng của nó là một ‘’thực thể’’ cần được tiêu
trừ. Con người luôn cầu Hòa Bình đồng thời cũng sẵn sàng thực hiện
Chiến Tranh’’. Nương theo tiếng pháo nầy, bộ đội chính quy miền Bắc,
lực lượng vũ trang giải phóng, du kích địa phương cộng sản miền Nam
đồng nổ súng hiện thực lời ‘’Thơ Chúc Tết’’ trên. Cảnh tượng bi thảm
xẩy ra cùng lần trên 44 Tỉnh lỵ miền Nam với những ghi nhận đầu
tiên: Vùng 1 Chiến Thuật, bao gồm những Tỉnh cực Bắc của miền Nam,
từ sông Bến Hải, Quảng Trị đến Đèo Bình Đê, địa giới thiên nhiên
giữa Quảng Ngãi và Bình Định với trận Quảng Trị, 4 giờ đêm và mặt
trận Huế bắt đầu lúc 2 giờ sáng mồng 1 rạng mồng 2 Tết Mậu Thân
(30-31 tháng 1 năm 1968). Trận đánh được bảo mật tối đa với những
cán binh, bộ đội vũ trang, bằng giấy tờ giả mạo xâm nhập trước ngày,
giờ khởi sự vào các Thành Phố, Tỉnh lỵ, Thị Trấn, nơi đã có sẵn
những cán bộ nằm vùng cơ sở lo việc tiếp đón, tiếp tế. Đặc biệt quan
trọng là những đơn vị đặc công nội thành, thành phần cốt cán, mở đợt
công phá đầu tiên vào những mục tiêu, dẫn đường cho lực lượng võ
trang chính quy. Từ cuối năm 1967, Hà Nội cũng đã cho xâm nhập vào
miền Nam hơn 300 cán bộ gồm thành phần giáo sư, giảng sư đại học, kỹ
thuật gia điện ảnh, văn nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ chuẩn bị phụ trách
công tác trí vận. Nhóm chuyên viên nầy được phân đều cho các Tỉnh để
làm nồng cốt xây dựng mặt trận văn hóa-chính trị sau khi cuộc Tổng
công kích quân sự thành công. Trận đánh cũng hoàn toàn ‘’bất ngờ và
bảo mật’’ đối với những đơn vị, cá nhân thuộc lực lượng cộng sản
tham dự tác chiến. Đa số, nếu không nói là hầu hết, chỉ là những
thiếu niên nông thôn miền Nam hoặc những bộ đội nhỏ tuổi miền Bắc.
Những người trẻ tuổi gọi là ‘’bộ đội giải phóng’’ nầy trên đường xâm
nhập vào Thành Phố, Thị Trấn miền Nam đã được ‘’học tập’’ một điều
phấn khởi: ‘’Vào tiếp thu những Thành Phố miền Nam, nơi bọn Mỹ-Ngụy
đang dẫy chết và nhân dân đã nổi dậy cướp chính quyền dưới lãnh đạo
của cán bộ cơ sở đảng.
Huế, Thành Phố cổ hơn trăm năm, Kinh Đô của nước Việt thuở hưng
thịnh, đêm mồng một rạng mồng hai Tết Mậu Thân lặng chìm vũng tối.
Sự im lặng cô đặc đến nỗi tiếng pháo nổ mất hút giữa tầng khối dãy
tường đá tảng bất động vây quanh con sông thẫm màu với lớp dân cư
nhiều thế hệ sống đời dài không chút đổi thay. Nhưng, bất thình
lình, cảnh tượng bình lặng nầy bị xé rách bởi tiếng đạn súng cối,
hỏa tiễn rít ngang bầu trời nháng lửa soi bóng dáng chập chờn những
hình người mang lá ngụy trang lẫn lút nương theo màn đêm trên những
lối đi dưới tàng cây, lề đường kín cửa. Bộ đội cộng sản xâm nhập
tiến chiếm Thành Phố. Lực lượng cộng sản đánh Huế phối trí trận địa
theo kế hoạch:
- Đoàn 5 do Nguyễn Vạn chỉ huy gồm những đơn vị K4A, K4B, K10 và
tiểu đoàn 12 đặc công phối hợp với thành đội Huế từ vùng núi thượng
nguồn Sông Hương hành quân bôn tập tấn công những cơ sở chính quyền,
chiếm lĩnh vùng dân cư hữu nghị con sông, phía Nam Thành Phố.
- Đoàn 6 gồm có các tiểu đoàn K1, K2, K6 và 12 đặc công với bốn đại
đội cơ hữu 15, 16, 17, 18 tăng cường một đại đội súng phòng không,
toàn bộ lực lượng địa phương thuộc hai Quận Hương Trà, Phong Điền và
hai đại đội biệt động có nhiệm vụ tấn công từ hướng Bắc vào các mục
tiêu: Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh đóng tại Mang Cá, sân bay Tây
Lộc, Đại Nội Hoàng Thành Huế.
Hai lực lượng trên được chi viện thêm các tiểu đoàn 416, 418 thuộc
đoàn 9 xuất phát từ vùng núi thung lũng A Sao Tây-Nam Huế. Đơn vị
nầy trước chiến dịch mang danh hiệu Cù chính Lan, tên một thủ trưởng
đã chỉ huy đoàn nầy trong chiến dịch Hòa Bình Bắc Việt 1951. Vào
giai đoạn sau của chiến dịch, lực lượng cộng sản được đoàn 8 (hậu
thân của trung đoàn sông Lô) tăng cường, bôn tập về Huế từ mật khu
hướng Tây-Bắc.
Mũi tiến công chính do thủ trưởng đoàn 6 Nguyễn trọng Dần chỉ huy
đánh chiếm tất cả cơ sở quân sự trú đóng trong khu thành nội một
cách nhanh chóng, ngoại trừ sân bay Tây Lộc, các cơ sở trên đều bị
chiếm đóng dễ dàng bởi chỉ do các đơn vị chuyên môn, không tác chiến
phòng thủ. Đoàn nầy còn có nhiệm vụ lớn, ‘’bắt sống Tướng Trưởng’’
giải về Bắc.
Tổng số quân cộng sản tham chiến gồm khoảng 7500 người cộng với lực
lượng đặc công thành đội Huế. Cuối chiến dịch, phía cộng sản thiệt
hại 1042 người, trong số có một cán bộ cấp trung đoàn, 8 cán bộ tiểu
đoàn, 24 cán bộ đại đội và 72 trung đội trưởng.
Trong quá trình chiếm giữ Thành Phố Huế, phía cộng sản khoe đã bắt
theo 600 thanh niên tòng quân, chiếm kho bạc lấy 4 triệu (khoảng
400.000 đô la theo thời giá), giải thoát 1800 phạm nhân. Nhưng quan
trọng hơn hết là hình thành Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình, gồm có những thành phần: Chủ Tịch Lê văn Hảo, ủy viên bà Tuần
Chi, Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, huy động được một số lượng quần chúng
trong những ngày chiếm đóng. Nhưng, tất cả thành quả chính trị, vật
chất nầy hoàn toàn trở nên là điều vô nghĩa khi ta xét đến cuộc phản
công của phía Cộng Hòa, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và những
đau đớn tàn nhẫn mà lực lượng cộng sản đã thực hiện lên những đối
tượng mà họ luôn nại đến trong sự nghiệp ‘’giải phóng’’. Những người
dân bị thảm sát cực độ vô ích phí phạm.
Trận phản công Liên Quân Việt-Mỹ đã diễn ra rất mực hào hùng vì
chiến trường nầy đã có mặt từ trước những đơn vị ưu tú nhất của hai
Quân Lực: Sư Đoàn 1 Bộ binh Việt Nam Cộng Hòa với Đại Đội xung kích
trinh sát lừng lẫy Hắc Báo, Chiến Đoàn I Nhẩy Dù tăng phái gồm các
Tiểu Đoàn 2, 7, 9 dưới quyền của Trung Tá Lê Quang Lưỡng. Về phía Mỹ
có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến với Chi Đoàn thiết
vận xa cơ hữu. Chiến Đoàn Đặc Nhiệm X Ray do Tướng Foster Lahue, cựu
chiến binh của Thế Chiến II và Triều Tiên chỉ huy gồm ba Tiểu Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến. Ngoài ra phải kể đến hai lực lượng mạnh, hai Lữ
Đoàn 1 và 2 thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù 101 đóng tại Phú Bài và một Lữ
Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry) chiếm giữ vùng núi Tây-Nam Huế, ứng
chiến cho chiến trường Khe Sanh. Tất cả lực lượng quan trọng tinh
nhuệ nầy đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc theo diễn tiến
sau:
Đại Đội Hắc Báo, thành phần xung kích, Trinh Sát Sư Đoàn I Bộ Binh
(đơn vị Đại Đội Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có huy chương tuyên công
nhiều nhất từ hai chính phủ Việt-Mỹ, kể cả những đơn vị biệt lập của
Quân Lực Đồng Minh), có nhiệm vụ trấn giữ Khu Đại Nội, Điện Thái
Hòa, nơi thiết triều của các Vua Triều Nguyễn. Trước mặt Điện là sân
chầu lót đá tảng, tiếp Cửa Ngọ Môn, biểu tượng uy quyền không những
của Hoàng Tộc mà là quốc thể nước Nam. Kỳ Đài đối diện Cửa Ngọ Môn
về hướng Nam, nơi là cờ hồn thiêng sông núi hằng tung bay. Nhưng Đại
Úy Phan Gia Lâm với quân số thiếu hụt (do số lớn binh sĩ đã về nhà
ăn Tết) không thể nào chống cự nổi mũi tiến công một tiểu đoàn (một
trong ba nỗ lực chính, thuộc đoàn 6 bộ đội cộng sản) vào khu vực Đại
Nội. Sau năm giờ cầm cự, 5 giờ sáng ngày mồng 2, Đại Đội của Lâm
phải rút ra khỏi Khu Cấm Thành để cố thủ Kỳ Đài, nhưng cuối cùng,
lúc 8 giờ sáng, ổ kháng cự Kỳ Đài cũng đành lâm chịu thất thủ và lá
cờ ba màu vàng, xanh, đỏ được bộ đội cộng sản kéo lên trên nền trời
mù sương xứ Huế ngày mưa phùn.
Nhưng lần mất Sân Bay Tây Lộc, Đại Nội chỉ là những tai nạn ắt có
đầu tiên phải gánh chịu, phía Việt Nam Cộng Hòa lập tức phản công
với những đơn vị chưa hề thất bại. Tiểu Đoàn 2 Nhẩy Dù đơn vị từ lúc
mới thành lập 1965, do Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy đã đánh những
trận mở đầu ở Bà Điểm, ngoại ô Sài Gòn 1966, vùng Phi Quân Sự 1967,
để nên thành đơn vị được xuất sắc tuyên công chỉ sau ba năm thành
lập. Đêm mồng 1, từ Quận Quảng Điền, Đông Bắc Thị Xã Huế, đơn vị đã
hành quân cấp tốc chạy qua hàng cây số với tất cả với tất cả sức
nặng ba lô vũ khí trên lưng người lính. Nhưng lần chạy việt giã băng
đồng khó nhọc nầy không hoàn toàn bình an vì quân cộng sản đã phục
kích ngay trên đoàn đường độc đạo từ Quận lỵ đổ ra Quốc Lộ I ở An
Lỗ, trên cầu sông Bồ. Tiểu Đoàn Phó Nghi bị tử thương cùng một số
binh sĩ, nhưng Tiểu Đoàn cũng đã kịp đến cầu An Hòa, (cửa ngõ đường
lên phía Bắc, hướng Quảng Trị), hiệp đồng với đơn vị bạn, Tiểu Đoàn
7 Dù, đánh qua mục tiêu làng Đốc Sơ, chiếm giữ đầu cầu, cắt đường
tiếp vận về những căn cứ, mật khu cộng sản thuộc vùng Phong Điền, An
Lỗ, Cổ Bi, Hiền Sĩ. Những căn cứ địa vùng Tây-Bắc Thừa Thiên-Huế đã
nổi tiếng từ chiến tranh 1945-1954 là những an toàn khu bất khả xâm
phạm. Từ Cầu An Hòa vào đến Đồn Mang Cá, Bản Doanh Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn 1 Bộ Binh chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng hai Tiểu Đoàn Dù
2 và 7 phải mất một ngày sau mới vào tới được. Nơi nầy, Chuẩn Tướng
Ngô Quang Trưởng đang đích thân chỉ huy cuộc chống đỡ với nón sách,
áo giáp, súng cá nhân như một khinh binh. Hai đơn vị Dù đi hết đoàn
đường ngắn ngủi kia với hơn hai mươi bốn giờ tác chiến liên tục, với
kết quả số thương vong hao hụt hơn một nửa quân số cơ hữu. Điển
hình, Đại Đội 74 mất gần trọn Đại Đội với Đại Đội Trưởng Nguyễn Lô
bị thương nằm dưới hai lằn đạn, một ngày sau mới được kéo về như một
xác ma. Một xác chết gần nghĩa đen nhất vì Lô phải giả chết hơn hai
mươi bốn giờ qua, giữa những binh sĩ tử trận, trên nghĩa trang người
chết từ lâu cùng những người hấp hối mới hôm qua. Trưa mồng 4, Tiểu
Đoàn 9 Dù, đơn vị đã chạm địch từ đêm Giao Thừa ở mặt trận Quảng Trị
với trung đoàn 812 cộng sản Bắc Việt, tuy đã đánh bật được những đợt
tấn công của địch trong suốt hai ngày mồng 2 và mồng 3, bảo vệ được
vòng đai phòng thủ Thị Xã, nhưng đơn vị nầy cũng đã bị thiệt hại đến
trăm binh sĩ, cụ thể như với Đại Đội 94, đơn vị trấn giữ Khu Nhà Thờ
Tri Bưu (chịu hướng tấn công nặng nhất mặt trận Quảng Trị) đã mất
hẳn năng lực chiến đấu, bởi Đại Đội Trưởng Hổ, Lộc tử trận. Nhưng dù
với quân số thiếu hụt nầy, Tiểu Đoàn 9 chỉ sau một ngày đến Huế,
sáng mồng 5, đơn vị đã phải xuất quân chiếm lại Cửa Chánh Tây, đường
thông về phía những mật khu trong Trường Sơn. Trường Thành Huế, khối
đá, gạch, vuông vức mỗi chiều khoảng hơn hai cây số với những chồng
gạch được ghép chặt vào nhau bởi vôi trộn mật mía, cao năm thước,
trên có lối đi để binh lính tuần tra, xe ngựa di chuyển. Nhưng khối
đá tảng kiên cố nầy trong những ngày đầu Xuân hôm nay đã là những
chốn nguy nan khôn cùng với những tổ tam-tam (tổ chức theo ‘’tam
chế- 3 đơn vị một’’) bộ đội cộng sản. Mỗi tổ tam đều có đủ trung
liên, B-40 và AK cá nhân, nơi những ngã tư, điểm chốt chận đường đi
đến các Cửa Thành đồng được các tổ thượng, đại liên trấn giữ. Chúng
ta hãy nghe lại lời tường thuật đơn giản của một người lính trong
cuộc chiến ngày ấy ‘’Khi đến gần Cửa Chánh Tây, tôi thấy rất nhiều
địch đội nón cối, tay cầm xúng AK-47, B-40, đi qua đi lại trên bờ
thành. Chúng tôi chờ trời tối cho kinh binh lén leo lên, dùng lưỡi
lê đánh cận chiến, chiếm được một góc Thành làm đầu cầu cho Đại Đội
nhào lên bắn ào ạt, khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách nầy tuy
tổn thất nhiều, nhưng vì quân địch đã chiếm lợi thế bờ Thành cao hơn
5 thước, nếu không liều mạng xông vào hang cọp, thì không sao bắt
được cọp con. Sau hai ngày tác chiến, Tiểu Đoàn (9 Dù) mới chiếm
được Cửa Chánh Tây, bàn giao lại cho Sư Đoàn 1, trở ngược ra sau
đánh Cửa Đông Ba (Cửa Chính Đông của Thành Nội Huế). Tại đây, có một
cây thượng liên đặt trên Cửa Thành cao, rất kiên cố. Chúng tôi thử
xung phong nhiều lần mà không lên được. Trung Đội tôi lúc ấy còn 21
người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và Cửa Chánh Tây
vừa rồi nên rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát
khẩu thượng liên cả Trung Đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh
lên chiếm Cửa Thành. Thấy tên xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng,
hai chân bị khóa bằng giây xích.
Kiểm điểm lại Trung Đội chỉ còn mười người nguyên vẹn. Mười một mạng
người chết và bị thường để đổi lấy Cửa Thành nầy đây. Lính Nhẩy Dù
trả nợ máu cho Quê Hương miền Nam, lấy lại bình an cho đồng bào xứ
Huế. Gần 30 năm sau, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau
đớn khi đứng trên Cổng Thành đổ nát, ngày mùa Xuân năm xưa. Mùa Xuân
rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương’’. Hồi Ký
Trương Dưỡng Một Cánh Hoa Dù, 1997 CA, USA.
Khi Huế bị đánh, về phía Mỹ không có một lực lượng tác chiến nào
trong Thành Phố, ngoài Bộ Chỉ Huy MACV ở sát cạnh Tiểu Khu Thừa
Thiên. Mãi đến chiều ngày mồng 3 Tết (2.2.1968) mới có một Đại Đội
Thủy Quân Lục Chiến đầu tiên đến tăng cường giữ MACV. Liên tiếp
trong ba ngày 1, 2, 3 tháng Hai, lực lượng của Tiểu Đoàn 2/5 Thủy
Quân Lục Chiến như trên đã nói mới vào vùng hành quân với mục tiêu
là Khu Đại Học Huế và Bộ Chỉ Huy MACV. Thủy Quân Lục Chiến Mỹ có đại
bác ONTOS sáu nòng có khả năng công phá mục tiêu, công sự nặng. Họ
đánh mỗi ngày một mục tiêu, mỗi đường phố, đến tối rút về khu MACV,
thế nên, diễn tiến hành quân hóa nên trì chậm, không phát triển được
thảnh quả ưu thế hỏa lực và tính cơ động của đơn vị. Những ngày sau,
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiếp tục truy kích, chiếm đóng Khu Đường
Lê Lợi, ngang Viện Đại Học và trước mặt Nhà Ga. Khai triển thành
quả, lực lượng Mỹ đẩy lui địch ra khỏi khu vực Phú Cam, khiến địch
phải phân tán mỏng rút về phía Nam Giao. Hồi 16 giờ chiều ngày 10
tháng Hai, một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến trực thăng vận tăng viện
cho Tiểu Đoàn 2/5. Tuy thời thiết rất xấu, nhưng cuộc chuyển quân
cũng hoàn tất, trong cùng lúc một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khác
được đưa từ Phú Bài vào Huế bằng xe. Chính quyền và dân chúng đồng
lòng nô nức trước lần tăng viện mang lại phấn khởi nầy.
Giai đoạn quyết định giải tỏa mặt trận Thành Phố Huế được đánh dấu
bởi lần thay thế Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Chiến
Đoàn nầy được không vận từ Sài Gòn đến sân bay Phú Bài, từ đây di
chuyển đến cầu tàu hữu ngạn sông Hương, dùng thuyền đổ bộ lên Bến
Bao Vinh để tiếp xâm nhập vào Thành Nội Huế. Chiến Đoàn A gồm 3 Tiểu
Đoàn bộ chiến do Thiếu Tá Hoàng Thông chỉ huy. Sáng ngày 18 tháng
Hai, Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Thiếu Tá Phan Văn Thắng chỉ
huy, Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Phạm Văn Nhã Tiểu Đoàn Trưởng xuất phát
từ Thành Nội Huế, để từ đây mở rộng ra hướng Cầu Bạch Hổ. Trận chiến
ở Khu Vực Thủy Quân Lục Chiến được mô tả như sau dưới mắt nhìn của
Nguyễn Tú, Phóng Viên Niên Trưởng của làng báo Sài Gòn ba mươi năm
trước ‘’Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Úy Nguyễn
Xuân Tòng chỉ huy, anh chỉ cho tôi hướng tiến quân: Địch đang ở
trong cái chùa cách chúng ta 30 thước và cách trường học phía bên
trái 60 thước…’’ Bất ngờ tiếng nổ ầm cách chúng tôi khoảng mười
thước, ném tung đất bùn lên đám lính đang ngồi thấp chờ lệnh. Phía
cộng sản bắn hỏa tiễn vào đội hình của đoàn quân. Trung Úy Tòng gọi
máy về Bộ Chỉ huy để xin chiến xa tăng cường yểm trợ cuộc tiến quân.
Khoảng ba phú sau, ba chiếc tăng không biết từ đâu ùn ùn chạy đến.
Đại Bác chiến xa đồng khai hỏa, tiếp loạt đạn đại liên 50 ly chém
gẫy cây lá, lá rơi tơi tả. Đạn súng đã bắn ra mà tiếng dội còn vang
vọng trong sương mai lạnh lẽo. Trung Úy Tòng ra lệnh cho toán quân
Chuẩn Úy Nhựt tiến chiếm ngôi chùa. Nhựt dẫn đầu toán lính, vừa bắn
vừa chạy, tản rộng hai bên bọc lấy những bức tường của ngôi chùa,
sau đó tiếp tục đánh vào mục tiêu thứ hai, khu trường học, nơi những
địch quân vừa từ chùa chạy về cố thủ. Phản lực được gọi đến yểm trợ,
những trái bom rơi gần chỉ trong khoảng cách 100, 150 thước, những
mảnh gang văng tới tận khu chùa, đen sì, nóng bỏng như vừa được lấy
từ lò đúc. Qua máy truyền tin, tôi được biết có một toán Thủy Quân
Lục Chiến vừa thanh toán được một hầm cố thủ mà toán việt cộng trong
ấy khoảng 15 tên đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Tôi muốn chạy sang bên
ấy để chụp hình thì người lính bên cạnh đã ngăn cản: ‘’Không được,
ông chạy qua bên ấy dễ ăn kẹo vi xi lắm, đợi chúng tôi dọn sạch cái
nhà và ngôi trường, hơn nữa phải đào hầm lên mới chụp hình được
chứ’’. Tôi nghe hợp lý nên ngồi lại. Bỗng một tiếng la lớn: ‘’Chết
cha, Chuẩn Úy Nhựt chạy trước kìa… Đâu có lệnh cho lên ?!’’ Người
lính chưa kịp dứt lời thì tràng đạn ‘’tắc, tắc’’ nổ dòn…Một bóng
người ngã gục trên khoảng đất trống, cách chùa mười lăm thước…Có ai
đó đã lấy một tấm pông-sô phủ lên hình hài Chuẩn Úy Nhựt. Một người
lính nói với tôi ‘’Ông biết không, Chuẩn Úy Nhựt hăng lắm. Đại Đội 4
chúng tôi trong trận Cai Lậy lấy được nhiều súng nhất đến 95 khẩu đủ
loại’’. Vô tình người lính đã đọc một bài điếu văn giản dị, đơn sơ
mà bao giá trị bao ý nghĩa.
Gần chỗ cỏ xanh loang máu đỏ lẫn với bùn, nơi Chuẩn Úy Nhựt ngã
xuống cho lần giải phóng Thành Nội Huế, một chiếc nón sách nằm trơ,
ngửa lên bầu trời vẫn mây xám, mưa phùn, gió rét. Hai bên nón sắt có
giòng chữ và chữ ký ngang tàng, phóng túng: ‘’Sống bên em, chết bên
bạn’’ của người lính đã chết trong buổi đầu Xuân. Người lính còn rất
trẻ.
Mặt trận Thành Phố Huế chấm dứt với lần tham chiến của hai Tiểu Đoàn
21 và 39 Biệt Động Quân có nhiệm vụ tảo thanh Khu Gia Hội, vùng cư
dân nằm dọc theo Sông Đào và Sông Hương. Vùng nầy nhà cửa ít bị
thiệt hại nhưng đầy đặc những hầm xác người bị thảm sát do lần rút
đi trong thất bại của lực lượng cộng sản sau 26 ngày chiếm đóng. Bốn
giờ chiều ngày 24 tháng Hai năm 1968, hình ảnh bi tráng linh thiêng
của chiến tranh Việt Nam hiện thực: Người Huế, những người lính
chiến đấu ở Huế bật khóc khi Lá Cờ Vàng Ba Sọc lên cao trên Kỳ Đài
giữa mù sương và mưa bay. Và cũng như lần chào cờ đầu năm cách đó 26
ngày, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh toàn thể lực lượng giải
tỏa Thành Phố Huế suốt khoảng thời gian dài kia đã không hề nghỉ
ngơi, với trang bị nón sắt, áo giáp như một người lính ở đầu tuyến.
Ông đi tới vị trí phòng thủ của binh sĩ tiền trạm Lữ Đoàn I Dù (gồm
những lính yểm trợ, tiếp vận), cùng những đơn vị lính chuyên môn
(Quân Y, Quân Xa, Truyền Tin…) của Sư Đoàn 1 những ‘’đơn vị tác
chiến’’ đầu tiên mà ông vận dụng được để chống cự đợt tấn công cường
tập đầu tiên của binh đội đặc công E 6 do thủ trưởng Nguyễn trọng
Dần đích thân chỉ huy. Ông có mặt nơi Trung Tâm Hành Quân, theo dõi
các vụ ném bom, phản pháo, cố thủ những vị trí tái chiếm, điều quân
tăng viện. Ông đến đầu giường của thương binh vừa được chuyển về
Quân Y Viện, ông có mặt với những ca mổ nghiêm trọng, an ủi thân
nhân binh sĩ thiệt mạng. Ông đã là Tướng lãnh độc nhất của Quân Lực
Miền Nam sống trọn vẹn với chiến trường, với mỗi người lính, khi cần
có những quyết định khẩn cấp, hiệu quả kể từ ngày khởi đầu trận
đánh, để đến hôm nay trong buổi oanh liệt, chỉ huy lễ thượng kỳ.
Khuôn mặt khắc khổ chĩu nặng ưu tư của người chỉ huy chiến trường
lặng xuống trong khoảng khắc.
Quân và Dân đã một lần bật khóc
Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
Lừng lững lên cao
Giữa mù sương xứ Huế mùa Xuân nào…
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ BA
Mùa Hè 1972, tháng Ba, từ ngày Bắc quân khởi cuộc đại tấn công miền
Nam. Thêm một lần Quảng Trị, Thừa Thiên, hai vùng đất trước tiên
hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn. Và người dân lại thêm một
lần lập lại tình cảnh thương tâm, tay bế con, lưng cõng cha mẹ già
xuôi theo Đường Số I dưới che chở độc nhất hay mối hy vọng cuối cùng
Người Lính. Lính Cộng Hòa ơi, cứu bà con…lính cộng hòa ơi…!! Trên
đoạn đường máu La Vang, Hải Lăng, Mỹ Chánh dọc Đường Số I giữa Quảng
Trị và Huế không phải đôi ba người trong cùng tình thế riêng biệt
nào đó, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi lên như thế
một lần. Họ gọi với hơi thở cuối, mồm há hốc, mắt trợn đứng, khi máu
chảy, nằm xuống giãy dụa, tay lần chuỗi hạt, mắt nhắm nghiền, trên
đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi, nổ tàn ác…Đạn nổ
không bỏ sót một phần đất, không quên một thân người. Lính Cộng Hòa
ơi! Người dân rất nhiều lần kêu lên như thế. Nhưng hôm nay, tháng
5.1972 người Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhất định trở về, sống lại
cùng làng xưa, chốn cũ bởi: Ông Trưởng đã ra Huế! Ông Trưởng đã tới
ngoài Huế rồi bà con ơi! Người dân hăm hở, tin tưởng thúc dục nói
cùng nhau và những chuyến hàng Đà Nẵng-Huế bắt đầu trở lại với hành
khách chen chúc đầy ngập. Trên đoạn đường lây lất, ươn ướt thịt da
người phía Nam La Vang, lối ‘’về ngoài mền…’’ thấp thoáng từng toán
người gồng gánh chạy theo đoàn quân…Mền (mình) về Quảng Trị thôi bà
con ơi, ông Trưởng đã vô ở trung (trong) Mang Cá giư (như) kỳ Tết
Mậu Thân với mền rồi bà con nè…
Chiếc xe jeep mang cờ hiệu Tư Lệnh màu đỏ với ba ngôi sao trắng chạy
chậm dọc Đường Trần Hưng Đạo hướng Cầu Gia Hội. Vị Tướng Quân khẽ
liếc về hai bên, che dấu cảm xúc trong ánh mắt u uất, cố giữ vẻ bình
thảm, ông đưa tay lên vành nón sắt tỏ ý nhấc khẽ để đáp lễ những
người dân kính cẩn chào ông với cách nhìn hàm ân, trân quý. Chợ Đông
Ba ngầu đục váng vất những đường khói nhỏ bốc mùi khét và loang lỗ
vết nám đen trên lớp tường sơn vôi vàng nhạt, dấu vết của lần hỗn
loạn hai ngày trước, 30 tháng 4.1972 khi mặt trận Quảng Trị tan vỡ
và đám lính phẫn nộ tràn vào Thành Phố với những người dân đang nháo
nhác rùng rùng di tản. Quảng Trị mất. Mất chưng hửng tức tối. Biệt
Động Quân nương nhau dọc Quốc Lộ về Nam, Thủy Quân Lục Chiến co lại,
Tiểu Đoàn này đỡ Tiểu Đoàn kia rút gần xuống Mỹ Chánh về phần Sư
Đoàn 3 Bộ binh, không phải lỗi ở lính, cấp chỉ huy không gian, cũng
có thể không do Tướng Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn (chưa có thể kiểm chứng
rõ), đã rã ngũ một cách mau chóng, phi lý, dẫu ba Trung Đoàn bị
thiệt hại từ ngày cuối tháng 3 đầu tháng 4, nhưng vẫn còn đủ quân
số, vũ khí, phương tiện liên lạc, yểm trợ, bỗng nhiên như viên đá
nhỏ tan trong ly nước bốc khói, một đại đơn vị diện địa mất hẳn khả
năng chiến đấu trong bất ngờ kinh ngạc, xua đẩy dân và lính Tiểu Khu
Quảng Trị hỗn loạn đua nhau tháo chạy về Huế như cơn nước lũ từ
nguồn cao băng qua bờ đê cát nhỏ. Và tiếp theo, dưới cơn ép kinh
hoàng của Quảng Trị, Huế nổ bùng tan nát như ánh lửa điên loạn bốc
cháy Chợ Đông Ba chen tiếng súng của đám quân không người chỉ huy
gồm những thành phần lao công đào binh nhân cơ hội chạy trốn, đám
phạm nhân từ các trại dân sự, quân đội thoát ra và tất nhiên không
thiếu những tổ đặc công, cơ sở nằm vùng cộng sản lợi dụng tình thế
đồng khởi động phá hoại. Huế mau chóng lâm cơn hấp hối cũng bởi ảnh
hưởng, tác động kinh khiếp của Mậu Thân mà dấu vết vẫn còn rất mới.
Từ đêm Giao Thừa 1968 nối tiếp, mở rộng thấm sâu ấn tượng bi thảm
của lần thất thủ Kinh Đô 1885, mà nay vẫn hằng lưu trong tâm hồn
người Huế, với cảnh sắc u uẩn của hệ thống chùa, miếu, am luôn mờ
mịt những dấu hương cháy đỏ vào đêm đến hoặc những ngày rằm, mồng
một Âm Lịch, rải rác cạnh những con đường nhỏ hẹp, âm âm bóng cây
che kín. Giặc vào và hiện thực cảnh tượng nhà tan, cửa nát, người
chết hằng hằng lớp lớp. Gần một thế kỷ qua kể từ năm tháng bi thảm
kia, mối đau không hề giảm bớt, mà lại càng tăng thêm sắc độ khốn
cùng, thương tâm. Chỉ một điều khác biệt: Thực Dân Pháp năm 1885 khi
tiến đánh Kinh Đô Huế, không có được ‘’ý niệm chính trị tiến bộ của
kẻ ngụy danh cách mạng giải phóng’’ sau nầy, họ chưa biết cách thực
hiện, không hề có cơ tâm tàn nhẫn thực hiện kỹ thuật giết người rẻ
tiền và im lặng của quần lũ gọi là ‘’bộ đội nhân dân’’ chôn sống
những đồng bào, đồng loại mình, Huế hoảng hốt kinh hoàng do đã có
kinh nghiệm về thành tích tàn bạo của những toán bộ đội cộng sản và
đám người cuồng khấu địa phương mang huy hiệu lá cờ đỏ (hoặc chiếc
băng vải đỏ) sục sạo khắp cùng những căn nhà, ngõ ngách, đường hẻm
để tìm địch giết Ngụy. Thế nên người người hớt hãi xuôi Nam hướng Đà
Nẵng, rần rật chen chúc lên tất cả mọi phương tiện di chuyển. lại
một lần bỏ quê hương chạy giặc. Đấy là cảnh tượng của những ngày
cuối tháng 4 năm 1972. Nhưng, nay tình thế đã hoàn toàn khác hẳn.
Bởi, Quân Lệnh Thứ Nhất của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, Vùng 1
Chiến Thuật loan báo khẳng định:
Tất cả Quân Nhân các cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong lãnh thổ
Khu 11 Vùng 1 Chiến Thuật (kể cả thành phần tăng phái, thuộc dụng
hành quân), quân phạm, lao công đào binh phải trở về trình diện đơn
vị, hoặc tại địa điểm quân sự gần nhất trong vòng 24 giờ kể từ
‘’Không Giờ’’ ngày 2 tháng 5.1972.
Các trường hợp vắng mặt bất hợp pháp tại đơn vị coi như đào ngũ
trong thời chiến, khi đối diện địch quân, sẽ bị truy tố ra trước tòa
án quân sự mặt trận với trường hợp khẩn cấp.
Tất cả hành vi cướp giật phá hoại, khủng bố sẽ bị trừng phạt, xử bắn
tại chỗ do các đơn vị Quân Cảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa toàn
quyền áp dụng, thi hành.
Huế hồi sinh từ những những giòng Quân Lệnh mạnh mẽ và sự hiện diện
uy nghiêm của vị Tướng Quân Tư Lệnh. Và người Huế, Quảng Trị trở về.
PHẢN CÔNG
Để mở đầu cho ngày 28 tháng 6, khai diễn chiến dịch giải tỏa toàn
thể Quảng Trị, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã chuẩn bị, thực hiện
những điều kỳ lạ kể từ ngày nhậm chức Tư Lệnh ngày 1 tháng 5, chỉ
hơn một tháng trước. Những điều kỳ lạ nầy không do phía người Việt
chủ quan tự định đặt, nhưng hiện thực trong báo cáo của Tướng Fred
Kroesen, Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn I với Đại Tướng Abrams: ‘’Ông ta đã
làm cho Ban Tham Mưu hoạt động chưa từng có ở Quân Đoàn I. Tướng
Trưởng đã đẩy bộ máy kia chạy với một cách thế khẩn cấp không bao
giờ thấy từ trước đến nay (13). Và Tướng Abrams đã không lầm đối
tượng khi trao trực tiếp đến những người bạn vũ khí tối hảo mà ông
vừa nhận được: Hai mươi dàn phóng hỏa tiễn chống tăng TOW được gởi
ngay đến mặt trận Vùng 1 cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến và Sư Đoàn Dù với lời bảo chứng của riêng Tướng Ngô Quang
Trưởng (14). Những vũ khí mới mẻ, công hiệu, chiến thuật linh động
sáng tạo phối hợp nhau nên thành một thế trận liên hoàn dưới tấm
thảm lửa yểm trợ của phi cơ chiến lược B-52 từ Guam, giàn hải pháo,
phi cơ của Hải Quân Mỹ từ Hạm Đội 7, phi cơ Mỹ, Việt từ Đà Nẵng, Chu
Lai đã kết nên sức tổng lực của Lôi Phong mà những sư đoàn 304, 308,
324B và 325 tổng trừ bị của miền Bắc đã phải chôn vùi phiên hiệu lẫn
khả năng chiến đấu. Sau đây là những trận đánh khai cuộc điển hình
trước buổi oanh liệt quyết định với mục tiêu Cổ Thành Đinh Công
Tráng nơi Thị Xã Quảng Trị.
Sau cuộc lui binh oan nghiệt, hỗn loạn, rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị,
căn cứ Ái Tử và những vị trí quan yếu Bắc Sông Thạch Hãn, kể từ ngày
1 tháng 5, phòng tuyến cực Bắc của miền Nam dừng lại ở Sông Mỹ
Chánh. Con sông rộng không quá một trăm thước chiều ngang kia thật
sự không thể là tuyến phòng thủ thiên nhiên hữu hiệu, hơn thế nữa,
đường tiếp cận trong Trường Sơn, qua ngã thung lũng A Sao, A Lưới để
về Huế đã hoàn toàn thuận lợi khi các binh đoàn cộng sản chiếm được
những căn cứ hỏa lực các binh đoàn cộng sản chiếm được những căn cứ
hỏa lực Bastogne, Checkmate, cửa vào Thành Phố Huế từ ngõ Tây-Nam.
Nếu lực lượng cộng sản tiếp tục lấn chiếm được đoạn phía Nam Huế
(đường đi Đà Nẵng), và cắt Đường Số I ở khoảng An Lỗ, theo chiều
ngang của Sông Bồ thì Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến nơi phòng tuyến
Mỹ Chánh nầy đã nằm gọn trong một chiếc túi bị thắt chặt cả hai đầu
Nam lẫn Bắc, không cần bị tấn công cũng sẽ phải rút đi, mà chắc gì
thoát được về Đà Nẵng (Chiến trận tháng 3.1975 sau nầy là minh chứng
cụ thể của ý niệm vừa trình bày). Đoạn Mỹ Chánh-Huế chỉ khoảng 50
cây số, và sau Huế là Đà Nẵng với hơn 100 cây số còn lại. Chiến dịch
tấn công miền Nam của bộ tổng quân ủy miền Bắc với tên hiệu Nguyễn
Huệ ắt sẽ trở thành hiện thực với cuộc ‘’Nam tiến ngụy danh giải
phóng’’ nếu như phòng tuyến Mỹ Chánh vỡ từ đầu những ngày tháng
5.1972. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến của Đại Tá Bùi Thế Lân (Đại Tá Lân thay Trung Tướng Lê Nguyên
Khang giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn cùng ngày 1 tháng 5) với những Lữ
Đoàn 147 và 258 Thủy Quân Lục Chiến dẫu bị tổn thất nặng trong suốt
trận chiến kể từ tháng 3 nơi những căn cứ hỏa lực Holcomb, Sarge,
Núi Bá Hổ, Mai Lộc Nam Sông Bến Hải, đã không để mưu định kia nên
hiện thực. Hơn thế nữa, đơn vị trấn đóng tuyến Mỹ Chánh trên Quốc Lộ
I, điểm tấn công chính của Bắc quân nếu muốn mở đường về Huế kia lại
là Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến ‘’Trâu Điên’’ của Trung Tá Nguyễn
Xuân Phúc, Tiểu Đoàn thượng thặng của Binh Chủng, cũng là đơn vị
lừng lẫy nhất của Quân Lực Cộng Hòa. Thế nên, bộ binh miền Bắc không
thể nào vượt qua được bảy mươi thước sông bề ngang mong manh này.
Chắc chắn không thể được. ‘’Một thằng ‘cháu của bác’ nào qua đây,
tôi sẽ ‘biệt phái’ nó đi gặp bác nó ngay’’. Trung Tá Phúc, ‘’Robert
Lửa’’ đã nói như thế với những phóng viên báo chí tại Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn ở Đồi Đức Mẹ cạnh Sông Mỹ Chánh trong buổi họp báo bỏ túi
ngày 1 tháng 5. Chung quanh xác chết những đặc công cộng sản (đơn vị
đánh thăm dò, mở đường qua cầu, hướng về Huế) nằm rải rác đến cây
cầu vừa bị giật sập còn bốc khói. Từ phòng tuyến mong manh này, với
lòng tin cậy đối với những đơn vị tăng phái hành quân. Trung Tướng
Trưởng trả lại quyền điều động đơn vị cho Đại Tá Lân trong khu vực
trách nhiệm. Lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, Sư Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến được sử dụng hết sức mạnh tổng hợp đúng kích thước của một
Sư Đoàn. Biết như thế để hiểu tại sao đã có những thiệt hại oan
uổng, vô lý ở trận Bình Giả, vùng rừng miền Đông Bộ tháng 12.1964
(15) với Lam Sơn 719, cũng nơi đất Trị-Thiên nầy. Đấy là do khi các
Tiểu Đoàn bị xé lẻ và nguy hại hơn nữa nếu các Đại Đội tác chiến
phải phơi thân đơn độc nơi những căn cứ hỏa lực, dưới cơn mưa lũ của
đạn pháo cộng sản qua những ngày dài chịu đựng, để đến một kết thúc
không tránh khỏi khi các đơn vị ấy cạn đạn dược, không được tải
thương, tiếp tế, không phi pháo yểm trợ. Trận đánh nơi những cao
điểm ‘’C-Charlie’’ ở chiến trường Tây Nguyên, Kontum với Tiểu Đoàn
11 Dù trong những ngày giữa tháng 4 vừa qua là một đau thương còn
quá mới. Nay, người lính giành lại thế chiến đấu và tất nhiên họ
phải chiến thắng. Nói lại thêm một lần cũng chưa đủ. Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng đã trả lại cho người lính ở mặt trận Trị-Thiên sức
chiến đấu thần kỳ của họ.
Từ phòng tuyến Mỹ Chánh, một đơn vị Viễn Thám Thủy Quân Lục Chiến
ban đêm men theo bóng tối vượt qua sông chiếm cứ một đầu cầu để ngày
mai, 12 tháng 5 cuộc hành quân Sóng Thần 5.1972 khai diễn có vị trí
đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Với đoàn trực thăng cơ hữu CH-53 của Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ từ Quân Vận Hạm Okinawa bay vào, hai Tiểu Đoàn 3
và 8 Thủy Quân Lục Chiến trực thăng vận đột kích chớp nhoáng xuống
bờ biển phía Tây Quận Hải Lăng, Nam Quảng Trị khoảng 10 cây số. 9
giờ sáng, cuộc đổ bộ hoàn tất 1200 chiến sĩ Cọp Biển tràn lên trận
địa, dạng hình những chiếc áo rằn màu xanh xô tới như sóng biển.
Quân tiến như qua chỗ không người, đám bộ đội trở tay không kịp bởi
phía chỉ huy Bắc quân chỉ đề phòng cuộc tấn công từ mạn Nam lên, nơi
phòng tuyến Mỹ Chánh. Nhưng thật cũng có một cánh quân tiến lên từ
phía Nam. Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến vượt sông ghìm chặt trung
đoàn 66 Bắc Việt cả hai mặt Bắc-Nam. Đơn vị cộng sản phân tán mỏng
rút lui để lại 240 xác chết đếm được. Chúng ta nêu lại yếu tố kỹ
thuật trận liệt đã một lần bàn đến, quân số thiệt hại ắt hẳn phải
gấp ba lần xác chết để lại trên chiến địa kia. Ba Tiểu Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến tổn thất nhẹ, rút về lại phòng tuyến Mỹ Chánh trong
buổi chiều cùng ngày, để lại một trực thăng CH-53 trúng đạn đã được
phá hủy tại chỗ. Phía Tư Tưởng mặt trận B2 (của Bắc quân) kể từ khi
khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ Tổng tấn công miền Nam bị khựng lại
với câu hỏi: Phía quân Nam sẽ đánh vào đâu ? Như thế nào ? Chiến
dịch Nguyễn Huệ sau nầy được giới nghiên cứu quân sự thế giới đánh
giá là cuộc tổng tấn công lớn thứ hai của khối cộng sản kể từ lần
xâm lăng Nam Hàn năm 1950 ở bán đảo Triều Tiên với 300.000 ngàn chí
nguyện quân Trung Cộng (16). Điểm khác biệt là vào thời điểm ấy,
Danh Tướng Mac Arthur có dưới tay 365.000 quân (Mỹ và Liên Hiệp
Quốc), được cả thế giới yểm trợ và tâm lý quần chúng, Quốc Hội Mỹ
phấn khởi, tự tin sau thắng lợi Thế Chiến Thứ Hai đồng thuận (kể cả
thái độ giám tiếp của Liên Sô) để chính phủ Mỹ áp dụng những biện
pháp quân sự mạnh mẽ, mà cũng đã phải rút lui về bán đảo Pusan trong
giai đoạn đầu cuộc chiến. Này, trận chiến mùa Hè 1972 hoàn toàn
không có Bộ Binh Mỹ tham dự và Không Quân Mỹ thực hiện lần cứu viện
cuối cùng cho Đồng Minh trước khi bị Tu Chính Án Frank Church kìm
giữ hẳn (17). Trong ‘’Vietnam A History’’, với tính vô liêm sỉ tàn
nhẫn cao độ, Stanley Karnow trình bày chuyện kể về Việt Nam hoàn
toàn cố ý nhảy qua đoạn chiến sử năm 1972 này. Y ta chỉ khai tác đề
tài Mậu Thân Huế, 1968 với yếu tố ‘’Phía Việt Nam Cộng Hòa cho người
lẻn vào ‘’khu giải phóng khu vực do phía cộng sản tạm chiếm’’ giết
những người ‘’tình nghi đã cộng tác với bộ đội cộng sản’’, xong ném
vào chung hố với những nạn nhân do cộng sản chôn sống để vu oan là
‘’cộng sản giết người!!’’ (18). Y chứng minh điều trung thực của câu
chuyện qua trích dẫn bài hát Trịnh Công Sơn: ‘’Chiều đi qua Bãi Dâu,
vỗ tay trên những xác người’’ Đoạn viết nầy hàm ý ‘’những xác người
nầy do phía Việt Nam Cộng Hòa sát hại rồi đổ tội cho việt cộng’’. Và
‘’nếu như có thật’’ một số người bị chết bởi tay bộ đội cộng sản,
thì cũng chỉ là do ‘’việt cộng từ du kích cộng sản miền Nam’’ trả
thù những kẻ ‘’có nợ máu đối với nhân dân’’, chứ bộ đội miền Bắc
hoàn toàn vô can trong vụ Tổng công kích và thảm sát người ở Huế.
Sau 1975, tạp chí Nationnal Geographic có đăng bài viết của Trần Văn
Đỉnh, vốn là nhân viên ngoại giao cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa, qua
phỏng vấn của người nầy, viên bí thư thành ủy Huế đặc trách ngoại
vụ, Nguyễn văn Diêu (kẻ tên Nguyễn văn Diêu nầy là ai ?) có ý kiến
về cuộc thảm sát năm 1968 như sau: ‘’Lê Minh, viên chỉ huy quân sự
mặt trận Huế trong thời đoạn ấy đã xác nhận: ‘’bộ đội của anh ta có
phạm tội ác’’. Nhưng lời thú tội được biện hộ ngay liền: ‘’Lê Minh
viết tiếp: Bởi chúng tôi không kiểm soát được những ‘hành vi tán ác
của cá nhân binh sĩ’. Nhưng dẫu sao là người chỉ huy, bao gồm cá
nhân tôi phải chịu trách nhiệm’’. (18 bis) Quý hóa quá, cũng có lúc
cán bộ cộng sản thú tội giết người! Nhưng tên Lê Minh là tên thật
hay giả của một anh cán bộ loại tép riu nào ? Hắn ta là ai ? Một tội
ác lớn chôn sống hàng ngàn người theo một kế hoạch hiểm độc tinh vi
thoắt được giải thích và giải quyết bởi lời thú tội từ một tên tuổi
bá vơ nào đấy được gọi là Lê Minh ?! Nhưng anh ta cũng không hẳn
phạm tội vì đấy chỉ là ‘’tội ác cá nhân’’ của những tên bộ đội vô
danh nào đó mà thôi! Hằng năm cho đến những năm đầu Thế Kỷ 21 nấy,
đảng cộng sản vẫn ra chỉ thị làm lễ kỷ niệm chiến thắng Mậu Thân. Lẽ
tất nhiên, buổi lễ có kể lại ‘’chiến công vĩ đại’’ Tết 1968 ở Huế.
Vậy ‘’thành tích chiến thắng đánh Mỹ, diệt Ngụy’’ được kể ra kia với
‘’hành vi tàn ác cá nhân của một tên bộ đội’’ dưới quyền Lê Minh có
khác gì nhau ? Nhưng Tường, dạy học ở Huế, một trong những kẻ gọi là
‘’văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước cách mạng, bạn chiến đấu của nhạc
sĩ Sơn’’, trong tập băng truyền hình ‘’Vietnam A History’’ thẳng
thừng trả lời ‘’Chúng tôi giết chúng như giết loài rắn độc’’. Cộng
sản Hà Nội đến cỡ của Tố Hữu cũng không thể trân tráo, ngang ngược
xuẫn động hơn những con người với những sự việc vừa nêu trên. Chúng
ta tạm rời bỏ những xảo trá đê tiện chính trị để trở lại chiến
trường với những người lính của quê hương. Không để cho phía cộng
sản có được thời gian chuẩn bị cuộc phản công. Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng chỉ thị đến hai Tư Lệnh Chiến Trường. Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Đại Tá Bùi Thế Lân. Tư Lệnh Thủy
Quân Lục Chiến phải thanh toán hai gọng kềm Tây-Nam và Đông-Bắc Huế
trước lần tổng phản công lên mặt Bắc. Mặt trận Tây-Nam được thực
hiện theo diễn tiến như sau: 9 giờ 15 ngày 14 tháng 5.1972 tại Bộ
Chỉ Huy Trung Đoàn 1 Bộ Binh, Tướng Phú nhận được báo cáo mới nhất
của cánh quân Trung Đoàn 3, đơn vị đánh chiếm lại căn cứ Bastogne
(bị mất từ tháng 3) từ mạn Bắc. Bastogne là tên do các đơn vị Mỹ đặt
để nhắc lại trận đánh lừng lẫy của Sư Đoàn Nhẩy Dù 82 trong Thế
Chiến Thứ Hai do Tướng Maxwell Taylor chỉ huy, nay Sư Đoàn I đặt lại
với một danh tự đầy cảm xúc Thuận Hóa tên cũ của Thừa Thiên-Huế từ
ngày Chúa Nguyễn vào Nam mở nước, Thế Kỷ 17. Người Quảng Trị, Thừa
Thiên dựng nước và mở nước từ đất Ái Tử, Thuận Hóa, nên người lính
Sư Đoàn I phải trở lại Thuận Hóa vì ở đấy không chỉ là một mục tiêu
quân sự, nhưng là biểu tượng sức chiến đấu của đơn vị, tấc lòng dân,
quân tha thiết với phần đất cha ông. Trận đánh từ sáng sớm đến xề
chiều vẫn chưa có kết quả quyết định dù phía Trung Đoàn 3 đã báo
cáo: ‘’Chúng tôi vượt qua hàng trăm xác của địch nhưng bởi hệ thống
chốt của chúng (Đào theo hình chữ A) quá dày đặc nên không thể nào
thanh toán mau chóng được. Thành phần bộ đội giữ chốt lại bị xích
chân vào súng, nên chúng không thể chạy trốn, quân ta phải thanh
toán từng chốt một cho đến gã lính cuối cùng bị tiêu diệt, và vì thế
cuộc tiến quân phải trì chậm lại. ‘’Báo cáo chính xác cuối ngày dừng
lại với con số 346 địch chết tại chỗ và 100 súng đủ loại bị tịch
thu, phần đông là thượng liên và đại liên phòng không, những chốt
lớn còn có súng cối do một tiểu đội (10 người) trách nhiệm cố thủ.
Trên đỉnh ‘’T-Bone’’, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Tướng Phú nói
cùng với phái đoàn báo chí và phóng viên điện ảnh từ Sài Gòn đến:
‘’Nội trong đêm này, Sư Đoàn I sẽ trở lại Bastogne. Trở lại Bastogne
để chứng tỏ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thừa sức để tái chiếm bất cứ
vùng đất nào mà trước đây tạm bỏ’’.
Nhưng dự định của Tướng Phú và quyết tâm của người lính Sư Đoàn I
không thực hiện đúng hẹn được, bởi hai tiểu đoàn K5 và K9 cộng sản
quyết liệt chận đứng cánh quân Trung Đoàn 3, chủ yếu là tại đỉnh 100
(cách Bastogne 800 thước), đơn vị chốt tại đây tử chiến tuyệt vọng,
không khoan nhượng. Nửa đêm, rạng 14 qua 15, Tướng Phú vào máy
truyền tin dã chiến nói chuyện trực tiếp với người chỉ huy Trung
Đoàn 3: ‘’Chỉ trong đêm nay, hay ngày mai, chứ không thể là 22 hay
29 tháng 5, mấy đứa con đầu của anh (các đơn vị tấn công tiến
phương) có vào được hay không ? Đừng nói lòng vòng…Các anh đừng làm
hổ danh Sư Đoàn I’’ (19) Sáng sớm ngày 15, Tướng Phú sau lần tiếp
xúc mật với Tướng Trưởng, có ngay quyết định táo bạo: ‘’Dùng một đơn
vị Trinh Sát nhảy xuống Bastogne xong từ trong trong đánh ra ngoài,
liên kết với lực lượng của Trung Đoàn 3 từ ngoài tấn công dứt
điểm’’.
Cuộc trực thăng vận dự trù lúc 10 giờ, đợi cho trời bớt sương mù
theo yêu cầu an phi…10 giờ, 11 giờ, 12 giờ…từng giờ một phải được
kéo lùi vì khu trục không nhìn thấy mục tiêu để đánh dọn bãi cho
quân bạn. 13 giờ 30 Giờ G của chiến dịch đột kích bắt đầu. 18 pháo
đội 105 ly và 155 ly đồng tập trung hỏa lực trút xuống Bastogne vũng
lưới lửa. Mỗi pháo đội có 6 khẩu súng, tức 108 nòng đại pháo cùng
lần tác xạ, mỗi pháo đội nhận được lệnh ‘’pháo đội 10 tràng’’, có
nghĩa số lượng đạn bắn đi nhân lên 10 lần số súng kia. Pháo Binh
chấm dứt để khu trục vào vùng. Đoàn khu trục của Phi Đoàn 518 từ
Biên Hòa ra tăng phái mặt trận giới tuyến từ đầu tháng 4, những
chiếc phi cơ AD-6 thật ra đã thuộc loại ‘’bỏ đi’’ của Không Quân lẫn
Hải Quân Mỹ chỉ dùng để huấn luyện, vì quá giờ bay sau Đệ Nhị Thế
Chiến 1945, nhưng khi vào tay Phi Công Việt Nam với những ‘’người
sinh ra để bay Skyraider’’ loại khu trục cánh quạt có khả năng mang
số bom nặng hơn trọng lượng của nó như Nguyễn Văn Cừ, Phạm Phú Quốc
(thế hệ đàn anh) hoặc Trần Thế Vinh, Phạm Văn Thặng, Nguyễn Du,
Nguyễn Văn Phong…hôm nay, chúng trở thành một vũ khí tấn công, yểm
trợ tiếp cận cho bộ binh tuyệt hảo. Chỉ từ một tuần từ 2 đến 9 tháng
Tư, Trần Thế Vinh đã hạ 21 chiến xa với những trái bom đặt dưới cánh
phi cơ của anh. Sáng ngày 15 nầy cũng thế, những trái bom rơi từ phi
cơ AD-6 của Phi Đoàn 518 như đặt vào những trái bóng nhỏ vào những
chiếc lỗ khít khao, bật tung toàn bộ hệ thống cố thủ của các chốt
chung quanh và Trung Tâm Bastogne. Sau đợt dội bom cường tập, Trung
Đội Trinh Sát của Thiếu Úy Hiệp nhẩy xuống mục tiêu khi còn nguyên
mùi bom, lửa cháy trên đất đá. 9 giờ sáng ngày 16 tháng, đại quân Sư
Đoàn I chiếm lính tất cả các cao độ quanh Bastogne. Từ trên cao nhìn
xuống, lá Cờ Vàng của Thuận Hóa, Bastogne đổ nát sáng rực giữa chập
chùng màu xanh của rừng với hơi khói đạn chưa tan.
Sau thất trận thê thảm ở cửa ngõ vào Tây-Nam Huế, nơi thung lũng A
Sao, sư đoàn 324B phải rút về Lào để tái bổ sung, biến mất khỏi
chiến trường Trị-Thiên. Nhưng thất bại quân sự của phía cộng sản
không chỉ dừng lại với sư đoàn 324B mà còn kéo dài, mở rộng hơn với
ảnh hưởng sâu xa đối với toàn thể mặt trận phía Bắc nói riêng và
sách lược của cuộc tổng công kích mùa Xuân 1972 trong tầm cỡ rộng
lớn tổng quát. Chúng ta hãy theo dõi tiếp sức mạnh vô địch của Lôi
Phong.
Do một tính toán sai lầm tai hại (sau này giới nghiên cứu chiến
lược, quân sử Mỹ, Việt, kể cả phía cộng sản đồng xác nhận đấy là sai
lầm của chính Võ nguyên Giáp) (20), Bắc quân mở trận đánh phục thù
vào ngày 21 tháng 5 bằng đội hình mở rộng trên trận địa với chiến xa
và bộ binh tùng thiết theo chiến thuật cổ điển của chiến tranh quy
ước ở một vùng chiến trường mà họ đánh giá là có ưu thế. Trên vùng
lau sậy bạt ngàn dọc Phá Tam Giang song song với bờ biển, bộ binh và
chiến xa cộng sản dàn đội hình theo trục lộ 555 (con đường nối Quận
Hải Lăng cực Nam Quảng Trị về Quận Phong Điền, Bắc Thừa Thiên) Kiểm
soát được tuyến đường tức là nối được trục tiếp vận Bắc-Nam của vùng
đồng bằng thuộc hai Tỉnh địa đầu mà không cần phải phụ thuộc vào
Quốc Lộ I, hiện tại không thể vượt qua được chốt Cầu Mỹ Chánh (do
Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ, phần trên vừa trình bày).
Lực lượng cộng sản thoạt tiên được tấn công các Đồn Địa Phương Quân
và Nghĩa Quân, thành phần nầy được lệnh rút bỏ vị trí, lui về phòng
tuyến của Thủy Quân Lục Chiến. Nương theo đà thắng lợi ban đầu, Bắc
quân thọc sâu về phía Nam định bao vây, bọc hậu hai Tiểu Đoàn 3 và 9
Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng hai đơn vị nầy đã áp dụng một kế sách
tuyệt diệu: Bỏ trống trận địa không cho địch ưu thế chọn lựa chiến
trường, để dành lại tư thế, khả năng thủ thắng cuộc giao tranh theo
kế hoạch hành quân của mình, bằng cách lui binh sâu về phía Nam 5
cây số lập phòng tuyến mới. Khi binh đội cộng sản tiến vào khu vực
bỏ trống (của hai Tiểu Đoàn 3 và 9 Thủy Quân Lục Chiến vừa rút khỏi)
thì cơn mưa lũ lửa, sắt, thép của hàng trăm phi cơ Việt-Mỹ cùng đổ
xuống (nơi những vị trí đã sẵn yếu tố tọa độ tác xạ, dội bom). Nhưng
nhất quyết không chịu rời bỏ mục tiêu đã dự trù chiếm lĩnh, sáng sớm
ngày 22, lực lượng cộng sản tập trung hai mươi chiến xa còn lại mở
đợt tấn công lần hai vào vị trí Tiểu Đoàn 3 và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn
369, nhưng cố gắng này hoàn toàn phá sản, bởi những giàn phóng hỏa
tiễn TOW do Thủy Quân Lục Chiến sử dụng đã khai triển, vận động hết
hỏa lực đáng sợ của nó, bắn hạ 10 chiến xa T-54 ngay trong đợt phản
công đầu tiên, có chiếc bị cháy chỉ cách hầm chỉ huy Lữ Đoàn khoảng
400 thước. Thế trận Bắc quân hoàn toàn tan vỡ, thiệt hại 542 xác đếm
được mà theo ước tính phải thêm một trung đoàn nữa bị loại ra khỏi
vòng chiến. Như cơn điên mê của loài thiêu thân tuyệt vọng, Tư lệnh
mặt trận B2 cộng sản lại chuyển mũi dùi tấn công sang phía Tây, vùng
trách nhiệm của Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến và Liên Đoàn I Biệt
Động Quân. Cách đánh thí quân nầy không gây thâu đạt một kết quả nhỏ
nào mà còn để lại hơn hai trăm xác nằm chật trên những bờ bãi lau
lách màu đỏ thẫm. Màu đỏ vốn có do từ nước cặn phèn nay thêm sẫm màu
bởi máu đọng vũng. Không để cho địch quân có thì giờ dưỡng thương,
Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến sử dụng Lữ Đoàn còn lại đánh dập toàn
bộ những mũi tấn công của binh đoàn cộng sản cố lấn sâu xuống phía
Nam Sông Mỹ Chánh. Kế hoạch tấn công dứt điểm được hình thành với
cuộc hành quân Sóng Thần 1972 để đưa Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến
vào trận.
Có thể nói rằng, đây là một cuộc hành quân Thủy-Bộ được tổ chức cao
nhất từ trước đến nay của chiến tranh Việt Nam do phối hợp nhịp
nhàng, vận dụng hết khả năng cơ động của Binh Chủng Thủy Quân Lục
Chiến Việt Nam, kỹ thuật khoa học quân sự hiện đại tinh vi của Quân
Đội Mỹ, cùng sức mạnh ghê hồn của hỏa lực phi pháo. Ngày 23 tháng 5,
Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến kín đáo rời phòng tuyến bố quân để
ra bến tàu Tân Mỹ, năm cây số Đông-Bắc Thị Xã Huế, Tiểu Đoàn xuống
tàu nhỏ ra Hạm Đội 7 đậu ngoài khơi, chờ giờ vượt tuyến tấn công mà
đến lúc nầy cấp chỉ huy mới phổ biến cho binh sĩ biết. Cần mở một
giải thích quan trọng về địa thế của chiến trường được chọn. Từ lúc
chiến tranh Đông Dương Thứ I (1945-1854), vùng đất thuộc eo biển
miền Trung dọc Phá Tam Giang, nằm giữa Quốc Lộ I và bờ biển nầy là
một vùng cấm kỵ của lực lượng quân đoàn viễn chinh Pháp, bởi địa thế
quá hẹp, trống trải, nhưng là vùng sình lầy không thuận tiện đối với
việc điều động cơ giới, bộ binh di chuyển khó khăn, lại không có
chướng ngại thiên nhiên để che dấu khi tiếp cận mục tiêu hoặc ẩn
tránh nếu xảy ra trận đánh. Tháng 7.1953 Tướng Navarre (thay thế
Tướng De Latter giữ chức Tư Lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương từ tháng
Năm 1953) vừa cầm quyền được hai tháng, đã mở cuộc hành quân
Camargue với một lực lượng Thủy-Bộ đến 30 tiểu đoàn cốt để đánh bật
trung đoàn 95 cộng sản ra khỏi vùng, giải tỏa áp lực địch mạn Bắc
Huế, vẫn là một địa danh có giá trị tinh thần, tác động chính trị
đối với tâm lý người Việt những người vẫn còn lòng ngưỡng vọng một
ông Vua với danh hiệu Quốc Trưởng, với những danh xưng, nghi lễ
‘’hoàng thượng, bệ hạ’’. Nhưng dù khoa trương rầm rộ, cuộc hành quân
phải chấm dứt vài ngày sau vì số thương vong do mìn bẫy quá cao, và
không có một đụng độ đích đáng như dự trù. Và dù trận liệt đã báo
cáo bắt được 387 tù binh, 182 địch bị hạ, nhưng trung đoàn 95 kia
vẫn hoạt động, và tiếp tục chiến đấu ở thời gian sau. Từ đấy, binh
đoàn viễn chinh Pháp gọi địa danh đáng sợ này với một tên hiệu thê
thảm ‘’Dãy Phố Buồn Thiu’’, và Học Giả người Pháp Bernard Fall đã
dùng làm tiêu đề cho một Biên Khảo của ông về chiến tranh Đông Dương
Lần Nhất (1945-1954). Thế nên, địa danh trở nên quen thuộc với giới
nghiên cứu quân sự và người viết nên cuốn sách kia cũng đã thiệt
mạng do mìn bẫy khi theo Quân Đội Mỹ hành quân trên vùng đất nầy vào
năm 1967. Nhưng nay, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến phá tan huyền
thoại âm u kia lẫn lời tán tụng: ‘’sư đoàn ‘nặng’ 325 tổng trừ bị
quân đội Bắc Việt là một đơn vị quân đội nhân dân anh hùng, nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng’’. Với một phối hợp đồng bộ tuyệt hảo, Bộ Tư Lệnh Tiền
Phương Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đặt trên Soái Hạm USS
Blue Ridge cùng với Ban Tham Mưu Hạm Đội điều hành, chỉ huy cuộc
hành quân đưa Tiểu Đoàn 7 trở lại bờ biển bằng tàu đổ bộ của Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ. Khi đoàn quân cách bờ khoảng ba cây số, giàn hải
pháo của Hạm Đội 7 sử dụng những đại pháo có đường kính 16 inches
hay 406 mm như của Thiết Giáp Hạm New Jersey đổ một màn lửa và mảnh
thép công phá xuống các bãi đáp dự trù, sau cơn bão nhân tạo do các
hải pháo, phi cơ Hạm Đội xuất kích với Sky Hawk của Hải Quân hoặc
F-4C Phantom. A-7F Corsair của Thủy Quân Lục Chiến, tiếp dọn sạch
các mục tiêu và cuối cùng, con bài chủ lực B-52, vũ khí cột trụ của
Lôi Phong được gọi tới trải tấm thảm lửa hung hãm suốt chiều dài bãi
biển dọc theo Hương Lộ 555. Lửa cuồn cuộn tung hoành đỏ rực sóng
biển, hắt ánh hồng át mặt trời vừa bắt đầu bình minh. Từ khoảng cách
hai cây số, (khoảng an toàn tối thiểu đối với B-52, vốn là phi cơ
oanh tạc chiến lược), hai đợt tàu đổ bộ gồm mỗi đợt 40 chiếc đưa
Tiểu Đoàn 7 ào vào vào bờ như những cơn sóng biển…Mà thật sự là một
biển người đồng loạt xông lên bờ cát âm âm mùi bom lửa. Đơn vị cộng
sản cố thủ bờ biển trong chớp mắt phân tán mỏng chạy về Quốc Lộ I
tìm đường sống sót. Một đại đơn vị chỉ còn 10 (đúng con số 10) tù
binh ngơ ngẩn vì quá sợ hãi đưa cao tay đầu hàng lính Thủy Quân Lục
Chiến. Nhưng đơn vị cộng sản tháo chạy hướng Quốc Lộ I (để vào vùng
núi phía Tây), hoặc về phía Bắc (hướng Sông Thạch Hãn) cũng không
còn hy vọng được trốn thoát lần cuối, vì hai Tiểu Đoàn 6 và 4 đã
nhảy xuống giao điểm nút chặn (của Hương Lộ 555 hướng Nam-Bắc và
Hương Lộ 602 hướng Đông-Tây) với cuộc trực thăng vận thần tốc thực
hiện đúng vào lúc Tiểu Đoàn 7 đổ quân. Hai Tiểu Đoàn 4 và 6 đụng độ
ngay tại bãi đáp với trung đoàn 18, đơn vị thuộc sư đoàn 325, mà bộ
chỉ huy đã thoát khỏi trận địa từ sau những thiệt hại từ giữa tháng
5. Sau bảy ngày ‘’chà láng’’ mật khu ‘’Dãy Phố Buồn Thiu’’, Lữ Đoàn
147 trả khung cảnh im lìm cho khu vực đúng như tên gọi, rút lại về
phòng tuyến Mỹ Chánh, Quân Đội Cộng Hòa rút đi cùng lần biến mất
khỏi trận địa những đơn vị từng là huyền thoại của bộ đội miền Bắc.
Hai trung đoàn mang danh số 66 và 88 của quân đội nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa hoàn toàn mất dấu khỏi hồ sơ trận liệt kể từ ngày,
tháng nầy. Chỉ trong vòng một tháng 5, trong vùng trách nhiệm của
Thủy Quân Lục Chiến đã có tới hai ngàn xác đếm được, hơn ngàn vũ khí
bị tịch thu, 60 chiến xa bị loại khỏi vòng chiến, có chiếc khi bị
‘’bắt sống’’ còn nguyên vũ khí, số đạn cấp phát: Binh sĩ những Tiểu
Đoàn 6 và 8 Thủy Quân Lục Chiến của Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, Nguyễn Văn
Phán đã không cho xạ thủ những chiếc tăng nầy bắn được một viên đạn
(21).
Sau 27 tháng Bảy, Thủy Quân Lục Chiến thay thế Nhẩy Dù để ‘’dứt
điểm’’ Cổ Thành Quảng Trị. Thật ra, kể từ 25 tháng 7, Tiểu Đoàn 5 Dù
đã bám được bức tường đá Cổ Thành Quảng Trị với yểm trợ tiếp cận của
phi cơ A-37 Không Quân Việt Nam, nhưng khi Đại Úy Nguyễn Tiến Sĩ,
Đại Đội Trưởng 51 của Tiểu Đoàn nầy thúc lính bò lên Thành thì cũng
là lúc Không Quân Hoa Kỳ can thiệp, dội bom Nội Thành, do những lý
do kỹ thuật, hai trái bom đã đánh nhầm vào đội hình quân bạn, Tiểu
Đoàn 5 mất đà, khựng lại và dội ngược. Sư Đoàn Dù lại để trống Ngã
Bến Chùa, đường qua sông Thạch Hãn về Nhan Biểu, Ái Tử. Đường tiếp
vận quan yếu của hệ thống hậu cần Bắc quân. Chín Tiểu Đoàn Dù hiện
có chỉ vừa đủ rải từ Mỹ Chánh đến Quảng Trị, từ đường chiến thuật
556B ra đến Quốc Lộ I thế nên, cần phải có thêm một Lữ Đoàn (với ba
hoặc bốn Tiểu Đoàn Bộ Binh tác chiến) tăng cường để chận con đường
Ái Tử-Nhan Biều-Cổ Thành là ước vọng tha thiết của Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn Dù hay cũng chính của Tướng Trưởng. Gần hai tháng qua đi kể từ
ngày khởi cuộc phản công, tất cả các đơn vị tham chiến bị ngưng lại
bên bờ hào của vòng Thành đá tảng, tuyến chiến đấu của ta và địch
cách nhau đúng 400 thước (hai tấn đạn súng cá nhân), nhưng cũng có
nơi không còn thước nào cả. Bởi các chốt kháng cự đan kín vào nhau,
nên nay đã đến lúc cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến để thực hiện
lời nguyền trước Quốc Dân và lịch sử. Tư Lệnh Chiến Trường, Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định cùng hai viên Tư Lệnh Nhảy Dù và
Thủy Quân Lục Chiến. Hai Tướng lãnh vừa được vinh thăng tại mặt
trận, trên chiến địa Trị-Thiên nầy. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và
Bùi Thế Lân một kế hoạch tái phối trí Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
nhận trách nhiệm phần đất bên trái Quốc Lộ I chạy dài ra đến biển.
Sư Đoàn Dù từ trái Quốc Lộ đổ sâu vào hướng núi. Tiểu Đoàn 6 Thủy
Quân Lục Chiến thay chỗ 6 Dù chịu trách nhiệm góc Tây-Nam Cổ Thành
Ngã Tư Đường Trần Hưng Đạo-Quang Trung, Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục
Chiến đổi 5 Dù chịu trách nhiệm phòng tuyến dọc Đường Lê Văn Duyệt
đối diện Cửa Tiền, Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đổi 11 Dù. Trâu
Điên (Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến), Quái Điểu (Tiểu Đoàn 1 Thủy
Quân Lục Chiến) chận đường cửa Bắc ngang Sông Thạch Hãn, cũng là
đường tiếp vận cho lực lượng cộng sản cố thủ Cổ Thành. Những giòng
chữ sau đây viết theo câu chuyện Người Lính Thủy Đánh Bộ kể lại
(22). Chúng ta hãy sống cùng những giờ phút dũng liệt với xương máu
của mỗi một người lính. Những Người Lính Vô Danh mà linh thiêng sông
núi đã hun đúc nên thành, gánh chịu suốt cuộc chiến điêu linh.
Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến,
vị Lữ Đoàn Trưởng thâm niên nhất của Sư Đoàn nhận nhiệm vụ chỉ huy
đơn vị xung kích tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị từ hướng Tây-Nam. Lữ
Đoàn 147 chịu trách nhiệm mặt phía Đông từ Quận Triệu Phong ra đến
biển. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến kể từ ngày thay thế Nhảy Dù tuy đã
chiến đấu không hề ngưng nghỉ nhưng cũng chỉ đẩy các chốt địch từ
ngoài vào trong Cổ Thành, và điểm gần nhất cũng còn cách bờ hào
Thành khoảng hai trăm thước. Không thể chần chờ hơn nữa, Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn I dưới điều hành trực tiếp của Tướng Trưởng soạn thảo Kế
Hoạch Lôi Phong giai đoạn hai sử dụng tối đa hỏa lực phi, pháo trong
48 giờ liên tiếp theo diễn tiến. Không Quân chiến lược B-52 liên tục
trải thảm từ Sông Thạch Hãn (Bắc Cổ Thành) đến Đông Hà (Bắc Quảng
Trị 50 cây số), có nhiệm vụ đập nát tất cả vị trí pháo binh, hỏa
tiễn, bộ chỉ huy, điểm tiếp vận, tiếp đến hải pháo từ Hạm Đội 7 bắn
vào các điểm nghi ngờ liên tục trong suốt chiến dịch vào những lúc
phi cơ tạm rời vùng, pháo binh diện địa 175 ly từ Phong Điền tăng
cường quấy rối, đặc biệt chiếu cố thật kỹ vị trí tọa độ Cổ Thành, 12
khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu 105 ly cơ hữu của Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến được lệnh tác xạ không ngưng một phút, Pháo Thủ chỉ thay nhau
ngủ vài giờ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một
trái đạn rớt ra ngoài bờ Thành. Đạn bắn không cần đếm, hàng trăm xe
vận tải hạng nặng chở đạn đi suốt ngày đêm trên lộ trình Đà
Nẵng-Quảng Trị, đạn giở xuống để ngay trên Quốc Lộ I dài hàng cây
số, lính Pháo Binh cứ tự động đến lấy mang về vị trí pháo binh khỏi
phải làm phiếu lãnh. Có người đã ôm viên đạn trong tay nhưng kiệt
sức, không nạp nổi vào nòng, anh ta ngã gục bên khẩu pháo. Trong
vòng 48 giờ, đã có 60.000 quả đạn bắn đi, không một phân đất nào của
khu vực chung quanh Cổ Thành trong Thị Xã không có dấu đạn rơi.
Về phần bốn bờ tường Thành được dành cho Không Quân chiến thuật Việt
Nam và Mỹ từ Đà Nẵng, Chu Lai, Tuy Hòa, Hạm Đội 7 đồng thực hiện.
Các Phi Công phải lựa chiều đánh bom làm sao quả bom rơi đúng trên
năm thước bề dày của chiếc Thành, cốt triệt hạ khối đá vuông vức kia
thấp xuống, càng thấp càng tốt, phải đập nát bốn lô cốt ở bốn góc,
khóa họng những thượng, đại liên mà xạ thủ đã bị xích chân vào súng.
Và cuối cùng cũng phải cầu viện đến ‘’bon mắt thần’’, những quả bom
nặng 500 cân Anh, điều khiển bằng Rada để đánh xuống những đoạn
Thành quá kiên cố mà pháo và bom thường không triệt hạ được. Nhưng
cái tường Thành ngạo nghễ kiên cố kia dầu chỉ còn thấp khoảng vài ba
thước, gạch đá ngổn ngang vẫn còn những đám con cháu ‘’bác Hồ’’ chui
rúc trong những căn hầm chữ A, loại hầm cứng chắc có khả năng chịu
được phi pháo, chỉ trừ khi bom rơi ngay vào miệng hầm. Thế nên, cứ
dứt pháo thì địch lại nhô đầu ra bắn điên cuồng về phía trước mặt,
hiệp cùng cối pháo, hỏa tiễn bên kia bờ Thạch Hãn, trong núi, Nam
Sông Bến Hải dội xuống dồn dập. Không để bị bó buộc vì tình thế, Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lại thêm một lần thay đổi ý định
điều quân: Lữ Đoàn 369 bàn giao vị trí cho bạn, lui binh làm thành
phần trừ bị, cái ‘’bánh chưng’’ gọi là Cổ Thành kia được cắt ra làm
hai: Nửa phía Đông giao cho Lữ Đoàn 258 điều động ‘’Trâu Điên’’ Tiểu
Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đánh từ hướng Tây. ‘’Ó Biển’’ Tiểu Đoàn 6
Thủy Quân Lục Chiến đánh chính diện Cửa Hữu theo Đường Quang Trung,
vùng cư dân trước đây gọi là Phường Thạch Hãn. Lực lượng tấn công
dứt điểm sẵn sàng trên tuyến xung phong đợt Lôi Phong chấm dứt sau
48 giờ bão lửa.
Tại hầm chỉ huy Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu Tá Cảnh nói
cùng Đại Úy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3: ‘’Anh Thạch, tôi biết
anh muốn lui về nghỉ có mấy ngày, nay giao cho anh nhiệm vụ nầy thì
kỳ quá, nhưng Tiểu Đoàn mình chỉ còn anh là Đại Đội Trưởng cứng
nhất, kế hoạch Lôi Phong 2 đã bắt đầu từ ngày hôm qua, đợi chờ chấm
dứt, tối nay anh đem Đại Đội lên trám tuyến cho ‘’thằng 1’’ (Đại Đội
1), rồi tìm cách tiến sát vào chân thành kia trước khi trời sáng.
Nếu không được thì lui về, để trời sáng tụi nó nhìn rõ là hỏng việc.
Đại Úy Thạch về họp cùng với Trung Đội Trưởng để bàn định kế hoạch
đột kích. Anh nói với những Trung Đội Trưởng đang ngồi chen chúc
trong chiếc hầm chìm bóng tối, những tròng mắt khô rốc mệt mỏi trừng
trừng nhìn xuống tấm bản đồ đặt trên đất: ‘’Đây, cái bờ Thành nầy,
làm thế nào Đại Đội mình cũng phải leo lên cho được, điều tôi dặn kỹ
là binh sĩ không được bắn vu vơ, đến sát bờ Thành thì tung lựu đạn
thật nhiều rồi leo lên, bám chặt vào đó. Đừng để tên nào leo xuống.
Bám vào được thì mình mới có thể bung ra hai bên. Đến trước viên
Thiếu Úy cùng tên Thạch, anh nói riêng: ‘’Ông với tôi cùng tên
‘’Thạch là đá’’, đá thì phải cứng, tôi chọn ông đi tiên phong là
thế. Hy vọng ông làm được việc’’.
Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến vượt tuyến tấn công lúc
nửa đêm, ba giờ sáng, đoàn quân đến mục tiêu ấn định, bờ tường Cổ
Thành Quảng Trị, nơi cách hầm đóng quân hai trăm thước khoảng cách
được vượt qua bởi những người lính bò im lặng trong đêm trên gạch
đá, mìn bẫy và dưới trùng điệp lưới lửa, đạn đại pháo của cả hai
bên…Đột nhiên, một loạt đạn pháo binh nổ rền ngay trên đầu hướng
tiến của Đại Đội, Thạch (Đại Đội Trưởng) giật mình cầm ống nói:
- Thạch Thảo (danh hiệu truyền tin của Thiếu Úy Thạch) anh có làm
sao không ?
- Trình thẩm quyền vô sự. Có tiếng nói lao xao bên đầu Trung Đội của
Thiếu Úy Thạch (nghe qua máy truyền tin), tiếp tiếng la mừng rỡ của
người Trung Đội Trưởng: Trình Đại Bàng (người chỉ huy), thằng Xuân
của tôi đã qua hào vào sát bờ Thành, pháo đang nổ trên đầu nó, Thẩm
Quyền bảo ông ‘’Phở Bắc’’ (Pháo Binh) ngưng đi để tụi nó leo lên…
Báo cáo được nghe tiếp với những lời nói dứt khoảng dồn dập lẫn
trong âm động đạn súng tay, lựu đạn, đại liên và pháo, cối từ phía
Bắc bắn xuống yểm trợ đám bộ đội cộng sản… ‘’Thằng Xuân đã lên đến
bờ tường rồi…Chúng tôi đã sang…bên kia…bờ hào nước…Tụi nó…tụi nó bắn
ghê quá…Lên…lên…đi’’. Không đợi nghe hết lời báo cáo, Đại Úy Thạch
đứng sổng dậy hét to: Xung phong…xung phong! Tất cả Đại Đội vụt chạy
nhanh qua chiếc hào Thành đã cạn nýớc vì đất đá hai bên đổ xuống.
Những người lính đồng thanh hòa theo lời hô của viên Đại Đội
Trưởng…xung phong!! xung phong!! Những thân người ngã xuống vật vã
trên gạch đá tan vỡ, màu tươi rói bắn ra tia thấm đẫm bạt vào người
bên cạnh. Không biết ai trúng đạn, ai còn sống, khoảng cách quá gần
và trời quá tối, những người thoát đạn xốc tới… Xung phong…xung
phong!!
Cùng lúc phía Tây-Nam, Đại Đội của Đại Úy Định (Định ‘’con’’, để
phân biệt với Đại Tá Định, Lữ Đoàn Trưởng 258) thuộc Tiểu Đoàn 6
Thủy Quân Lục Chiến khi nghe tiếng hô rền từ cánh quân bạn cũng đồng
bật dậy, bỏ vị trí xốc tới…xung phong…xung…xung phong! Giữa bóng tối
mù mịt, qua ánh chớp đạn pháo binh địch, và lóe sắc của lựu đạn đánh
cận chiến, bóng hình người Thủy Quân Lục Chiến ào lên thấp thoáng,
vùn vụt trên những khối đen của dãy tường Thành loang lỗ chập chờn
lửa dậy. Bốn giờ sáng, trời vừa hừng đông, được tăng thêm độ sáng do
đạn lửa của pháo hỏa tiễn cộng sản bắn tràn lên vị trí để các đơn vị
bộ đội địch tháo chạy, những người lính Thần Ưng (Tiểu Đoàn 6), Sói
Biển (Tiểu Đoàn 3) hoàn toàn làm chủ, tràn ngập trên bờ thành phía
Nam, về phía Đông, khu trách nhiệm của Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn
Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Phán vượt lên tuyến đầu đích thân thúc
quân ép sát vào bờ Thành bởi nhận ra sức chiến đấu của đám lính cộng
sản cố thủ yếu dần, đang thất thần tìm đường lẩn trốn trước đợt tiến
công dồn dập uy mãnh của lính miền Nam, những tên không tháo chạy
được bị thanh toán tại hầm bằng lựu đạn, hoặc súng tay bắn với
khoảng cách gần nhất, đạn xuyên vào da thịt người nghe lụp bụp, thân
người nẩy ngược lên. Hướng chính Tây, mặt tấn công của Tiểu Đoàn 2
cùng Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, lực lượng xung kích ào vào chân thành
như thác lùa, lũ lớn theo những khoảng vỡ đổ của bức tường Thành nay
đã biến dạng thành khối hình ngổn ngang chồng chất, lính ‘’Trâu
Điên’’ xốc tới như tên hiệu đơn vị, những con trâu trong cơn phẫn nộ
hung hãm, đánh phục thù cho trận lui binh oan nghiệt cuối tháng Tư
mà họ đã tận mắt chứng kiến. Đến chiều 14 tháng 9, Lực Lượng Thủy
Quân Lục Chiến kiểm soát toàn phần bờ Thành, khu vực phía Nam, chia
quân lục soát những khu hầm nhốt tù (do người Pháp xây dựng đầu thế
kỷ) mà sau nầy, trước tháng 4.1975, Tiểu Khu Quảng Trị, Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 3 Bộ Binh đặt Trung Tâm Hành Quân, đám lính cộng sản ném
súng, lội Sông Thạch Hãn tháo chạy về phía Bắc như đàn vịt nháo nhác
trên khoảng sông phơi đáy cát. Một chiếc L-19 (máy bay quan sát) bay
lờ lững trên cao, anh Phi Công tinh nghịch rà xuống sát mặt nước,
bắn ra trái đạn khói, những tên lính cộng sản chạy trốn hốt hoảng
đưa tay đầu hàng, đứng ngơ ngác trên giòng sông mờ đục trống trải.
Đêm 14 tháng 9, lần đầu tiên sau 48 ngày, đêm, Đại Úy Thạch Đại Đội
Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn ‘’Sói Biển’’, đơn vị tiên phong của đợt
đột kích dứt điển Cổ Thành được ngủ một giấc dài vì đôi giày đã được
cởi ra. Nhiều người lính của mặt trận Quảng Trị cũng được ‘’hạnh
phúc’’ nhỏ bé tầm thường tội nghiệp nầy. Sáng hôm sau, ngày 15 tháng
9.1972 từ căn hầm phòng thủ nơi đặt Ban Chỉ Huy Đại Đội, qua lỗ
hổng, Thạch thấy rừng rực lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bay uy nghi trong gió
sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẳn. Anh thấy cay cay trong mắt
với cảm giác nôn nao thầm lặng…Cảm xúc từ rất lâu anh không có. Cảm
giác muốn khóc về một điều bi phẩm. Thạch nhìn quanh, những người
lính đồng có sắc đỏ xẫm ươn ướt nơi tròng mắt. Những khuôn mặt chai
cứng, hư hao, loang lỗ lấm láp khói đạn, bụi đất đồng duỗi ra theo
độ sáng của ngày mới vẻ kiên nghị kiêu hãnh xen lẫn đau đớn kìm giữ.
Thạch nhìn xuống những xác binh sĩ đồng bạn mới đem về, nằm bó gọn
trong những poncho phủ bụi đất, bê bết máu. Anh lơ đãng nghe báo cáo
về số lượng vũ khí sơ khởi được tịch thu, đâu khoảng hai tấn rưỡi,
phải cần tới một GMC mới chở hết.
Nơi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở Thành
Mang Cá, Huế, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cất chiếc nón sắt đã đội
suốt từ bao ngày đêm. Người chỉ huy chiến trường ngồi lặng im rất
lâu, mặt ông trầm xuống không gợn nét, đổi sắc.
KẾT TỪ VỀ MỘT NGƯỜI LÍNH
Ba mươi năm sau, báo chí Mỹ, cho dù tờ báo khách quan, đứng đắn,
hoặc giới học giả, nghiên cứu (với những con người được tin cậy,
kính phục như Giáo Sư W. Tuchman) khi viết về Lịch Sử, Quân Sử Việt
Nam (giai đoạn sau Mậu Thân 1968, trước Hiệp Định Paris 1973) đã
không hề có một giòng chữ ngắn đối với chiến công lẫm liệt kể trên.
Phim ảnh, sách, báo chí Mỹ với những đầu óc chủ bại lẫn tự tôn
(khiếp nhược trước kẻ nghịch, bất nhân với bạn hữu), thiển cận từ tư
cách chuyên nghiệp, bác học của văn minh kỹ thuật cao (thật sự do
không đủ can đảm trí thức tự nhận nỗi bất lực thảm hại của bản thân,
xã hội, bộ máy cầm quyền của quốc gia mình) nên đã không nhìn rõ
địch tình, đánh giá thấp, không tận hiểu đúng sức mạnh tinh thần của
một Dân Tộc, Quân Đội bạn, điển hình như Thượng Nghị Sĩ Bob Kerry,
kẻ viết biên khảo Stanley Karnow, Đạo Diễn phim ảnh Oliver Stone
v.v…đã sử dụng hệ thống thông tin đại chúng Mỹ để trút lỗi lầm thất
bại, gánh nặng ‘’hội chứng Việt Nam’’ lên lưng người Lính Việt với
một lý luận hàm hồ chung nhất: ‘’Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không
chịu chiến đấu dù rằng người Mỹ đã góp nên trị giá 58.000 người chết
và hơn 100 tỷ đô la trong cuộc chiến với cộng sản Việt Nam’’ Những
kẻ này đã không hề biết đến (hoặc cố tình không biết) những số liệu:
587 Tù binh Mỹ và người nước ngoài (gồm một binh sĩ Đại Hàn và hai
binh sĩ Thái) Số liệu của Ban Liên Hợp Quân Sự do chính bản thân
người viết làm báo cáo là 585) trao trả theo điều khoản của Nghị
Định Thư Tù Binh. Hiệp Định Paris gồm 473 nhân viên quân sự thuộc
thành phần Phi Hành Đoàn của những phi cơ bị bắn hạ trên lãnh thổ
Bắc Việt kể từ khi Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc do cớ sự vụ tàu
Maddox (tháng 8.1964) (23) Hiệu số của 585 và 473 là 112, trừ thêm
ba (3) Quân Nhân có quốc tịch nước ngoài kể trên, ta có con số: 109
người là tổng số tù binh Mỹ bị bắt ở miền Nam, gồm thường dân, nhân
viên Tình Báo, cố vấn Cơ Quan Bình Định, và Quân Nhân bộ binh Mỹ
(24) Trong khi ấy phía Việt Nam Cộng Hòa trao trả về phía cộng sản
26.508 nhân viên quân sự và nhận về 5.081 người lính từ Binh Nhì đến
cấp Đại Tá (25). Cơ sở Rand Mc Nelly sử dụng trong Chronicle of 20
Century còn cho thêm số liệu 924.048 lính cộng sản tử thương (26) ở
chiến trường. Từ những chứng số kể trên (do những cơ quan thống kế,
chắc chắn không do cảm tình với chính phủ, Quân Đội Việt Nam Cộng
Hòa, nếu không nói là ngược lại) chúng ta có thể kết luận với mức độ
chính xác nhất: Trong suốt chiến tranh Việt Nam từ khi Bộ Binh, Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ lâm chiến. Cuộc hành quân Starlight, tháng 5.1965
đến 27 tháng 3 năm 1973, bộ binh cộng sản hoàn toàn né tránh các đại
đơn vị bộ chiến Mỹ, nếu có đụng độ chăng chỉ là những đơn vị cấp Đại
Đội, phía Mỹ bị thương vong phần lớn do bị đánh mìn bẫy, phục kích,
phòng không, pháo kích. Số lượng 924.048 bộ đội cộng sản tử thương,
26.508 tù binh bị bắt đổi lại 5.081 người của Việt Nam Cộng Hòa
(chưa kể số lượng 200.000 cán binh cộng sản đầu hàng Quân Đội Việt
Nam Cộng Hòa tại trận địa, hồi chánh chính phủ Việt Nam Cộng Hòa với
nhiều hình thức, tại nhiều địa phương trong nhiều trường hợp) đã xác
chứng: Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là đơn vị chủ động chiến trường do
đã kiên cường chiến đấu và uy hùng chiến thắng trên chiến địa. Nói
như thế để cùng nhau hiểu một điều đau đớn: Ngày 30.4.1975 là một bi
thảm phẫn uất suốt giải quê hương, nỗi oan khiên chung của toàn Dân
Tộc Việt Nam. Nhưng đây là đề tài thuộc về những biên khảo khác.
Để kết luận, ta thử tìm so sánh: Người Đức bao vây Stalingrad 76
ngày, người Mỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày, Quân
Lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày, phải
mất đến bốn ngày kịch chiến, một Trung Đội thuộc Trung Đoàn 28 Sư
Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ mới dựng được ngọn cờ oai dũng Sao và
Sọc lnê đỉnh núi Suribachi của Đảo Iwo Jima. Và đây gần nhất, Điện
Biên Phủ thực sự bị bao vây 56 ngày dưới sức công phá của những sơn
pháo 75 ly, và đại pháo (Trung Cộng) tương đương 105 ly. Những cuộc
bao vây tử thủ, tấn công lừng danh này được thực hiện bởi súng tiểu
liên Sten, Mai 36, Garant, Carbin M1, loại vũ khí hàng đầu của Bộ
Binh Mỹ, cũng là Bộ Binh hàng đầu thế giới. Những trận đánh để đời
của Quân Sử toàn cầu khi đó có gì so với Quảng Trị, chỉ từ 27 tháng
7 đến 14 tháng 9 là 48 ngày, và nếu kể từ ngày 7 tháng 7, lúc Tiểu
Đoàn 7 Dù vượt qua Ngã Ba Long Hưng, vào cách Chi Khu Mai Lĩnh 300
thước thì mặt trận Thành Phố Quảng Trị thực sự đã kéo dài trong 68
ngày. Trong 68 ngày ấy, lực lượng bộ chiến gồm 4 Tiểu Đoàn Dù (5, 6,
7, 11) trong giai đoạn đầu, hoặc 8 Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
một Liên Đoàn Biệt Động Quân và một Thiết Đoàn chiến xa của giai
đoạn 2. Trong 68 ngày đó, chỉ riêng 48 ngày của Thủy Quân Lục Chiến,
những người Lính Quân Đội miền Nam đã phải chiến đấu liên tục trên
một chiến trường dài hai cây số năm trăm thước từ Ngã Ba Long Hưng,
ngõ vào Thị Xã Quảng Trị đến sát bờ Sông Thạch Hãn, và bề ngang một
cây số hay 1000 thước. Những con số này phải viết chính xác để nói
đủ về một chiến trường hẹp cứng, gai góc vượt hết ý niệm chiến trận.
Chiến trường có diện tích ‘’hai ngàn năm trăm thước vuông’’ đó đã
được 15 Tiểu Đoàn Bộ Chiến bao vây quét sạch từng thước đất, phải
nói từng tấc đất, nếu muốn giữ độ chính xác trong 68 ngày. Đội quân
15 Tiểu Đoàn có khoảng 7.500 đến 8.000 người phải vượt qua 2500
thước vuông mục tiêu. Vậy mỗi người lính có bao nhiêu thước đất
chiến trận ? Chỉ số trung bình cho thấy ‘’3 người lính có 1 thước
vuông mục tiêu chiến đấu’’. Một thước vuông để tác chiến trong 68
ngày. Quân Sử Thế Giới, trước và sau Quảng Trị, không một nơi nào,
không thể có một chiến trường nào chật cứng, đứt hơi bằng ở Quảng
Trị Việt Nam. Chắc chắn như thế. Trong 68 ngày đó, sáu Tiểu Đoàn
Pháo của hai Sư Đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến, dàn hải pháo Hạm Đội
7 đã bắn bao nhiêu trái đạn ? Phi cơ chiến đấu Mỹ từ Chu Lai (Quảng
Tín), Đông Tác (Tuy Hòa) (27) từ Guam (28) của Hạm Đội 7 (ngoài khơi
lãnh hải Đông Dương) Phi cơ Việt Nam từ Đà Nẵng đã đánh bao nhiêu
bom xuống khu vực Cổ Thành ? Trong 68 ngày, bao nhiêu cân bom, trái
đạn đã rơi xuống trên mỗi phân đất của Thị Xã chiều dài không quá 15
phút Honda ấy ? Quảng Trị! Muốn được kêu lên một tiếng, muốn nhỏ
xuống dòng nước mắt. Thành Phố Quê Hương là Thánh Địa chịu nạn cho
hết tai ương nhân loại. Không một nơi chốn nào trên địa cầu nầy phải
chịu đựng cảnh huống điêu linh khốc liệt bằng vùng đất gọi tên Quảng
Trị, nơi Thị Xã có khối Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Không dân tộc nào nên sức chịu đựng so cùng dân và lính ở miền Nam.
Phải! Người Lính Việt Nam đã chiến đấu và tồn tại như một nhiệm mầu.
Trên mầu nhiệm bình thường lặng lẽ nầy. Tổ Quốc điêu linh thở từng
hơi ngắn đớn đau nhưng bền bỉ. Chữ nghĩa hoàn toàn vô nghĩa trước
chân dung bi tráng hùng vĩ của Người và Quê Hương. Nơi đất phương
Nam với người chỉ huy giữ nước tên gọi NGÔ QUANG TRƯỞNG.
Phan Nhật Nam
Để nhớ ngày
Người Lính lẫm liệt giữ vững Quê Hương
14 tháng 9.1972
Nơi Quảng Trị
Ở Việt Nam.
Ghi Chú:
13-14.- Lewis Soley A better War Harvest Book Florida. USA (p.332)
15.- Bình Giả, Tỉnh Phước Tuy, miền Đông Nam Bộ, nơi xẩy ra trận địa
chiến cấp trung đoàn đầu tiên ở miền Nam tháng 12.1964.
16.- Vietnam Experience South Vietnam On Trail (p.138)
17.- Tu Chính Án do Frank Church và John S. Cooper đệ trình Quốc Hội
Mỹ (1970) cấm Bộ Binh Mỹ tham chiến Campuchia, Không Quân Mỹ không
được hoạt động ở Đông Dương.
18.- Stanley Karnow Vietnam A History, Penguin Books NY 1984 (p.544)
18bis.- Trần Văn Đỉnh, Huế My City, Myself National Greographic
Nov.1969.
19.- Mai Hòa. Sư Đoàn I Trở Lại Bastogne Diều Hâu Sài Gòn số tháng
5.1972.
20.- Phillip B. Davidson Vietnam at War Presidio Press CA, 1988
(p.169)
21.- Trần Văn Hiển Thủy Quân Lục Chiến và Trận Chiến Xuân Hè KBC 21
Ca, USA 1995.
22.- Sói Biển Thạch Thảo Lính Thủy Đánh Bộ KBC (20, 25, 26) CA
1998-1999
23-24-25.- Phan Nhật Nam Tù Binh Và Hòa Bình, Hiện Đại Sài Gòn,
1974, trang 143-168.
26.- Yearbook Grôlier Canada, 1974, Rand Mc. Nally Inc USA, 1987.
27.- Căn Cứ, Phi Trường Quân Đội Mỹ dọc miền Trung Nam Việt Nam
(1965-1973)
28.- Căn Cứ Hải, Không Quân Mỹ thuộc Quần Đảo Mariana, Tây Thái Bình
Dương
Biên Hùng chuyển
NGÔ QUANG TRƯỞNG – CỔ KIM NHƯ DANH TƯỚNG *
NGÔ QUANG TRƯỞNG – CỔ KIM NHƯ DANH TƯỚNG
Phan Nhật Nam
Phi Trường Biên Hòa nằm im dưới nắng khô rốc như một khoảng sân gạch
nung chín, hơi nóng từ phi đạo do những tấm vĩ sắt PSP ghép vào nhau
bốc lên lớp khí lung linh hừng hừng như làn khói từ một đám cháy âm
ỉ đâu dưới mặt đất. Ngọn núi Bửu Long bên ngoài hàng rào sân bay với
hàng cây trên sườn núi, đỉnh đồi, cũng không cho thêm độ xanh tươi,
im mát của thiên nhiên, mà chỉ tăng phần trần trụi của khu vực. Gió
khô thổi từng chập tung bụi đỏ dọc con đường đất chạy quanh Phi
Trường, lay động lật bật những tấm che chắn tháo gỡ từ những thùng
giấy, ghép lại với nhau làm lều tạm trú cho đám lính canh giữ vòng
đai an ninh.
Chiếc xe jeep mang phù hiệu Nhảy Dù với con số 5 màu đỏ nơi tấm
kiếng chắn gió chạy chậm trên đường vòng đai là điểm linh động duy
nhất của toàn cảnh tượng. Đám lính từ trong những căn lều trạm trú
lần lượt hiện ra, đứng nghiêm theo lệnh hô của người chỉ huy, chào
tay lên vành mũ sắt, đợi chiếc xe đi tới. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù ngừng xe xuống mỗi vị trí gác, ông đi thẳng,
bước nhẹ, đến trước mỗi hàng quân, chào tay, nói nhỏ với người chỉ
huy. Cho anh em nghỉ. Nhìn thẳng mắt vào mỗi người lính, ông hỏi
chuyện thân mật như với người thân. Nóng quá, anh em có đem đủ nước
uống không, nhớ chùi súng, thông nòng cho sạch, đừng để bị đất bụi
bám vô. Sau khi hỏi thăm đủ đến mỗi người lính, ông lại chào tay
trước khi bước lên xe. Chiếc lưng và thân người thẳng đứng, lưng áo
tác chiến hoa nhẩy dù bó căng thân thể cao gầy. Do bị thương từ một
saut nhẩy dù bồi dưỡng, nay phần thân trên phải chịu bó cứng trong
một lớp áo giáp bột thạch cao. Nắng nung khô áo vải hoa dù ny lông
như lớp bánh tráng nướng chín, nhưng mỗi ngày hai lần, Thiếu Tá Ngô
Quang Trưởng tự thân đi vòng quanh Phi Trường để kiểm soát đơn vị
đang giữ nhiệm vụ ứng chiến, an ninh.
Chiều hôm nay thứ bảy, sao anh không để ông Phó đi thay, người lại
bị bó bột như vậy, nóng chịu sao nổi ? Đại Úy Ngô Xuân Nghị, Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Dù, đơn vị chung chiến đoàn, cùng chịu trách
nhiệm an ninh Phi Trường Biên Hòa tỏ ý ái ngại khi Thiếu Tá Trưởng
ghé qua thăm đơn vị nầy (cũng trong vòng đai Phi Trường Biên Hòa)
sau lần kiểm soát cuối ngày.
Binh sĩ anh em người ta còn phải chịu nóng, cực hơn mình nhiều.
Thiếu Tá Trưởng ngồi xuống chiếc ghế, gỡ nón sắt đặt xuống bên cạnh.
Nét mặt nghiêm nghị trầm tư.
Đến chiều tối, viên sĩ quan trực Tiểu Đoàn 7 khi ghé qua văn phòng
Tiểu Đoàn Trưởng để trình ký văn thư, anh vẫn thấy người Tiểu Đoàn
Trưởng đơn vị bạn ngồi ở vị thế và cách thức lúc ban chiều. Chiếc
nón sắt đặt bên cạnh, lưng thẳng cứng, sắc mắt nhìn nghiêm lạnh. Chỉ
khác, chai Scott để trên bàn đã vơi quá nửa.
Khi đi ra khỏi văn phòng, gã Thiếu Úy trẻ tuổi có ý nghĩ:
‘’Chắc ông ấy uống rượu là uống cho có vậy thôi, chứ ai ngồi uống
với bạn mà im lặng đến thế. Hẳn ông đang gặp điều buồn phiền nhưng
không nói ra ?’’ Và có thể, sau này gã sẽ quên đi nhiều chuyện,
nhưng sắc mặt nhìn của người ngồi trước ly rượu kia sẽ ghi dấu với
gã rất lâu. Viên Thiếu Úy nghĩ thầm, và tin chắc mình đã có nhận xét
chính xác.
LẦN GIỮ VỮNG THỨ NHẤT
Bắt đầu năm 1963, tình hình quân sự Miền Nam đã có những chỉ dấu suy
thoái, lực lượng du kích, địa phương cộng sản được thành lập từ hai
năm trước với những vũ khí đơn sơ, tự chế tạo như súng ngựa trời,
đạp lôi, mìn bẫy, nay được tăng cường thêm thành phần cán bộ hồi
kết, lẫn cán bộ Bắc Việt mới xâm nhập, cùng với những vũ khí mới,
hữu hiệu nhất do khối cộng sản viện trợ. Lực lượng nầy biến cuộc nổi
dậy của du kích địa phương nên thành một cuộc chiến tranh bán quy
ước, chuyển qua giai đoạn chuẩn bị tấn công lật đổ chính quyền hợp
hiến Miền Nam.
Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Quân Khu IV giữ trách nhiệm an
ninh quân sự toàn Vùng Châu Thổ sông Cửu Long, nắm quyền Tư Lệnh
ngày đầu năm Dương Lịch 1 tháng 1 năm 1963. Tướng Cao nhận nhiệm vụ
vốn không hoàn toàn do từ khả năng chỉ huy cần có đối với một Tư
Lệnh Vùng, nhưng vì là người trung tín của Tổng Thống Diệm, lại được
lòng của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, Giáo Phận Vĩnh Long, nơi đồn
trú của Sư Đoàn 9 Bộ Binh, một đơn vị nòng cốt của Vùng. Hơn thế
nữa, Tướng Cao còn được lòng tin của Cố Vấn Chỉ Đạo Ngô Đình Cẩn,
bởi gốc người Phú Cam, Huế, đồng hương, đồng đạo với Cố Vấn. Thiếu
Tướng Cao cũng là thành viên trong Quân Ủy Trung Ương Đảng Cần Lao
do Cố Vấn Ngô Đình Nhu sáng lập, lãnh đạo. Từ vị thế vững chắc về
mặt ‘’chính trị’’ nầy nên Tướng Cao không mấy quan tâm, năng nổ
trong nhiệm vụ điều quân dẹp loạn, mà mục tiêu trước tiên là làm vừa
lòng những người đỡ đầu, quyết định về sự nghiệp, công danh của ông.
Thế nên, về phương diện quân sự, ông phải làm thế nào để Vùng trách
nhiệm ‘’có được tiếng an ninh’’ trong báo cáo gởi về Dinh Độc Lập,
để nơi đây chuyển đến Tòa Đại Sứ Mỹ làm yên tâm ông Đại Sứ vốn là
người bảo thủ (Được dẫn chứng qua giai thoại: Đại Sứ Nolting cho
thay thế bức hình Tổng Thống Thomas Jefferson nơi phòng làm việc
bằng bức họa Tổng Thống George Wasington, bởi vị Tổng Thống tiên
khởi nầy ít có tính chất ‘’tranh biện’’ (1), không muốn nghe những
phê phán, chỉ trích. Để tỏ rõ tinh thần, thái độ ‘’bảo thủ tích
cực’’ này, trong một buổi họp mặt Phù Luân Hội, Chi Hội Sài Gòn, ông
Đại Sứ thay mặt chính phủ Mỹ ở Việt Nam đã tin tưởng tuyên bố: ‘’Quả
thật đã có một sự chuyển mình kỳ lạ ở nơi đất nước này, nếu những
người hay chỉ trích chính phủ có được quyết tâm phụng vụ cho chế độ
(2).’’ Thế nên, Dinh Độc Lập cố gây ấn tượng cho vị Đại Sứ yên lòng
chuyển tiếp những tin tức mà ông đánh giá là ‘’tiến triển tốt’’ về
Phòng Tình Hình Tòa Bạch Ốc, để lại đây, Trung Tâm Chỉ Đạo Chiến
Tranh Việt Nam, với J.F. Kennedy vị Tổng Thống đời thứ 35, nhân dáng
điển hình cho sức mạnh đang lên của Mỹ, căn cứ từ những báo cáo kể
trên, có thể nói lên lời thẳng thừng, ‘’Tôi sẽ rút ra khỏi Việt Nam
sau 1965 và bất kể phải mang tiếng là người nhượng bộ cộng sản đi
chăng nữa…’’ với người bạn thiết, Ken O’Donnell (3).
Nhưng giữa những báo cáo như trên của Tòa Đại Sứ và ‘’thực tế chiến
trường’’ do các phóng viên David Halberstan, Neil Sheehan, Charles
Mohr…viết lại theo lời tường thuật từ những viên cố vấn nầy tuổi
khoảng 30, 40, tràn đầy năng nổ, tự tin cao độ cách ‘’tự tin có tính
di truyền’’ của giòng giống da trắng thượng hạng sau ba Thế Kỷ thống
lĩnh thế giới với chủ nghĩa tư bản [Phát xít Đức lẫn cộng sản (cùng
mang nhãn hiệu người Đức chứ không của ai khác) cũng chỉ là biến
thái quá độ (trở thành hai mặt tương phản) từ chế độ tư bản Tây Âu],
nay hiện thực quyền bá chủ thế giới trên tất cả các lãnh vực (khoa
học-kỹ thuật, kinh tế-tài chánh, chính trị-quân sự), qua tác động
quyết định của đồng Đô la Mỹ. Những Cố Vấn Mỹ trẻ tuổi nầy (từ thực
lực, vị thế Quân Đội, nhiệm vụ chính trị-quân sự và có cả ý nghĩa
một cuộc ‘’cách mạng ý thức hệ’’ mà họ là thành viên đại diện) tự
đánh giá bản thân là những nhân vật ngoại hạng (theo những mẫu mực
vừa thực, vừa giả, được thông tục hóa, quảng cáo cùng khắp, khắc sâu
vào tâm lý đám đông của một ‘’xã hội kỹ thuật-tiêu thụ-giải trí’’ để
nên thành một khuôn đúc ‘’y như thực’’, gồm tổng hợp…John Wayne,
James Bond, Rambo, Batman…) Và vì ‘’văn hóa cũng chỉ là một kỹ
nghệ’’ được tận dụng tới nơi tới chốn, theo cách định nghĩa của
Robert Lekachman (Báo New York Times khi điểm sách ‘’The Culture
Consumer’’ của Alvin Toffler, St Martin’s Press, NY 1964), nên loại
mẫu mã ‘’y như thực’’ kia qua ‘’kỹ nghệ văn hóa tiêu thụ’’ được tổ
chức cao từ lối sống Mỹ đã ‘’biến tướng nên thực’’ theo một diễn
tiến tự nhiên, vô cùng ‘’hợp lý’’. Chuỗi biến tướng kia hiện thực
qua tập thể viên chức Tòa Đại Sứ từ cấp cao nhất đến nhân viên điều
hành, thành phần Cố Vấn Mỹ ở các đơn vị Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa,
những chuyên viên Bình Định, Tình Báo, Chính Trị thuộc các Phòng, Sở
thuộc quyền điều động bởi Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn, Phóng Viên những
nhật báo, tuần báo lớn, Hãng Thông Tấn do tài phiện Mỹ nắm giữ. Tất
cả tập họp đông đúc, đa dạng nầy tự động biến tướng nên thành những
‘’nhân vật huyền thoại, loài người có khả năng thay đổi, giải quyết
tất cả mọi tình huống’’, đi đến mức độ tự cho mình (và cơ quan mình
phụ trách) có trách nhiệm, nghĩa vụ mang vác vận mạng của toàn thế
giới, của mỗi dân tộc, mỗi con người (những quốc gia và những sắc
dân nhận lãnh viện trợ Mỹ lại là những xác chứng rõ nét hơn cho quan
niệm Americanism nầy). Huống gì ở đây, nơi Miền Nam, với một chủng
loại người thuộc một dân tộc kém cõi chỉ có thể là ‘’những người
tình hảo hạng, nhưng không thể là những chiến sĩ can đảm được, tuy
nhiên, nếu như được huấn luyện và thúc vào đít thì có thể khá
hơn!!’’ Lời của Cố Vấn John Paul Vann (chỉ là một Sĩ Quan cấp Tá
trong thời điểm ấy) nói với David Halberstand về ‘’trị giá’’ của
người Việt, người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (nếu muốn nói rõ
hơn). Thái độ nầy không khác xa với những ‘’ông quan’’ xuất thân từ
Quân Đoàn Viễn Chinh, hoặc Bộ Thuộc Địa Đế Quốc Pháp đánh giá những
Kỳ Hào, Tổng, Lý, Cai, Đội khố xanh, khố đỏ người Việt ở Thế Kỷ
trước.
Thế nhưng, giữa những người Mỹ khác biệt nhau về chức vụ, công tác,
phương tiện diễn đạt, cách thức thực hiện, cho dù họ chỉ nhắm đến
một mục tiêu duy nhất, tối thượng: ‘’Bảo vệ quyền lợi của xã hội Mỹ,
người lính của Quân Đội Mỹ’’, cách đánh giá cuộc chiến tranh mà họ
bày ra ở Việt Nam lại theo những quan điểm hoàn toàn khác hẳn. Điển
hình cho sự phân hóa này là bản thân Tổng Thống Kennedy cũng đã phải
hơn một lần kêu lên với các Phụ Tá: ‘’Có phải các ông đã đến và trở
về cùng một nước đấy phải không ? khi đọc hai báo cáo tình hình quân
sự-chính trị-xã hội hoàn toàn đối nghịch trước khi có quyết định
chấp thuận, hay gạt bỏ dự mưu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Và
khi cần có chọn lựa chung quyết đối với sự kiện nghiêm trọng nầy thì
vị Tổng Thống được tiếng bản lĩnh, sắc xảo kia phải thốt lời thở
than với một người bạn: ‘’Chính phủ của tôi bị vỡ toang ra rồi!’’
khi nghe những ý kiến, đánh giá hoàn toàn mâu thuẫn của những thành
viên nội các về cùng một vấn đề, một đối tượng Lượng Định Tình Thế
Việt Nam (4).
Trong tình hình phân liệt từ thượng tầng lãnh đạo đến thành phần chỉ
huy trung cấp như vừa kể ra, chính phủ Mỹ nơi chính quốc, chốn xa
đất nước Việt Nam nửa vòng thế giới lại muốn toàn quyền chỉ huy,
quyết định về một cuộc chiến dai dẳng, thiệt hại nhất, hao tốn những
số lượng tài chánh khổng lồ qua tận dụng, tiêu phí nguồn vật lực,
khí tài tưởng như bất tận và điều động một khối nhân lực đắt giá
nhất của Quân Sử Thế Giới (chỉ một thứ không được người Mỹ kể ra khi
kết toán chiến tranh Việt Nam là sinh mạng dân, lính của Quốc Gia
gọi là Việt Nam Cộng Hòa với những tổn thất không thể nào bồi hoàn
đối với toàn dân tộc nầy, nếu tính cả hai miền Nam, Bắc. Lẽ tất
nhiên, trách nhiệm về phía ngýời cộng sản lại là một vấn đề khác),
mà cho đến nay, gần ba mươi nãm sau ngày ký Hiệp Định Tái Lập Hòa
Bình tại Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973), vẫn chưa có kết luận chung
nhất, huống hồ lúc chiến tranh đang được thử nghiệm vào thời đoạn
bắt đầu thập niên 60.
Trận Ấp Bắc mở màn ngày 2 tháng 1 1963 là một trận chiến điển hình
của giai đoạn vừa kể ra trên, mà từ đó, góp phần vào việc thành hình
những quyết định chính trị, quân sự quan trọng của chính phủ Mỹ, dẫn
dắt đến lần chung cuộc của miền Nam vào năm 1975. Cũng nói rõ một
điều trận đánh xẩy ra chỉ sau ngày Tướng Huỳnh Văn Cao nhận nhiệm vụ
một ngày và cao điểm chiến trường xẩy ra vào ngày cuối tuần, thứ bảy
(mồng 5) và chủ nhật (mồng 6) tháng Giêng Dương Lịch, khi Tướng Cao
chỉ huy cuộc hành quân truy kích lực lượng cộng sản. Có một yếu tố
ít ai để ý, cho dù người nhạy cảm nhất đấy là, ‘’ngày N của cuộc
hành quân là 3 tháng 1’’ Sinh nhật Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Không
biết phía bên nào đã chủ động giăng ra ‘’cái bẫy hào nhoáng 3 tháng
1’’ nầy, nhưng chắc một điều Ngày N của cuộc hành quân đã không còn
là một điều bảo mật quân sự.
Được tin Quân Báo khoảng hơn 100 lính cộng sản (của hai đại đội trừ)
bố trí dài theo các ấp chiến đấu Ấp Bắc, Tân Thới, thuộc Xã Ấp Bắc,
Quận Tân An, Tỉnh Mỹ Tho, khoảng 40 dặm Tây-Nam Sài Gòn, ngày 2
tháng 1 năm 1963, Đại Tá Bùi Đình Đạm, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh sử
dụng một Tiểu Đoàn cơ hữu trực thăng vận xuống bãi đáp phía Bắc mục
tiêu, từ đây đánh vào Ấp Bắc băng qua những khu đồng ruộng trống
trãi sau mùa gặt. Lực lượng địa phương gồm hai Tiểu Đoàn Bảo An (sau
1965, cải danh thành Địa Phương Quân) Tỉnh Mỹ Tho do Thiếu Tá Lâm
Quang Thơ chỉ huy, di chuyển từ phía Nam làm thành phần chận bít
không cho bộ đội cộng sản rút ra hướng nầy. Đại Úy Lý Tòng Bá điều
động Đại Đội 7 Cơ Giới gồm bốn Chi Đội Thiết Vận Xa M-113 (một Chi
Đội chỉ huy và ba Chi Đội tác chiến) dự trù tấn công dứt điểm mục
tiêu từ hướng Tây. Khoảng đồng ruộng phía Đông được bỏ trống để đánh
lừa thành phần bộ đội cộng sản tháo chạy khỏi Ấp Bắc và sẽ là mục
tiêu để phi, pháo dứt điểm, tiêu diệt đối phương. Cuộc hành quân đặt
dưới quyền chỉ huy tổng quát của Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Quân
Khu với ngày ‘’chiến thắng dự trù 3 tháng 1 để dâng lên Tổng Thống
một món quà sinh nhật có ý nghĩa’’.
Nhưng sự thể hoàn toàn không đúng như trù liệu đối với cả hai bên
lâm chiến. Về phía cộng sản, lực lượng bố trí tại Ấp Bắc không chỉ
là quân số hơn 100 của hai đại đội địa phương như ước tính ban đầu
từ phía Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV, Sư Đoàn 7 mà là hơn ba trăm quân
cộng sản của hai tiểu đoàn chủ lực 514 và 316 thuộc vùng Tiền Giang,
Đồng Tháp. Đạo quân nầy chiếm giữ địa thế thuận tiện dọc theo những
bờ kinh, chủ động tổ chức thế trận, kiểm soát toàn bộ ‘’xạ
trường-bãi đáp’’ của đơn vị Bộ Binh Sư Đoàn 7 được trực thăng vận
đến. Theo thuận ngữ quân sự khi bãi đáp bị ‘’Hot LZ’’, tức là đã lâm
tình trạng nguy hiểm bất lợi nhất đối với một cuộc hành quân trực
thăng vận. Vào năm 1963, chiến thuật này đang ở giai đoạn thử nghiệm
và trận Ấp Bắc lại là một của những lần thao dượt đầu tiên. Và qua
báo chí (với đối tượng là quần chúng tại Mỹ) thì cuộc hành quân trực
thăng vận lại được viết lại một cách ‘’tuyệt với’’ như sau: ‘’Đi ra
trận (trên trực thăng) giống như ngồi ghế dành riêng cho báo chí dự
khám một trận football…Và thế rồi, thấy dưới kia một tên việt cộng
chạy loạng choạng, ngả nghiêng trên đồng ruộng…Trực thăng xà xuống
đuổi theo…(5) ‘’Cảnh mô tả của Halberstan nhân ngày sinh nhật 28
tuổi, được ‘’ông thầy John Paul Vann’’ cho đi theo dự cuộc ‘’săn
người’’, như bọn lãnh chúa thời Trung Cổ dùng chó săn tù nhân để
giải trí. Trận chiến không cân sức này (vì một bên chỉ là đám du
kích ngu ngơ như vừa mô tả trên), một bên lại được Cố Vấn Mỹ tận
tình ‘’làm thầy chỉ dạy’’ cách đánh giá của Halberstan về Vann nói
riêng, và các Cố Vấn Mỹ nói chung, đồng thời được yểm trợ phi pháo
tối đa) đáng lẽ kết thúc mau chóng với thắng lợi dễ dàng, vẻ vang
(như cách kể lại của Hallberstan, hoặc như trong combat, bộ phim
chuyện chiến tranh dài nhiều kỳ chiếu trên TV, Đài 11 của Quân Đội
Mỹ ở Việt Nam), nhưng khi vị sĩ quan Việt Nam chỉ rặc một loại
‘’raggedy-ass little bastard’’, chữ nghĩa của Neil Sheehan, Ký Giả
Hãng Thông Tấn UPI (5bis), nên kéo theo lần chết chóc, thất bại cho
Cô Vấn, Quân Đội Mỹ, làm hư hỏng ước tính chiến lược chính trị của
chính quyền Mỹ.
Và khi trận chiến kết thúc, (thì tựa như những lời kể lại khác nhau
về bi kịch ở Cổng Rashomon của phim ảnh đạo diễn Kurosawa), Tướng
Cao báo cáo về Bộ Tổng Tham Mưu và Dinh Độc Lập những chiến thắng to
lớn. Tướng Paul Harkins, Tư Lệnh MACV tiếp lời gởi về Ngũ Giác Đài,
đến Tướng Maxwell Taylor, Tham Mưu Trưởng Liên Quân và Bộ Trưởng
Quốc Phòng McNamarra những tin tức thắng lợi ‘’có tính khả quan’’.
Viên Bộ Trưởng tài gỏi nầy liền ra lệnh Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh
Hạm Đội Thái Bình Dương đến ngay Sài Gòn hai ngày sau để xét xem sự
thực chiến thắng. Vị Đô Đốc đưa ra nhận định: ‘’Đấy là một chiến
thắng của Quân Đội Nam Việt Nam vì quân cộng sản đã bỏ vị trí mà
chạy’’ Nhận định được quan chức quân sự, chính khách cao cấp người
Mỹ tán đồng, vì họ cho rằng, theo chiến tranh quy ước (như vừa xẩy
ra ở Đại Hàn 1950-1953), khi địch quân (nay cũng là một đối tượng có
chung tính chất, phương thức tác chiến như bộ đội cộng sản Bắc Hàn)
bỏ vị trí, tức là quân chính phủ đã thắng lợi (6). Nhưng Trung Tá
John Paul Vann, Cố Vấn của Đại Tá Bùi Đình Đạm thì lại có nhận định
khác hẳn, và chuyển cho báo chí bản đánh giá của riêng mình về cuộc
hành quân: ‘’Đấy là một cuộc trình diễn thảm hại chẳng ra cái đếch
gì cả…(7)’’. Vài tháng sau, khi bị mất chức, viên sĩ quan nầy tấn
công thẳng thừng giới chức Mỹ lẫn Việt, Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn và
Washington. Y cho rằng: ‘’Thành phần lãnh đạo Mỹ muốn lấp liếm sự
thật về chiến tranh Việt Nam, do từ tham vọng quá độ…Muốn dựng nên
(một cách giả tạo) thành quả cụ thể chắc ăn’’. Về phía chính phủ Sài
Gòn thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị cáo buộc: ‘’Cố duy trì tình
trạng bất an ninh để nhận viện trợ Mỹ!!’’ (8). Chẳng biết căn cứ vào
đâu, Vann cho rằng: ‘’Thay vì thả Tiểu Đoàn 1 Dù xuống phía Đông của
Ấp Bắc để chận đường tháo lui của lực lượng cộng sản, thì Tổng Thống
Diệm lại ra lệnh thả xuống phía Tây vào lúc trời hoàng hôn, gây nên
cảnh giao tranh hỗn loạn giữa hai đơn vị bạn (quân Dù và Sư Đoàn 7
Bộ Binh)’’. Sự nhầm lẫn (cố ý) nầy được Phạm Phong Dinh kể lại trong
‘’Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Cơn Bão Lửa, trang 118’’.
Đối với những nhân sự trực tiếp tham dự trận đánh cũng có cách tường
thuật đối nghịch. Đại Úy Lý Tòng Bá, Đơn Vị Trưởng Đại Đội 7 Cơ Giới
(chiến xa) thì cho rằng thiệt hại hai bên ngang nhau, Đại Đội của
ông mất 8 Xạ Thủ đại liên, phía cộng sản để lại 8 xác chết đếm được.
Đại Úy Bá nói thêm: ‘’Sở dĩ các Xạ Thủ đại liên bị thiệt mạng là do
Bộ Tổng Tham Mưu không lưu ý phiếu trình của ông về việc thiết trí
các tấm chắn đạn trên pháo tháp của xe M-113, cũng một phần địa thế
không thuận tiện, nên ông đã phải bố trí các thiết vận xa theo đội
hình hàng dọc khiến cuộc điều quân bị chậm chạp. (9)’’ Khác với lần
đụng tr ận sau nầy (cũng ở Ấp Bắc, đầu năm 1964), ông đã bố trí Chi
Đoàn Thiết Vận Xa theo đội hình hàng ngang, thêm đơn vị Biệt Động
Quân của Đại Úy Sơn Thương tùng thiết, nên ông đã ‘’đấm một quả thôi
sơn vào mặt việt cộng’’ với chiến thuật điều quân nhanh chóng hiệu
quả (9). John Scanlon kể lại chuyện này cho John Paul Vann. Vann
truyền lại cho những ‘’tử đệ’’ thân tín trong báo giới (do chính N.
Sheehan hãnh diện tự nhận), những gã nầy tiếp đưa lên báo và sau này
viết thành sách được giới phê bình Mỹ đánh giá: ‘’Một cuốn sách viết
về lịch sử (Việt Nam) tuyệt tác nhất’’ Báo Chicago Sun Times đánh
giá về ‘’Việt Nam, A History’’ của Stanley Karnow’’.
Nhưng dù có ác tâm, thiên kiến bao nhiêu, những cây viết ‘’trung
trực, giỏi gian’’ kể trên của báo giới Mỹ cũng không thể có một lời
xuyên tạc nào đối với Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, đơn vị chịu hoàn cảnh tác
chiến bất lợi nhất thả xuống trận địa lúc trời sập tối, không định
rõ được địa thế, vị trí quân bạn. Và tất nhiên, cũng chịu thiệt hại
lớn nhất, Chết 19, bị thương 33, gồm Đại Úy Nguyễn Trung Hiếu, chỉ
huy Đại Đội nhảy xuống đầu tiên và viên Trung Sĩ Cố Vấn Mỹ. Phía Mỹ
bị thiệt hại 5 trực thăng và những Phi Hành Đoàn đồng tử trận.
Báo cáo về kết quả trận đánh không chỉ giới hạn trong phạm vi quân
sự, những thành phần chống đối chiến tranh Việt Nam, hoặc có hiềm
khích với cá nhân Tổng Thống Diệm, vợ chồng Cố Vấn Nhu, nhân cơ hội,
nại cớ chính quyền Miền Nam bất lực, thúc dục Tổng Thống Kennedy
quyết định loại bỏ người khai sinh nên nền Cộng Hòa Miền Nam. Tân
Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn tháng 8 năm 1963 bật đèn hiệu
cho đánh Tướng Tá để thực hiện âm mưu nhẫn tâm, vụng về nầy mà thật
sự đã có mầm mống sâu xa từ nhiều phía. Trước tiên, phải kể đến
Averell Harriman, sau nầy là Đại Sứ toàn quyền của chính phủ Johnson
(1965), người được đánh giá là một Nhà Ngoại Giao đa năng, tinh
không qua chủ trương hoàn hoãn với phe cộng sản (cụ thể với Liên Sô
từ những năm 40 khi là Đại Sứ ở đây), và sau nầy, năm 1963, khi
thương thảo cùng Liên Sô về Hiệp Ước Ngưng Thử Vũ Khí Nguyên Tử hoặc
đồng thuận cùng Trung Cộng về một giải pháp trung lập Lào, có thêm
sự tán đồng mạnh mẽ của Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Chester Bowles
với lời nói tin tưởng: ‘’Biện pháp trung lập hóa Lào, là mẫu mực mở
rộng cho toàn vùng Đông Nam Á’’ và nhất là Roger Hilsman Thứ Trưởng
Ngoại Giao, Đặc Trách Đông Nam Á Vụ. Nhưng bởi Tổng Thống Diệm lại
hoàn toàn phản đối quan điểm nấy vì ‘’trung lập hóa Lào tức là bật
đèn xanh cho bộ đội Bắc Việt xâm nhập vào Nam theo đường Hồ chí
Minh’’ chạy dọc theo sườn Tây Trường Sơn. Từ Đèo Ngang, Bắc Đồng
Hới, đoàn xâm nhập rẽ vào đất Lào, thay bộ đồ xanh của bộ đội Pathét
Lào và chiếc nón lưỡi trai, rồi từ đó đi theo hành lang an toàn (do
Pathét Lào chiếm đóng, kiểm soát) để về Tchépone, đi sâu xuống vùng
Ba Biên Giới (9 bis), chấm dứt nơi điểm hẹn Lộc Ninh, Hớn Quản của
miền Đông Nam Bộ. Từ khác biệt quan điểm chiến lược-chính trị đến
những hiềm khích mang sắc thái cá nhân, tất cả đồng bùng nổ không
che dấu khi có hoàn cảnh thuận tiện. Và trong chính giới Mỹ, sự mâu
thuẫn về chính sách lại càng nổi bật qua sự kiện phản ảnh tính cách,
phản ứng, quan điểm khác biệt giữa những cá nhân Averell Harriman đã
thẳng thừng từ chối chở Đại Sứ Nolting từ Tòa Bạch Ốc về Trụ Sở Bộ
Ngoại Giao sau một phiên họp, vì vị Đại Sứ đã cực lực chống đối giải
pháp thay thế, lật đổ Tổng Thống Diệm (10). Và Roger Hilsman là tác
giả bức Công Điện ngày 24 tháng 8 năm 1963 gởi về Tòa Đại Sứ Mỹ ở
Sài Gòn để nơi đây bật đèn tín hiệu cho đám Tướng Tá giờ quyết định
hành động. Bức điện văn tai họa này sau đó chính Tổng Thống John
Kennedy phải nhận định lại là một ‘’sai lầm nghiêm trọng’’, vì lúc
ấy ông đang nghỉ mát tại Cape Cod nên nghĩ rằng các Cố Vấn cao cấp
như Ngoại Trưởng Dean Rusk, Bộ Trưởng McNamara, Đại Tướng M. Taylor
đồng chấp nhận. Hóa ra tất cả chỉ do từ bộ ba Harriman, Hilsman và
M. Forrestal, Thứ Trưởng Quốc Phòng của McNamarra (11). Tóm lại,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ có ‘’tội’’ do đã thấy điều sai lầm của
Hiệp Định về Lào mà Harriman và Hilsman cố công gây dựng để tạo
thành quả cho tương lai mai hậu đối với sự nghiệp chính trị của
riêng bản thân của họ.
Trở lại vấn đề quân sự của Nam Việt Nam, Hiệp Định đình chiến ở Lào
ký kết ngày 23 tháng 7 có ngay hệ quả, từ những nhóm du kích cấp
Tiểu Đội, Trung Đội với những vũ khí thô sơ như súng ngựa trời, lựu
đạn nội hóa, đạp lôi, chông, mìn tự chế…lực lượng cộng sản chỉ trong
một thời gian ngắn sau khi ‘’đường đi B (Miền Nam) được thông do
hiệp định ‘’đình chiến’’ ở Lào tạo điều kiện, hoàn cảnh thuận tiện’’
đã có khả năng phát triển những trận đánh lên cấp đại đội, tiểu
đoàn. Trận Ấp Bắc đầu năm 1963 vừa kể trên là một khởi đầu nguy
biến, tiếp theo cuộc biến loạn 1.11 ở cuối năm như một đập vỡ tồi tệ
với lần giải thể ngay lập tức 2000 Ấp Chiến Lược theo lệnh của Dương
Văn Minh đẩy tình hình quân sự Miền Nam vào thế hiểm nghèo, thụ
động. Ngày 1 tháng 11 năm 1964, lần đầu tiên Phi Trường Biên Hòa bị
pháo kích, cũng là một căn cứ quân sự lớn đầu tiên của Miền Nam bị
tấn công phá hoại bởi một đơn vị hỏa lực pháo, cối, loại vũ khí của
chiến tranh quy ước tháng 12 cùng năm 64.Tiểu Đoàn 39 Biệt Động
Quân, Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến bị tổn thất nặng bởi rơi vào
thế trận phục kích ở Bình Giả, Phước Tuy (Đông Nam Sài Gòn khoảng
100 cây số đường thẳng) do một trung đoàn cộng sản thực hiện (các
trung đoàn nấy sau đó biến chế thành sư đoàn Công Trường 7, thành
phần nòng cốt của lực lượng vũ trang thống thuộc Bộ Tư Lệnh Mặt Trận
Giải Phóng) tháng 6 năm 1965 hai trung đoàn Q762 và Q763 của công
trường 7 trên lại thực hiện một cuộc vận động chiến quy mô hơn ở Xã
Đồng Xoài, Bình Dương (Bắc Sài Gòn) gây thiệt hại lớn cho Tiểu Đoàn
2 Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 7 Dù và Tiểu Đoàn 52
Biệt Động Quân. Sài Gòn lẫn Tòa Bạch Ốc rúng động, bởi chiến trường
chỉ cách Thủ Đô Miền Nam không quá 100 cây số đường thẳng. Ấp Nhà
Việc Phú Hòa Đông bên sông Sài Gòn đã là những chiến trường phải
dùng đến máy bay dội bom yểm trợ lực lượng bộ binh mới vào được.
Thế nước quả đã đến hồi thật sự nguy ngập. Nhưng trước khi Thủy Quân
Lục Chiến Mỹ kịp phối trí quân để tăng cường phòng thủ vùng biển
Miền Nam thì đơn vị bách thắng, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với người chỉ
huy Ngô Quang Trưởng đã lập nên kỳ tích hiển hách. Chữ nghĩa không
là lời nói văn hoa. Chúng ta hãy cùng sống lại khúc hùng ca với máu
mỗi người lính đổ xuống nơi những chiến địa hung hiểm trên từng vùng
đất khổ quê hương.
Với 100 trực thăng đổ quân và võ trang yểm trợ, ngày 27 tháng 4 năm
1964 Tiểu Đoàn 5 nhảy xuống Mật Khu Đỗ Xá, vùng Quận Minh Long,
Tây-Bắc Quảng Ngãi sát biên giới Kontum, chận đứng kế hoạch điều
quân của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B1 (danh hiệu phân chia vùng tác chiến
của bộ tổng quân ủy cộng sản Hà Nội Miền Nam Khu ‘’B’’), mưu định
cắt Miền Trung nước Việt Nam theo đường hành lang chạy dài từ vùng
rừng Kontum xuống bờ biển Quảng Ngãi (như đã thực hiện một lần trong
chiến tranh 1945-1954). 15 trực thăng trúng đạn, Tiểu Đoàn chịu tổn
thất ngay từ giờ phút đầu tiên xuống bãi đáp, bốn Đại Đội tác chiến
lẫn Đại Đội chỉ huy liên tiếp chạm địch, nhưng với chiến thuật điều
binh tấn công thần tốc, sau ba ngày kích chiến, Tiểu Đoàn phá vỡ căn
cứ địa kiên cố bất khả xâm phạm của cộng sản đã xây dựng từ giai
đoạn chiến tranh lần thứ nhất 1945-1954. Từ căn cứ địa này, lực
lượng cộng sản mới có thể tràn xuống đồng bằng, thành lập những
‘’vùng giải phóng’’ mới. Các chiến khu Ba Tơ, Mộ Đức một thời vang
danh là mở rộng từ căn cứ địa Đỗ Xá này. Tiểu Đoàn tịch thu 160 súng
đủ lại, kể cả những súng cộng đồng (của phía cộng sản) được tìm thấy
đầu tiên ở chiến trường miền Nam (12). Muốn biết tầm quan trọng của
trận chiến, ta hãy lưu ý đến chỉ tiêu kỹ thuật: ‘’Theo thống kê của
chuyên viên quân sự: Muốn lấy được một vũ khí thì nhất phải có một
binh sĩ bị tử thương, và nếu đã có một binh sĩ tử thương thì ắt phải
có ba binh sĩ bị thương, mất năng lực chiến đấu’’. Đơn vị cấp Tiểu
Đoàn Nhảy Dù vào thời điểm kia có quân số hành quân trung bình từ
500 đến 600 người, khinh binh chưa được trang bị súng XM-16, một
Trung Đội tác chiến chỉ có hai khẩu AR-15. Cần biết như thế để thấy
ra sức chiến đấu uy mãnh của Tiểu Đoàn 5 đối với một lực lượng địch
chắc hẳn phải là cấp trung đoàn chính quy (không kể đơn vị du kích,
lực lượng địa phương) mới có được thành quả chiến thắng với số vũ
khí tịch thu như trên. Trở lại chiến trường miền Nam, chiến thắng ở
Đỗ Xá năm 1964 được lập lại thêm một lần nơi cửa ngõ Sài Gòn, đánh
tan lời tự tán dương ‘’bộ đội anh hùng vũ trang mặt trận giải phóng
niền Nam. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng’’ của những đơn vị cộng sản vùng miền
Đông Nam Bộ. Tháng 2 năm 1965 dọc Quốc Lộ 15, đường đi Sài Gòn-Vũng
Tàu, phối hợp với đơn vị bạn. Tiểu Đoàn 7 Dù, làm thành phần nút
chận để không cho địch quân chạy qua Quốc Lộ 15, khoảng núi ông
Trịnh, Phước Tuy (Bà Rịa), Tiểu Đoàn trực thăng vận nhảy xuống mật
khu Hắc Dịch, xong từ trong lòng địch đánh bung ra. Trận chiến kéo
dài từ lúc ngày vừa rạng qua đêm khuya. Khoảng rừng tối tăm dày đặc
sau hai ngày tác chiến rụng sạch cành lá bởi đạn pháo, đến sáng thứ
ba, lính Tiểu Đoàn 7 thấy qua màn khói đục bóng dáng quân bạn chạy
thấp thoáng truy kích tàn binh địch, thực hiện cuộc rượt bắt cá nhân
đối với những cán binh cộng sản còn lại của trung đoàn thuộc công
trường 7.
Tiểu Đoàn 5 không chỉ đánh phụ hận cho đơn vị bạn những Tiểu Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân bị tổn thất trong trận chiến mùa
Đông 1964, Cũng do những kẻ địch chung phiên hiệu công trường 7 kia,
cũng nơi vùng rừng Bình Giả. Tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) nầy. Nhưng đã
lập nên thế cân bằng an toàn chiến thuật cho mặt trận Vùng 3 và khu
vực Biệt Khu Thủ Đô. Bởi nếu phía cộng sản thắng lợi nơi vùng chiến
trường nầy. Đường về Sài Gòn chỉ cần một đêm điều quân (Năm 1975,
chúng ta đã chứng kiến hướng tấn công (Sài Gòn) nầy được thực hiện
với thời gian chưa tàn điếu thuốc ở những ngày cuối tháng Tư)
Lần cứu nước đầu tiên nầy có mấy ai hay, kể cả những chuyên viên
nghiên cứu tình hình, hoạt động-chính trị quân sự của hai phía
Mỹ-Việt ?
Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng vinh thăng Trung Tá tại mặt trận, ân
thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương vào năm 33 tuổi, chuyển về
nhậm chức Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù (đến 15 tháng 12 năm 1965,
đơn vị mới biên chế thành cấp Sư Đoàn). Hằng ngày, ông đi lặng lẽ từ
Văn Phòng Tham Mưu Trưởng xuống nhà ăn binh sĩ, qua Khu Trung Tâm
Huấn Luyện Tân binh, Huấn Luyện Nhảy Dù. Ánh mắt sắc, nghiêm, nhưng
nhân hậu không bỏ sót một hình ảnh, sinh hoạt nhỏ nhặt nào dù chỉ là
của một tân binh.
Ghi Chú:
1.- Marilyn B. Young the Vietnam Wars 1945-1990 Harper Perenial NY,
USA 1999 (p. 92)
2.- Stanley Karnow Vietnam A History Penguin Books NY, USA 1984
(p.280)
3.- Marilyn B. Young (ibid p. 94)
4.- Stanley Karnow (ibid p. 304)
5.- Marilyn B. Young (ibid p 91)
5bis.- Chính Đạo Việt Nam Niên Biểu. Nhà xuất bản Văn Hóa Houston
TX, USA. Trang 266.
6.7.8.- Stanley Karnow (ibid p. 278, 279)
9.- Lý Tòng Bá Hồi Ký 25 Năm Khói Lửa. Nhà xuất bản Tú Quỳnh CA, USA
1995. Trang 78.
10.- Stanley Karnow (ibid p.304)
11.- Robert S. McNamara In Retrospect Random House NY, USA (p.
52-55)
12.- Đoàn Thêm Những Ngày Chưa Quên. Nhà xuất bản Phạm Quang Khai
Sài Gòn 1966 (Trích đoạn năm 1965)
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ HAI
Bắt đầu mùa Hè 1966, miền Trung dậy nên cơn bão lửa ly khai từ sự
kiện Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng 1 (Đà Nẵng) vào Sài
Gòn họp Hội Đồng Quân Lực (10 tháng 3) và bị những Tướng lãnh Trung
Ương (Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Hội Đồng. Nguyễn cao Kỳ Chủ Tịch Ủy
Ban Hành Pháp Trung Ương. Nguyễn Hữu Có Tổng Ủy Viên Quốc Phòng)
cách chức. Ngoài lý do Tướng Thi ‘’bất tuân thượng lệnh’’ vì đồng
thuận để những nhân vật khuynh tả, phản chiến (lãnh tụ Phật Giáo
khối Ấn Quang, Trí Quang nhóm Giáo Sư Đại Học Huế, Thị Trưởng Đà
Nẵng Bác Sĩ Mẫn, một người du học Pháp về) khuynh loát, giật dây,
ông còn là một đe dọa chính trị đáng ngại đối với chức Chủ Tịch Hành
Pháp (Thủ Tướng) của Nguyễn cao Kỳ, cũng cần tính đến những hiềm
khích, đấu đá vì hành vi tư cách cá nhân giữa hai người. Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Chuân Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Huế) được cử vào Đà Nẵng
thay thế Tướng Thi giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn, Đại Tá Phan Xuân
Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân thay thế Tướng Chuân chỉ huy Sư
Đoàn 1.
Ngày 12 tháng Ba, lấy cớ yêu cầu phục hồi chức vụ cho Tướng Thi,
phong trào chống đối chính phủ trung ương nổ bùng ở Huế, Đà Nẵng,
cũng đồng thời đòi chính quyền Quân Nhân (Sài Gòn) giải tán, thành
lập một chế độ dân cử, sinh viên, thanh niên võ trang thuộc Lực
Lượng Tranh Thủ Cách Mạng dưới quyền điều động của nhóm Tăng Sĩ Phật
Giáo quá khích thực sự tiến hành cuộc khởi loạn (trong giai đoạn này
cũng như vào thời gian sau, có nhiều xác chứng phong trào đã hoàn
toàn bị dẫn dắt bởi cán bộ cộng sản nội thành của những Tỉnh cực Bắc
Trung Bộ, Trí Quang sau năm 1975 là một bằng cớ). Chính phủ Quân
Nhân ở Sài Gòn tạm thời hòa dịu, hứa hẹn thành lập Hội Đồng Tư Vấn,
soạn thảo Hiến Pháp trong vòng hai tháng để chuẩn bị bầu Quốc Hội
Lập Hiến, sau đó sẽ có bầu Tổng Thống vào năm 1967. Chủ Tịch Hành
Pháp Nguyễn cao Kỳ còn xác định rõ một thời điểm, 15 tháng 8 sẽ bầu
Quốc Hội (sau dời lại tháng 10 năm 1966). Nhưng tất cả chỉ là những
giải pháp tạm thời, bề mặt, phe tranh đấu (thành phần chỉ huy của
phong trào Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng) tiếp tục biểu dương uy thế
và bày ra điều yêu sách cuối cùng: Chấm dứt chiến tranh, người Mỹ
ngưng oanh tạc và rút quân khỏi Việt Nam bất chấp chiến thuật khôn
ngoan của Trí Quang qua buổi thuyết giáo (18 tháng 4) tại Chùa Từ
Đàm: ‘’Kêu gọi Phật Tử ngưng biểu tình, Quân Nhân ly khai nộp súng
đạn lại cho chính phủ’’. Những cuộc biểu tình ‘’chống Mỹ cứu nước’’
ở Huế, Đà Nẵng tiếp theo lan rộng khắp cả nước, tại những Thành Phố
quan trọng, nơi có quân Mỹ đồn trú. Tình hình trở nên xấu hơn khi
xẩy ra sự kiện một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ xông vào đám biểu
ngữ bài Mỹ (viết bằng Anh Ngữ) trong một buổi biểu tình tại Huế.
Chính phủ Quân Nhân tại Sài Gòn đợi đến lúc phong trào trở nên quá
khích một cách lộ liễu (bài Mỹ chống Công Giáo), để có duyên cớ
chính đáng (nhất là giải thích với Tòa Đại Sứ, dư luận báo chí Mỹ)
gởi quân trừ bị ra Đà Nẵng. Lực lượng Quân Đội ly khai phần đông là
Quân Nhân thuộc các đơn vị chuyên môn nên không thể nào đương cự với
Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân từ Sài Gòn đưa ra. Cuối
cùng, đến ngày 16 tháng 9, cuộc binh biến miền Trung hoàn toàn bị
dẹp tan. Dẫu Trí Quang dùng đến biện pháp cuối cùng, bày bàn thờ ra
mặt lộ ngăn cản hướng điều quân của phe trung ương. Các Tướng lãnh
chỉ huy những đơn vị Vùng 1 bị đưa ra Tòa, chịu hình phạt quân kỷ và
buộc giải ngũ. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh
(Quảng Ngãi) được chỉ định nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. Đại Tá Ngô
Quang Trưởng, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù giữ nhiệm vụ Tư Lệnh
Sư Đoàn 1. Đại Tá Trưởng có Đại Tá Lê Văn Thân Phụ Tá, Đại Tá Thân,
một trong Tứ Kiệt của Binh Chủng Pháo Binh. Người đứng đầu nhóm bốn
người tuấn kiệt này là Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng vị Tướng thanh
liêm nhất (theo dư luận chung của quân dân miền Nam mà báo Diều Hâu,
Sài Gòn đã phổ biến đề cao).
Đại Tá Ngô Quang Trưởng nhận đơn vị, Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong một
hoàn cảnh bất lợi toàn diện. Những Quân Nhân giữ chức trọng yếu, kể
cả Sĩ Quan chỉ huy trung cấp và Hạ Sĩ Quan (nếu là gốc Phật Giáo)
đồng bị tuyên chuyển sang những đơn vị thuộc các vùng chiến thuật
khác, người còn lại không tin những bạn đồng ngũ mới thuyên chuyển
đến (tình hình tương tự ở các cấp chính quyền, quân sự miền Nam như
sau đảo chánh 1 tháng 11.1963). Nhưng Đại Tá Trưởng vững tin nơi bản
lĩnh cá nhân mình, cùng khả năng đơn vị, đã được thử sức sau hơn
mười năm dài chiến trận miền Nam. Ông cũng rất cậy trông vào vị Tư
Lệnh Phó, người có khả năng Tham Mưu, tổ chức cao, tâm chất trung
trực, đạo đức, thế nên chỉ sau một thời gian ngắn, Sư Đoàn đã chỉnh
đốn lại đội ngũ, phục hồi tư thế chiến đấu như hằng có. Bắt đầu với
những sĩ quan trẻ, những sĩ quan cấp Úy thuộc các Khóa 14, 16 đến 20
Võ Bị Đà Lạt hoặc các Khóa tương đương của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức, đơn vị dần thâu đạt những tiến bộ vượt bực sau một thời gian
ngắn ngũi trong vòng một năm. Chiến trận Mậu Thân 1968, Hành Quân
Lam Sơn 719 và cuộc phản kích mùa Hè 1972 sau nầy là những bằng cớ
chứng thực. Đơn vị thuộc quyền của Người Chỉ Huy Ngô Quang Trưởng là
Sư Đoàn Bộ Binh tác chiến hàng đầu của Quân Lực. Không chỉ với Quân
Đội miền Nam nhưng nếu so sánh cùng thế giới, chúng ta vẫn giữ toàn
quyền hãnh diện. Đại Tướng Abrams sau nầy, khi thay thế Tướng
Westmoreland chỉ huy Quân Đội Mỹ tại Việt Nam đã nói cùng những sĩ
quan, Tướng lãnh của ông: ‘’Sư Đoàn của Tướng Trưởng tác chiến trong
rừng giỏi hơn chúng ta’’ (13). Sự biến đổi thần kỳ nầy không là
chuyện hoang đường. Trận làng Lương Cổ, Thừa Thiên đầu năm 1967 là
một thí dụ điển hình của lần vượt dậy hào hùng kia.
Hệ thống các làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc Huyện Hương Trà,
Thừa Thiên, Tây-Bắc Thành Phố Huế, kết thành một giải hành lang
thiên nhiên mà các đơn vị bộ đội cộng sản từ các mật khu vùng
Tây-Nam Huế (A Sao, A Lưới), thường sử dụng để xâm nhập tiếp cận
Thành Phố (do cố tránh các tiền đồn thượng nguồn sông Hương, mặt Nam
Thành Phố). Những làng nầy từ chiến tranh 1945-1954 đã là những căn
cứ địa vững chắc ‘’những chiến khu-vùng tự do’’, mà quân đội Liên
Hiệp Pháp không thể nào kiểm soát được, bởi hệ thống kinh lạch của
ba con sông, sông Hương, sông Bồ, sông Mỹ Chánh tạo nên một vùng
trũng thấp nằm giữa Phá Tam Giang, cửa Thuận An và Quốc Lộ I ngăn
cản sức tiến của bộ binh, khả năng cơ động của những người chỉ huy
quân sự vùng Thừa Thiên-Huế. Lực lượng cộng sản bám chắc củng cố
vùng bản lề nầy bởi đấy cũng là nơi ém quân để mở những chiến dịch
quan trọng: Cắt đường số I, chận viện lên mặt phía Bắc (Quảng Trị,
Đông Hà và xa hơn, Cồn Tiên, Gio Linh, Khe Sanh…) Đại Tá Trưởng sử
dụng một Tiểu Đoàn Bộ binh cơ hữu làm thành phần nút chặn dùng Đại
Đội Thám Kích của Sư Đoàn, Đại Đội Hắc Báo và Tiểu Đoàn 9 Dù (tăng
phái), hợp cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M-113, đơn vị thống thuộc
của Sư Đoàn mở hai mũi dùi tấn công chính vào hệ thống công sự, giao
thông hào mà có lẽ đã đào từ ngày bắt đầu cuộc chiến và càng ngày
càng củng cố độ dày để chịu đựng nổi pháo binh cùng phi cơ oanh
kích. Và cũng có thể đây là lần đầu tiên phía bộ đội cộng sản gặp
phải một đối thủ kỳ lạ những địch thủ tiến thẳng vào hàng rào hỏa
lực của họ. Trận chiến kéo dài từ sáng sớm kéo qua trưa, phía Nhảy
Dù, Bộ Binh, Thiết Giáp đồng bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không
thể tiến vào khu làng qua những cánh đồng ngập nước. Cuối cùng Đại
Tá Trưởng chuyển lệnh trực tiếp đến cùng với Thiếu Tá Nguyễn Thế
Nhã, Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị tăng phái cho khu chiến thuật: ‘’Đơn vị
mới thành lập (do biết rõ khi ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Sư
Đoàn Dù), anh lại vừa thay thế anh Huệ (viên Tiểu Đoàn Trưởng vừa tử
trận tháng trước trong trận Đèo Ba Giốc, vùng Phi Quân Sự), thế nên
tất cả thành bại của đơn vị là ở trận nầy đây.’’ Ông không nói hết
lời, nhưng người Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng đơn vị Dù tăng phái hiểu
được ý: ‘’Đây cũng là lúc quyết định một phần sự nghiệp riêng của
chính ông, viên Tư Lệnh chiến trường một Tướng lãnh xuất thân từ
Binh Chủng Nhẩy dù và cả danh dự Binh Chủng cũng sẽ được chứng thực
nơi chiến trường hiểm hóc, xa xôi này’’. Thiếu Tá Nhã chuyển lại
lệnh cho các Đại Đội Trưởng tác chiến. Và trên cánh đồng loáng nước,
trong ánh sáng chập choạng của buổi chiều diễn ra một cảnh tượng
khốc liệt hùng tráng…Những chiếc M-113 theo lệnh của Đại Úy Hóa, Chi
Đoàn Trưởng đồng mở bung pháo tháp, các xạ thủ đại liên 50 siết cứng
ngón tay vào lẩy cò tuôn loạt đạn công phá mở toang các vị trí cố
thủ của đơn vị việt cộng, lính Nhảy Dù tùng thiết vượt qua mặt chiến
xa, tiến lên thanh toán mục tiêu bằng cận chiến. Những Thiếu Úy
Thuận Văn Chàng, Phạm Văn Thành, Chuẩn Úy Nguyễn Thành Văn…xông lên
trước hàng quân với lựu đạn mở chốt cầm sẵn ở tay. Thân hình họ lảo
đảo ngã xuống bờ ruộng xong đứng lên lại với những tiếng hô…xung
phong…xung phong hòa lẫn tiếng đạn súng tay nổ bục trong thân thể,
da thịt người vì đường đạn đi quá ngắn. Đám bộ đội cộng sản cố thủ
không lường được thế trận với những người lính đối phương quá đỗi
kiên cường, nên đồng loạt đứng dậy khỏi giao thông hào, đưa cao tay
đầu hàng. Trận chiến kết thúc với lời khai: ‘’Chúng cháu được lệnh
cố thủ vị trí vì đây là vùng giải phóng, quê nhà của đồng chí Đại
Tướng!’’ Hóa ra Đại Tá Ngô Quang Trưởng đã phá vỡ huyền thoại từ đã
lâu được phổ biến trong bộ đội cộng sản miền Bắc: ‘’Quân giải phóng
đã kiểm soát được ba phần tư lãnh thổ miền Nam, nhất là những vùng
căn cứ địa cách mạng cũ (trước năm 1954), hoặc cơ sở địa phương, quê
hương các đồng chí lãnh đạo’’. Làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá là
quê hương của Nguyễn chí Thanh, nhưng bộ đội miền Bắc đã không vào
tiếp thu với ‘’chào đón của nhân dân giác ngộ cách mạng’’, mà bởi
những người lính Cộng Hòa theo một cách thế khác hẳn lời tuyên
truyền. Tuy nhiên, trận làng Lương Cổ đầu năm 1967, hoặc lần đánh
bật toàn diện hạ tầng cơ sở, đơn vị du kích, lực lượng địa phương
của bộ đội cộng sản vùng mật khu Phú Thứ, Tây-Nam Huế, bên trái Quốc
Lộ 1 đường đi Đà Nẵng vào khoảng gần cuối năm sau nầy chỉ là phần
dạo đầu. Phải đợi đến buổi thử sức toàn diện. Khi cộng sản quyết tâm
giải phóng miền Nam bằng cuộc Tổng công kích-Tổng nổi dậy theo lời
thúc dục từ Hà Nội, với lời thơ ‘’Chúc Tết’’ của Hồ chí Minh đọc
trong đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân 1968. Trận thử sức làm sáng tỏ một
điều đơn giản cao quý: Quân đội của bên nào thật sự nắm giữ sắc cờ
Nhân Nghĩa của Quê Hương.
27 tháng 2 năm 1968. Những giờ cuối cùng ở Ngũ Giác Đài, McNamara sử
dụng quyền lực còn lại sau 1558 ngày nắm giữ chức vụ trọng yếu nhất
nền Quốc Phòng Mỹ để phủ quyết yêu cầu của Tướng Westmoreland về đề
nghị tăng cường thêm 200.000 nhân sự bổ sung trong các lãnh vực
Chính Trị, Kinh Tế, Quân Sự và Chiến Tranh Tâm Lý. Hành động ‘’được
ăn cả ngã về không’’ gọi là khôn ngoan nầy không phải do trí lực
sáng tạo riêng, nhưng ông ta đã họ được từ Dean Acheson, theo cách
người nầy đã một lần từ nhiệm chức vụ Thứ Trưởng Tài Chánh khi không
đồng ý với chính sách tài chánh của Tổng Thống F. Roosevelt đầu thập
niên 1930. Nhưng thật chỉ là một cách nói, bởi McNamara đã giữ chức
vụ lâu hơn bất kỳ vị tiền nhiệm nào, lâu đến bảy năm với khả năng
quyền lực đặc biệt giành riêng qua hai đời Tổng Thống. Danh tính
‘’McNamara’’ đã được dùng để đặt tên cho một phòng tuyến căn cứ hỏa
lực chạy dài từ Cửa Việt ở biển Đông đến Trại Lực Lượng Đặc Biệt
Làng Vei sát biên giới Lào-Việt. Cần nói thêm một điều: Chiến tranh
Việt Nam có lúc được giới nghiên cứu chiến lược quốc tế gọi là
‘’cuộc chiến McNamara’’ vì người này đã ‘’tổ chức’’ hoạt động quân
sự ở Việt Nam kia thành một tiến trình tiếp vận khổng lồ với phí tổn
đến 4 Tỷ Đô la khởi đi từ 1965, thời điểm lực lượng bộ binh Mỹ bắt
đầu tham chiến ở Việt Nam. Sư Đoàn 1 Không Kỵ, lực lượng bộ binh cơ
động nhất thế giới với một Sư Đoàn trực thăng hơn 400 chiếc cơ hữu
cũng là sản phẩm đắc ý nhất của ông Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới sau
lần rời chức vụ. Nhưng bởi không muốn mang danh là người có liên hệ
đến một thất bại, nên đang trong lúc cao điểm sôi bỏng nhất của cuộc
chiến. Bộ Trưởng Quốc Phòng Liên Bang Bắc Mỹ, McNamara từ chức.
Một tháng trước lần McNamara từ nhiệm, 36 của 44 Tỉnh lỵ, 5 của 6
Thành Phố, 64 của 242 Thị Trấn, Quận Lỵ Thành Phố Miền Nam đồng loạt
bị tấn công bởi một lực lượng 323.500 bộ đội cộng sản gồm 97 tiểu
đoàn và 18 đại đội đặc công biệt động. Cuộc tấn công khởi đi từ đêm
Giao Thừa Tết Mậu Thân, đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968. Và không
phải Sài Gòn với Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu, Tòa Đại Sứ Mỹ dẫu
đã là mục tiêu hàng đầu của cuộc tấn công nhưng Huế lại là Thành Phố
hứng chịu tàn phá nặng nề nhất của trận chiến kéo dài 26 ngày, và
không những chỉ thế, cư dân Huế lại là đối tượng phải thực hiện lần
‘’trả nợ máu’’ theo cách định giá của tập đoàn quân đội cộng sản,
những tiểu tổ hành quyết nằm vùng trong những ngày chiếm đóng, khi
thua trận rút lui. Món nợ máu mà họ không hề vay nhưng phải trả giá
đắt với chính cái chết thảm khốc mà chỉ vào thời Trung Cổ các đội
binh xâm lược thường hành xử đối với quân, dân của xứ sở đối phương.
Phải chăng là giá máu trong vùng ‘’bị Mỹ-Ngụy tạm chiếm’’ vùng đất
mà họ đã sống từ trăm năm xưa cũ, bắt đầu từ Thế Kỷ 17, khi Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa.
Nhưng cuối cùng, Thành Phố Huế được chiếm lại, phục hồi, đạo binh
xâm lược từ miền Bắc, từ các mật khu Tây-Nam Huế, vùng Dãy Phố Buồn
Thiu dọc Phá Tam Giang buộc phải rút lui, để lại những chiến tích,
những hầm chôn người tập thể tại Trường Gia Hội, Bãi Dâu, Khe Đá Mài
vùng núi Ngự Bình, những truông, vực thuộc Thôn Ngũ Tây, Quận Nam
Hòa. Cảnh tượng tàn bạo nầy càng đậm thêm tính ác độc của danh tự
‘’việt cộng’’, cùng mối kinh hoàng do họ gây nên. Một mặt khác, khi
người dân nghe tiếng báng súng đập lách cách vào những thân người di
chuyển, hoặc âm động rì rầm của máy xe thiết vận xa M-113, chiến xa
hạng nặng, lời chuyển lệnh rì rào từ các máy truyền tin có khoa
khuếch đại của bộ binh Mỹ…Họ hé cửa nhìn ra từ những căn nhà mái
thấp, sụp vỡ, leo lét ánh đèn dầu, qua hàng rào lá chè loang lỗ trốc
gốc, cảnh tượng u tối, đe dọa của thời chiến tranh trước 1950, và
thì thào lời mừng rỡ chưa hẳn tin là thật…Lính tới, lính tới…Lính
mình tới…Mỹ tới…Mỹ tới…khi họ thấy chạy thấp thoáng theo đội hình,
dọc hè phố vươn vãi thây người trên gạch ngói đổ nát rơi rớt, những
dạng người lính với y trang màu lục đậm (bộ binh), hoặc tác chiến
hoa của các Binh Chủng Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến
với ba lô nổi gồ trên lưng, khối tròn quen thuộc của chiếc nón sắt.
Tất cả đã trở nên biểu tượng của linh thiêng cứu viện, nguồn hy vọng
thiết thân giữa cảnh chết, sau bao ngày đe dọa hung hiểm bởi cái
chết bao vây. Và khi Huế được sống lại, qua tiếng lời người dân,
danh tính, vị Tướng quân: ‘’Ông Trưởng trong Mang Cá ra Gia Hội thăm
đồng bào’’ gắn liền cùng chiến công Giữ Nước-An Dân, như Trần Hưng
Đạo đã kiên trì bảo vệ Thăng Long (cuối Thế Kỷ 13), của Văn Thiên
Tường đời Nam Tống (đầu Thế Kỷ 13) chết cùng Thành Tương Dương, hoặc
M. I. Kutuzov trải thân với vận mệnh Moscow trong chiến tranh chống
Napoléon năm 1812. Chúng tôi không đặt điều so sánh trong văn
chương, chữ nghĩa, nhưng xác chứng với máu, xương của dân, quân đổ
xuống qua dài cơn lửa đạn. Và điều nầy sẽ thêm một lần xác chứng ở
mùa Hè 1972, cũng với người dân xứ Huế. Nay, chúng ta hãy cùng sống
lại những thời khắc hào hùng bi tráng của quê hương. Đêm Xuân đẫm
nước mắt năm Mậu Thân, 1968.
Hoạt động của phía cộng sản không chỉ là một chiến dịch quân sự
thuần túy, do chiến tranh Việt Nam đã tạo nên một thất lợi tâm lý
trầm trọng trong dư luận Mỹ Quốc, từ sự kiện Walter Cronkrite đã có
mặt tại Sài Gòn ngay trong tháng Hai, khi trận chiến đang bùng nổ
giữa những đường phố, để sau đó trong buổi phát hình ngày 27 cùng
tháng, người hướng dẫn dư luận quần chúng nầy đã mạnh mẽ xác định:
‘’Hơn bao giờ hết, chúng ta có thể nói rằng kinh nghiệm đẫm máu tại
Việt Nam sẽ phải mở ra một lối thoát’’. Lời tiên tri nầy được hiện
thực bởi hòa hội Paris khai mạc vào cuối năm 1968 mà áp lực vốn có
từ nhiều năm trước. Cụ thể lời như lời thúc dục của McNamara (lại là
Mac chứ không ai khác) với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong lần
viếng thăm Sài Gòn từ 1967: ‘’Chúng tôi cần thương thuyết với Hà Nội
để cho cuộc tuyển cử sắp tới (trong năm 1968)’’, hoặc của Đại Sứ
Bunker tại Sài Gòn: ‘’Dư luận Hoa Kỳ đã trói tay Tổng Thống (Mỹ),
thế nên phải có cuộc thương thuyết hòa bình (tại Paris) để chứng tỏ
cùng Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ rằng chúng ta (Hoa Thịnh Đốn lẫn
Sài Gòn) đều mong muốn hòa bình’’. Hoặc thái độ bất phục tùng của
gia đình David Vandivier ở Khu Spanish Harlem, New York mà người cha
vốn là cựu chiến binh Thế Chiến Thứ 2 qua quyết định đưa anh em
David và John Vandivier đến Canada cuối mùa Hè 1968 để tránh lệnh
trưng binh. Và cho dù những sự kiện vừa kể trên đã là điều thực tế,
nhưng Võ nguyên Giáp sau nầy lại xác nhận với Ban Biên Tập Đặc San
NAM, Nhà xuất bản Atlas, Tây Âu: ‘’Ý kiến cho rằng Trung Ương đảng
đặt nặng vấn đề về các phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ trong
quyết định tiến hành Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa ở miền Nam là
một nhận định kém cơ sở’’. Cuối cùng, sự thật chỉ phản ảnh đúng nhất
qua phân tích của Khối Quân Sử, Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa: ‘’Trận chiến Khe Sanh và cuộc Tổng công kích Mậu
Thân, (Hiện thực Nghị Quyết 13 Trung Ương đảng) đồng có những mục
đích:
- Dồn mọi nỗ lực để chiến thắng về mặt quân sự (đối với lực lượng
Mỹ. Điển hình mặt trận Khe Sanh), buộc Mỹ phải rút quân ra khỏi miền
Nam tương tự quân đội Pháp sau trận Điện Biên Phủ (Do dư luận phản
chiến tại Mỹ làm áp lực như phần trên vừa trình bày. Tuy không là
yếu tố quyết định hàng đầu).
- Làm băng rã Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chứng minh cùng dân chúng
miền Nam cũng như dư luận thế giới về sự lớn mạnh (chính trị lẫn
quân sự) của phía cộng sản. Đồng thời dựng nên Mặt Trận Liên Minh
Dân Chủ Hòa Bình tại Sài Gòn, Huế với mục đích vận động quần chúng
nổi dậy lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
- Chuẩn bị, củng cố vai trò chính trị Mặt Trận Giải Phóng trước khi
hội nghị Paris khai diễn. Nhưng cũng có dư luận cho rằng đây là
‘’đòn mật ước’’ giữa Hà Nội và Mỹ (qua trung gian của Liên Xô) để
thanh toán hạ tầng cơ sở Mặt Trận (có khuynh hướng thân Trung Cộng),
giúp Hà Nội có cớ khuynh loát mạnh mẽ hơn đối với thành phần lãnh
đạo cộng sản miền Nam, song song với sự kiện về vai trò của Nguyễn
chí Thanh bị tử trận, thay thế bởi đích danh Võ nguyên Giáp, sự xâm
nhập lực lượng bộ đội chính quy cộng sản miền Bắc vào Nam với khối
lượng lớn. Điều nầy vẫn là một ‘’nghi án chính trị’’ chưa soi sáng
đủ. Tuy nhiên sau 1975, với lần thanh toán không nương tay cái gọi
là ‘’Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam’’ cùng
cách sử dụng ‘’tận diệt’’ những binh đội cộng sản thuộc ‘’chính
phủ’’ nầy với lối đánh thí quân không thương tiếc do những cán bộ
khung đi từ miền Bắc vào sau 30 tháng Tư năm 1975, chỉ huy ở chiến
trường Campuchia (1979), đã là những chứng cớ cụ thể về lần ‘’thanh
toán quyết định giá trị’’ cuối cùng của những ‘’đồng chí miền Bắc
đối với người anh em mặt trận giải phóng miền Nam’’. Một tiểu đoàn
bộ binh thuộc tỉnh đội Rạch Giá khi điều lên Campuchia không hề nhận
được nhu yếu phẩm sinh hoạt hàng ngày, các gia đình bộ đội (hoàn
toàn là cư dân miền Nam) phải tự túc tiếp tế cho con em mình! Tiểu
đoàn nầy sau một thời gian ngắn đã hoàn toàn tan rã, còn lại không
quá 10 người, người sống sót trốn thoát qua Thái Lan bằng đường bộ
(lẽ tất nhiên vùng đất dung thân cuối cùng không đâu khác là nước
Mỹ). Nghi án chính trị vừa kể trên qua thực tế sau năm 1975 hẳn có
mức độ khả thể đáng tin cậy.
TRẬN ĐÁNH
Ngày 20 tháng Giêng 1968, Đại Úy W. H. Dabney chỉ huy Đại Đội 1,
Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiến chiếm đồi
881, cao độ giữ mặt Tây và Tây-Bắc căn cứ Khe Sanh, trên Đường Số 9
hướng biên giới Lào, mở đầu quyết định chọn Khe Sanh làm ‘’diện’’,
thu hút và tiêu diệt lực lượng cộng sản trong khuôn khổ hành quân
Scotland. 5 giờ 30 sáng ngày 21, những quả hỏa tiễn đầu tiên của
phía cộng sản đổ chụp xuống các vị trí pháo binh, bãi đậu xe, phi
đạo dã chiến, sân trực thăng, hầm phòng thủ lực lượng đồn trú. Mười
ba tấn đạn đại pháo gồm 130 ly, hỏa tiễn 122, súng cối 82 ly đồng
rơi xuống cứ điểm mở đầu chiến dịch dứt điểm Khe Sanh với lực lượng
xung kích gồm hai sư đoàn bộ binh nặng 325C và 304 theo lệnh điều
quân của đích thân Võ nguyên Giáp, còn có một sư đoàn khác làm trừ
bị, do chưa điều động vào vùng nên chỉ danh không được xác định.
Trận đánh không hoàn toàn bất ngờ, vì từ buổi sáng Dabney đã nhận
được một ‘’người khách không mời’’, viên Trung Úy bộ đội chính quy
Bắc Việt hồi chánh với cây cờ trắng và bản tường trình chi tiết kế
hoạch tấn công tiến chiếm Khe Sanh của phía cộng sản: ‘’Từ Khe Sanh,
bộ đội cộng sản sẽ điều quân về hướng Đông, dọc theo Đường 9 đánh
chiếm Quảng Trị. tiếp theo sẽ là Huế.’’ Nói chắc một ý niệm. Hành
quân chiếm đóng toàn bộ phần đất Việt Nam Cộng Hòa Bắc đèo Hải Vân.
Chưa hề thấy trong cuộc chiến lâu dài ở Việt Nam có một trường hợp
lệnh hành quân bị tiết lộ một cách chính xác và mau mắn đến như vậy.
Sự kiện lại xảy ra từ phía cộng sản, một phe tham chiến hằng từ lâu
thực hiện tính bảo mật cao độ và có hiệu quả. Người nầy cũng không
quên chi tiết chính xác: Giờ G là 12 giờ 30 của Ngày N 21 tháng
1.1968. (‘’Giờ G’’ của ‘’Ngày N’’: Giờ của ngày quyết định mở đầu
diễn tiến hành quân).
Không chậm trễ, để đối lại, phía Mỹ huy động toàn bộ hệ thống hỏa
lực gớm ghê của họ để ‘’Khe Sanh không thể là một Điện Biên Phủ’’
với kế hoạch đánh bom mang bí danh Niagara, mà chỉ trong vòng 24 giờ
của ngày 21 tháng 1, đã có đến 600 phi vụ do phi cơ Hải Quân và
Không Lực Hoa Kỳ hiệp đồng thực hiện thêm với 49 phi xuất B-52 đến
từ Thái Lan và Đảo Guam. Khi trận đánh kết thúc, chuyên viên hỏa lực
không yểm chiết tính ra số liệu chính xác: Trong 77 ngày Khe Sanh bị
vây hãm, Không Lực, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã thực
hiện 24.000 phi vụ chiến thuật với 350 phi cơ gồm các loại A. 4, 6,
8 Skyhawk và F.4C Phantom. Đồng thời B-52 chiến lược cũng đã tham dự
với 2700 phi xuất. Chúng ta nên biết thêm chi tiết: Mỗi chiếc B-52
trung bình mang 108 quả bom, mỗi quả nặng 245 ký lô.
Tổng kết, sau 77 ngày chiến trận, chung quanh cứ điểm có chiều dài
hai, chiều ngang một cây số gọi là Khe Sanh kia, trên những vị trí
(có rất nhiều điểm chỉ là nghi ngờ) của hai sư đoàn 325C và 304 bộ
binh Bắc Việt, đã có đến 110.000 tấn bom thả xuống. Không kể đến hỏa
lực trực thăng võ trang và các giàn pháo 105, 175 ly của bộ binh Mỹ.
Nhưng Khe Sanh chỉ là một ‘’diện’’ của thế trận là ‘’cái cớ’’ thu
hút quân đội của các phe tham chiến trên chiến địa. Nỗi ĐAU Mậu
Thân. Điểm thật thực sự xẩy ra ở những nơi khác, với những người
dân. Người thường dân của miền Nam nước Việt. Huế được chọn lựa làm
địa điểm dấy lên vũng lửa cảnh xương máu chập chùng lớn nhất.
Đêm Giao Thừa 1967 sang 1968, đài Hà Nội phát ra lời ‘’Thơ Chúc
Tết’’ của Hồ chí Minh có nội dung:
“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà.
Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.”
Pháo Sài Gòn, các Thành Phố miền Nam nổ nhiều hơn tất cả mọi năm.
Hiện tượng pháo nổ dòn dã bày ra điều cay đắng: ‘’Chiến tranh và tất
cả đau thương, khốn cùng của nó là một ‘’thực thể’’ cần được tiêu
trừ. Con người luôn cầu Hòa Bình đồng thời cũng sẵn sàng thực hiện
Chiến Tranh’’. Nương theo tiếng pháo nầy, bộ đội chính quy miền Bắc,
lực lượng vũ trang giải phóng, du kích địa phương cộng sản miền Nam
đồng nổ súng hiện thực lời ‘’Thơ Chúc Tết’’ trên. Cảnh tượng bi thảm
xẩy ra cùng lần trên 44 Tỉnh lỵ miền Nam với những ghi nhận đầu
tiên: Vùng 1 Chiến Thuật, bao gồm những Tỉnh cực Bắc của miền Nam,
từ sông Bến Hải, Quảng Trị đến Đèo Bình Đê, địa giới thiên nhiên
giữa Quảng Ngãi và Bình Định với trận Quảng Trị, 4 giờ đêm và mặt
trận Huế bắt đầu lúc 2 giờ sáng mồng 1 rạng mồng 2 Tết Mậu Thân
(30-31 tháng 1 năm 1968). Trận đánh được bảo mật tối đa với những
cán binh, bộ đội vũ trang, bằng giấy tờ giả mạo xâm nhập trước ngày,
giờ khởi sự vào các Thành Phố, Tỉnh lỵ, Thị Trấn, nơi đã có sẵn
những cán bộ nằm vùng cơ sở lo việc tiếp đón, tiếp tế. Đặc biệt quan
trọng là những đơn vị đặc công nội thành, thành phần cốt cán, mở đợt
công phá đầu tiên vào những mục tiêu, dẫn đường cho lực lượng võ
trang chính quy. Từ cuối năm 1967, Hà Nội cũng đã cho xâm nhập vào
miền Nam hơn 300 cán bộ gồm thành phần giáo sư, giảng sư đại học, kỹ
thuật gia điện ảnh, văn nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ chuẩn bị phụ trách
công tác trí vận. Nhóm chuyên viên nầy được phân đều cho các Tỉnh để
làm nồng cốt xây dựng mặt trận văn hóa-chính trị sau khi cuộc Tổng
công kích quân sự thành công. Trận đánh cũng hoàn toàn ‘’bất ngờ và
bảo mật’’ đối với những đơn vị, cá nhân thuộc lực lượng cộng sản
tham dự tác chiến. Đa số, nếu không nói là hầu hết, chỉ là những
thiếu niên nông thôn miền Nam hoặc những bộ đội nhỏ tuổi miền Bắc.
Những người trẻ tuổi gọi là ‘’bộ đội giải phóng’’ nầy trên đường xâm
nhập vào Thành Phố, Thị Trấn miền Nam đã được ‘’học tập’’ một điều
phấn khởi: ‘’Vào tiếp thu những Thành Phố miền Nam, nơi bọn Mỹ-Ngụy
đang dẫy chết và nhân dân đã nổi dậy cướp chính quyền dưới lãnh đạo
của cán bộ cơ sở đảng.
Huế, Thành Phố cổ hơn trăm năm, Kinh Đô của nước Việt thuở hưng
thịnh, đêm mồng một rạng mồng hai Tết Mậu Thân lặng chìm vũng tối.
Sự im lặng cô đặc đến nỗi tiếng pháo nổ mất hút giữa tầng khối dãy
tường đá tảng bất động vây quanh con sông thẫm màu với lớp dân cư
nhiều thế hệ sống đời dài không chút đổi thay. Nhưng, bất thình
lình, cảnh tượng bình lặng nầy bị xé rách bởi tiếng đạn súng cối,
hỏa tiễn rít ngang bầu trời nháng lửa soi bóng dáng chập chờn những
hình người mang lá ngụy trang lẫn lút nương theo màn đêm trên những
lối đi dưới tàng cây, lề đường kín cửa. Bộ đội cộng sản xâm nhập
tiến chiếm Thành Phố. Lực lượng cộng sản đánh Huế phối trí trận địa
theo kế hoạch:
- Đoàn 5 do Nguyễn Vạn chỉ huy gồm những đơn vị K4A, K4B, K10 và
tiểu đoàn 12 đặc công phối hợp với thành đội Huế từ vùng núi thượng
nguồn Sông Hương hành quân bôn tập tấn công những cơ sở chính quyền,
chiếm lĩnh vùng dân cư hữu nghị con sông, phía Nam Thành Phố.
- Đoàn 6 gồm có các tiểu đoàn K1, K2, K6 và 12 đặc công với bốn đại
đội cơ hữu 15, 16, 17, 18 tăng cường một đại đội súng phòng không,
toàn bộ lực lượng địa phương thuộc hai Quận Hương Trà, Phong Điền và
hai đại đội biệt động có nhiệm vụ tấn công từ hướng Bắc vào các mục
tiêu: Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh đóng tại Mang Cá, sân bay Tây
Lộc, Đại Nội Hoàng Thành Huế.
Hai lực lượng trên được chi viện thêm các tiểu đoàn 416, 418 thuộc
đoàn 9 xuất phát từ vùng núi thung lũng A Sao Tây-Nam Huế. Đơn vị
nầy trước chiến dịch mang danh hiệu Cù chính Lan, tên một thủ trưởng
đã chỉ huy đoàn nầy trong chiến dịch Hòa Bình Bắc Việt 1951. Vào
giai đoạn sau của chiến dịch, lực lượng cộng sản được đoàn 8 (hậu
thân của trung đoàn sông Lô) tăng cường, bôn tập về Huế từ mật khu
hướng Tây-Bắc.
Mũi tiến công chính do thủ trưởng đoàn 6 Nguyễn trọng Dần chỉ huy
đánh chiếm tất cả cơ sở quân sự trú đóng trong khu thành nội một
cách nhanh chóng, ngoại trừ sân bay Tây Lộc, các cơ sở trên đều bị
chiếm đóng dễ dàng bởi chỉ do các đơn vị chuyên môn, không tác chiến
phòng thủ. Đoàn nầy còn có nhiệm vụ lớn, ‘’bắt sống Tướng Trưởng’’
giải về Bắc.
Tổng số quân cộng sản tham chiến gồm khoảng 7500 người cộng với lực
lượng đặc công thành đội Huế. Cuối chiến dịch, phía cộng sản thiệt
hại 1042 người, trong số có một cán bộ cấp trung đoàn, 8 cán bộ tiểu
đoàn, 24 cán bộ đại đội và 72 trung đội trưởng.
Trong quá trình chiếm giữ Thành Phố Huế, phía cộng sản khoe đã bắt
theo 600 thanh niên tòng quân, chiếm kho bạc lấy 4 triệu (khoảng
400.000 đô la theo thời giá), giải thoát 1800 phạm nhân. Nhưng quan
trọng hơn hết là hình thành Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình, gồm có những thành phần: Chủ Tịch Lê văn Hảo, ủy viên bà Tuần
Chi, Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, huy động được một số lượng quần chúng
trong những ngày chiếm đóng. Nhưng, tất cả thành quả chính trị, vật
chất nầy hoàn toàn trở nên là điều vô nghĩa khi ta xét đến cuộc phản
công của phía Cộng Hòa, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và những
đau đớn tàn nhẫn mà lực lượng cộng sản đã thực hiện lên những đối
tượng mà họ luôn nại đến trong sự nghiệp ‘’giải phóng’’. Những người
dân bị thảm sát cực độ vô ích phí phạm.
Trận phản công Liên Quân Việt-Mỹ đã diễn ra rất mực hào hùng vì
chiến trường nầy đã có mặt từ trước những đơn vị ưu tú nhất của hai
Quân Lực: Sư Đoàn 1 Bộ binh Việt Nam Cộng Hòa với Đại Đội xung kích
trinh sát lừng lẫy Hắc Báo, Chiến Đoàn I Nhẩy Dù tăng phái gồm các
Tiểu Đoàn 2, 7, 9 dưới quyền của Trung Tá Lê Quang Lưỡng. Về phía Mỹ
có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến với Chi Đoàn thiết
vận xa cơ hữu. Chiến Đoàn Đặc Nhiệm X Ray do Tướng Foster Lahue, cựu
chiến binh của Thế Chiến II và Triều Tiên chỉ huy gồm ba Tiểu Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến. Ngoài ra phải kể đến hai lực lượng mạnh, hai Lữ
Đoàn 1 và 2 thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù 101 đóng tại Phú Bài và một Lữ
Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry) chiếm giữ vùng núi Tây-Nam Huế, ứng
chiến cho chiến trường Khe Sanh. Tất cả lực lượng quan trọng tinh
nhuệ nầy đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc theo diễn tiến
sau:
Đại Đội Hắc Báo, thành phần xung kích, Trinh Sát Sư Đoàn I Bộ Binh
(đơn vị Đại Đội Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có huy chương tuyên công
nhiều nhất từ hai chính phủ Việt-Mỹ, kể cả những đơn vị biệt lập của
Quân Lực Đồng Minh), có nhiệm vụ trấn giữ Khu Đại Nội, Điện Thái
Hòa, nơi thiết triều của các Vua Triều Nguyễn. Trước mặt Điện là sân
chầu lót đá tảng, tiếp Cửa Ngọ Môn, biểu tượng uy quyền không những
của Hoàng Tộc mà là quốc thể nước Nam. Kỳ Đài đối diện Cửa Ngọ Môn
về hướng Nam, nơi là cờ hồn thiêng sông núi hằng tung bay. Nhưng Đại
Úy Phan Gia Lâm với quân số thiếu hụt (do số lớn binh sĩ đã về nhà
ăn Tết) không thể nào chống cự nổi mũi tiến công một tiểu đoàn (một
trong ba nỗ lực chính, thuộc đoàn 6 bộ đội cộng sản) vào khu vực Đại
Nội. Sau năm giờ cầm cự, 5 giờ sáng ngày mồng 2, Đại Đội của Lâm
phải rút ra khỏi Khu Cấm Thành để cố thủ Kỳ Đài, nhưng cuối cùng,
lúc 8 giờ sáng, ổ kháng cự Kỳ Đài cũng đành lâm chịu thất thủ và lá
cờ ba màu vàng, xanh, đỏ được bộ đội cộng sản kéo lên trên nền trời
mù sương xứ Huế ngày mưa phùn.
Nhưng lần mất Sân Bay Tây Lộc, Đại Nội chỉ là những tai nạn ắt có
đầu tiên phải gánh chịu, phía Việt Nam Cộng Hòa lập tức phản công
với những đơn vị chưa hề thất bại. Tiểu Đoàn 2 Nhẩy Dù đơn vị từ lúc
mới thành lập 1965, do Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy đã đánh những
trận mở đầu ở Bà Điểm, ngoại ô Sài Gòn 1966, vùng Phi Quân Sự 1967,
để nên thành đơn vị được xuất sắc tuyên công chỉ sau ba năm thành
lập. Đêm mồng 1, từ Quận Quảng Điền, Đông Bắc Thị Xã Huế, đơn vị đã
hành quân cấp tốc chạy qua hàng cây số với tất cả với tất cả sức
nặng ba lô vũ khí trên lưng người lính. Nhưng lần chạy việt giã băng
đồng khó nhọc nầy không hoàn toàn bình an vì quân cộng sản đã phục
kích ngay trên đoàn đường độc đạo từ Quận lỵ đổ ra Quốc Lộ I ở An
Lỗ, trên cầu sông Bồ. Tiểu Đoàn Phó Nghi bị tử thương cùng một số
binh sĩ, nhưng Tiểu Đoàn cũng đã kịp đến cầu An Hòa, (cửa ngõ đường
lên phía Bắc, hướng Quảng Trị), hiệp đồng với đơn vị bạn, Tiểu Đoàn
7 Dù, đánh qua mục tiêu làng Đốc Sơ, chiếm giữ đầu cầu, cắt đường
tiếp vận về những căn cứ, mật khu cộng sản thuộc vùng Phong Điền, An
Lỗ, Cổ Bi, Hiền Sĩ. Những căn cứ địa vùng Tây-Bắc Thừa Thiên-Huế đã
nổi tiếng từ chiến tranh 1945-1954 là những an toàn khu bất khả xâm
phạm. Từ Cầu An Hòa vào đến Đồn Mang Cá, Bản Doanh Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn 1 Bộ Binh chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng hai Tiểu Đoàn Dù
2 và 7 phải mất một ngày sau mới vào tới được. Nơi nầy, Chuẩn Tướng
Ngô Quang Trưởng đang đích thân chỉ huy cuộc chống đỡ với nón sách,
áo giáp, súng cá nhân như một khinh binh. Hai đơn vị Dù đi hết đoàn
đường ngắn ngủi kia với hơn hai mươi bốn giờ tác chiến liên tục, với
kết quả số thương vong hao hụt hơn một nửa quân số cơ hữu. Điển
hình, Đại Đội 74 mất gần trọn Đại Đội với Đại Đội Trưởng Nguyễn Lô
bị thương nằm dưới hai lằn đạn, một ngày sau mới được kéo về như một
xác ma. Một xác chết gần nghĩa đen nhất vì Lô phải giả chết hơn hai
mươi bốn giờ qua, giữa những binh sĩ tử trận, trên nghĩa trang người
chết từ lâu cùng những người hấp hối mới hôm qua. Trưa mồng 4, Tiểu
Đoàn 9 Dù, đơn vị đã chạm địch từ đêm Giao Thừa ở mặt trận Quảng Trị
với trung đoàn 812 cộng sản Bắc Việt, tuy đã đánh bật được những đợt
tấn công của địch trong suốt hai ngày mồng 2 và mồng 3, bảo vệ được
vòng đai phòng thủ Thị Xã, nhưng đơn vị nầy cũng đã bị thiệt hại đến
trăm binh sĩ, cụ thể như với Đại Đội 94, đơn vị trấn giữ Khu Nhà Thờ
Tri Bưu (chịu hướng tấn công nặng nhất mặt trận Quảng Trị) đã mất
hẳn năng lực chiến đấu, bởi Đại Đội Trưởng Hổ, Lộc tử trận. Nhưng dù
với quân số thiếu hụt nầy, Tiểu Đoàn 9 chỉ sau một ngày đến Huế,
sáng mồng 5, đơn vị đã phải xuất quân chiếm lại Cửa Chánh Tây, đường
thông về phía những mật khu trong Trường Sơn. Trường Thành Huế, khối
đá, gạch, vuông vức mỗi chiều khoảng hơn hai cây số với những chồng
gạch được ghép chặt vào nhau bởi vôi trộn mật mía, cao năm thước,
trên có lối đi để binh lính tuần tra, xe ngựa di chuyển. Nhưng khối
đá tảng kiên cố nầy trong những ngày đầu Xuân hôm nay đã là những
chốn nguy nan khôn cùng với những tổ tam-tam (tổ chức theo ‘’tam
chế- 3 đơn vị một’’) bộ đội cộng sản. Mỗi tổ tam đều có đủ trung
liên, B-40 và AK cá nhân, nơi những ngã tư, điểm chốt chận đường đi
đến các Cửa Thành đồng được các tổ thượng, đại liên trấn giữ. Chúng
ta hãy nghe lại lời tường thuật đơn giản của một người lính trong
cuộc chiến ngày ấy ‘’Khi đến gần Cửa Chánh Tây, tôi thấy rất nhiều
địch đội nón cối, tay cầm xúng AK-47, B-40, đi qua đi lại trên bờ
thành. Chúng tôi chờ trời tối cho kinh binh lén leo lên, dùng lưỡi
lê đánh cận chiến, chiếm được một góc Thành làm đầu cầu cho Đại Đội
nhào lên bắn ào ạt, khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách nầy tuy
tổn thất nhiều, nhưng vì quân địch đã chiếm lợi thế bờ Thành cao hơn
5 thước, nếu không liều mạng xông vào hang cọp, thì không sao bắt
được cọp con. Sau hai ngày tác chiến, Tiểu Đoàn (9 Dù) mới chiếm
được Cửa Chánh Tây, bàn giao lại cho Sư Đoàn 1, trở ngược ra sau
đánh Cửa Đông Ba (Cửa Chính Đông của Thành Nội Huế). Tại đây, có một
cây thượng liên đặt trên Cửa Thành cao, rất kiên cố. Chúng tôi thử
xung phong nhiều lần mà không lên được. Trung Đội tôi lúc ấy còn 21
người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và Cửa Chánh Tây
vừa rồi nên rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát
khẩu thượng liên cả Trung Đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh
lên chiếm Cửa Thành. Thấy tên xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng,
hai chân bị khóa bằng giây xích.
Kiểm điểm lại Trung Đội chỉ còn mười người nguyên vẹn. Mười một mạng
người chết và bị thường để đổi lấy Cửa Thành nầy đây. Lính Nhẩy Dù
trả nợ máu cho Quê Hương miền Nam, lấy lại bình an cho đồng bào xứ
Huế. Gần 30 năm sau, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau
đớn khi đứng trên Cổng Thành đổ nát, ngày mùa Xuân năm xưa. Mùa Xuân
rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương’’. Hồi Ký
Trương Dưỡng Một Cánh Hoa Dù, 1997 CA, USA.
Khi Huế bị đánh, về phía Mỹ không có một lực lượng tác chiến nào
trong Thành Phố, ngoài Bộ Chỉ Huy MACV ở sát cạnh Tiểu Khu Thừa
Thiên. Mãi đến chiều ngày mồng 3 Tết (2.2.1968) mới có một Đại Đội
Thủy Quân Lục Chiến đầu tiên đến tăng cường giữ MACV. Liên tiếp
trong ba ngày 1, 2, 3 tháng Hai, lực lượng của Tiểu Đoàn 2/5 Thủy
Quân Lục Chiến như trên đã nói mới vào vùng hành quân với mục tiêu
là Khu Đại Học Huế và Bộ Chỉ Huy MACV. Thủy Quân Lục Chiến Mỹ có đại
bác ONTOS sáu nòng có khả năng công phá mục tiêu, công sự nặng. Họ
đánh mỗi ngày một mục tiêu, mỗi đường phố, đến tối rút về khu MACV,
thế nên, diễn tiến hành quân hóa nên trì chậm, không phát triển được
thảnh quả ưu thế hỏa lực và tính cơ động của đơn vị. Những ngày sau,
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiếp tục truy kích, chiếm đóng Khu Đường
Lê Lợi, ngang Viện Đại Học và trước mặt Nhà Ga. Khai triển thành
quả, lực lượng Mỹ đẩy lui địch ra khỏi khu vực Phú Cam, khiến địch
phải phân tán mỏng rút về phía Nam Giao. Hồi 16 giờ chiều ngày 10
tháng Hai, một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến trực thăng vận tăng viện
cho Tiểu Đoàn 2/5. Tuy thời thiết rất xấu, nhưng cuộc chuyển quân
cũng hoàn tất, trong cùng lúc một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khác
được đưa từ Phú Bài vào Huế bằng xe. Chính quyền và dân chúng đồng
lòng nô nức trước lần tăng viện mang lại phấn khởi nầy.
Giai đoạn quyết định giải tỏa mặt trận Thành Phố Huế được đánh dấu
bởi lần thay thế Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Chiến
Đoàn nầy được không vận từ Sài Gòn đến sân bay Phú Bài, từ đây di
chuyển đến cầu tàu hữu ngạn sông Hương, dùng thuyền đổ bộ lên Bến
Bao Vinh để tiếp xâm nhập vào Thành Nội Huế. Chiến Đoàn A gồm 3 Tiểu
Đoàn bộ chiến do Thiếu Tá Hoàng Thông chỉ huy. Sáng ngày 18 tháng
Hai, Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Thiếu Tá Phan Văn Thắng chỉ
huy, Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Phạm Văn Nhã Tiểu Đoàn Trưởng xuất phát
từ Thành Nội Huế, để từ đây mở rộng ra hướng Cầu Bạch Hổ. Trận chiến
ở Khu Vực Thủy Quân Lục Chiến được mô tả như sau dưới mắt nhìn của
Nguyễn Tú, Phóng Viên Niên Trưởng của làng báo Sài Gòn ba mươi năm
trước ‘’Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Úy Nguyễn
Xuân Tòng chỉ huy, anh chỉ cho tôi hướng tiến quân: Địch đang ở
trong cái chùa cách chúng ta 30 thước và cách trường học phía bên
trái 60 thước…’’ Bất ngờ tiếng nổ ầm cách chúng tôi khoảng mười
thước, ném tung đất bùn lên đám lính đang ngồi thấp chờ lệnh. Phía
cộng sản bắn hỏa tiễn vào đội hình của đoàn quân. Trung Úy Tòng gọi
máy về Bộ Chỉ huy để xin chiến xa tăng cường yểm trợ cuộc tiến quân.
Khoảng ba phú sau, ba chiếc tăng không biết từ đâu ùn ùn chạy đến.
Đại Bác chiến xa đồng khai hỏa, tiếp loạt đạn đại liên 50 ly chém
gẫy cây lá, lá rơi tơi tả. Đạn súng đã bắn ra mà tiếng dội còn vang
vọng trong sương mai lạnh lẽo. Trung Úy Tòng ra lệnh cho toán quân
Chuẩn Úy Nhựt tiến chiếm ngôi chùa. Nhựt dẫn đầu toán lính, vừa bắn
vừa chạy, tản rộng hai bên bọc lấy những bức tường của ngôi chùa,
sau đó tiếp tục đánh vào mục tiêu thứ hai, khu trường học, nơi những
địch quân vừa từ chùa chạy về cố thủ. Phản lực được gọi đến yểm trợ,
những trái bom rơi gần chỉ trong khoảng cách 100, 150 thước, những
mảnh gang văng tới tận khu chùa, đen sì, nóng bỏng như vừa được lấy
từ lò đúc. Qua máy truyền tin, tôi được biết có một toán Thủy Quân
Lục Chiến vừa thanh toán được một hầm cố thủ mà toán việt cộng trong
ấy khoảng 15 tên đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Tôi muốn chạy sang bên
ấy để chụp hình thì người lính bên cạnh đã ngăn cản: ‘’Không được,
ông chạy qua bên ấy dễ ăn kẹo vi xi lắm, đợi chúng tôi dọn sạch cái
nhà và ngôi trường, hơn nữa phải đào hầm lên mới chụp hình được
chứ’’. Tôi nghe hợp lý nên ngồi lại. Bỗng một tiếng la lớn: ‘’Chết
cha, Chuẩn Úy Nhựt chạy trước kìa… Đâu có lệnh cho lên ?!’’ Người
lính chưa kịp dứt lời thì tràng đạn ‘’tắc, tắc’’ nổ dòn…Một bóng
người ngã gục trên khoảng đất trống, cách chùa mười lăm thước…Có ai
đó đã lấy một tấm pông-sô phủ lên hình hài Chuẩn Úy Nhựt. Một người
lính nói với tôi ‘’Ông biết không, Chuẩn Úy Nhựt hăng lắm. Đại Đội 4
chúng tôi trong trận Cai Lậy lấy được nhiều súng nhất đến 95 khẩu đủ
loại’’. Vô tình người lính đã đọc một bài điếu văn giản dị, đơn sơ
mà bao giá trị bao ý nghĩa.
Gần chỗ cỏ xanh loang máu đỏ lẫn với bùn, nơi Chuẩn Úy Nhựt ngã
xuống cho lần giải phóng Thành Nội Huế, một chiếc nón sách nằm trơ,
ngửa lên bầu trời vẫn mây xám, mưa phùn, gió rét. Hai bên nón sắt có
giòng chữ và chữ ký ngang tàng, phóng túng: ‘’Sống bên em, chết bên
bạn’’ của người lính đã chết trong buổi đầu Xuân. Người lính còn rất
trẻ.
Mặt trận Thành Phố Huế chấm dứt với lần tham chiến của hai Tiểu Đoàn
21 và 39 Biệt Động Quân có nhiệm vụ tảo thanh Khu Gia Hội, vùng cư
dân nằm dọc theo Sông Đào và Sông Hương. Vùng nầy nhà cửa ít bị
thiệt hại nhưng đầy đặc những hầm xác người bị thảm sát do lần rút
đi trong thất bại của lực lượng cộng sản sau 26 ngày chiếm đóng. Bốn
giờ chiều ngày 24 tháng Hai năm 1968, hình ảnh bi tráng linh thiêng
của chiến tranh Việt Nam hiện thực: Người Huế, những người lính
chiến đấu ở Huế bật khóc khi Lá Cờ Vàng Ba Sọc lên cao trên Kỳ Đài
giữa mù sương và mưa bay. Và cũng như lần chào cờ đầu năm cách đó 26
ngày, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh toàn thể lực lượng giải
tỏa Thành Phố Huế suốt khoảng thời gian dài kia đã không hề nghỉ
ngơi, với trang bị nón sắt, áo giáp như một người lính ở đầu tuyến.
Ông đi tới vị trí phòng thủ của binh sĩ tiền trạm Lữ Đoàn I Dù (gồm
những lính yểm trợ, tiếp vận), cùng những đơn vị lính chuyên môn
(Quân Y, Quân Xa, Truyền Tin…) của Sư Đoàn 1 những ‘’đơn vị tác
chiến’’ đầu tiên mà ông vận dụng được để chống cự đợt tấn công cường
tập đầu tiên của binh đội đặc công E 6 do thủ trưởng Nguyễn trọng
Dần đích thân chỉ huy. Ông có mặt nơi Trung Tâm Hành Quân, theo dõi
các vụ ném bom, phản pháo, cố thủ những vị trí tái chiếm, điều quân
tăng viện. Ông đến đầu giường của thương binh vừa được chuyển về
Quân Y Viện, ông có mặt với những ca mổ nghiêm trọng, an ủi thân
nhân binh sĩ thiệt mạng. Ông đã là Tướng lãnh độc nhất của Quân Lực
Miền Nam sống trọn vẹn với chiến trường, với mỗi người lính, khi cần
có những quyết định khẩn cấp, hiệu quả kể từ ngày khởi đầu trận
đánh, để đến hôm nay trong buổi oanh liệt, chỉ huy lễ thượng kỳ.
Khuôn mặt khắc khổ chĩu nặng ưu tư của người chỉ huy chiến trường
lặng xuống trong khoảng khắc.
Quân và Dân đã một lần bật khóc
Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
Lừng lững lên cao
Giữa mù sương xứ Huế mùa Xuân nào…
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ BA
Mùa Hè 1972, tháng Ba, từ ngày Bắc quân khởi cuộc đại tấn công miền
Nam. Thêm một lần Quảng Trị, Thừa Thiên, hai vùng đất trước tiên
hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn. Và người dân lại thêm một
lần lập lại tình cảnh thương tâm, tay bế con, lưng cõng cha mẹ già
xuôi theo Đường Số I dưới che chở độc nhất hay mối hy vọng cuối cùng
Người Lính. Lính Cộng Hòa ơi, cứu bà con…lính cộng hòa ơi…!! Trên
đoạn đường máu La Vang, Hải Lăng, Mỹ Chánh dọc Đường Số I giữa Quảng
Trị và Huế không phải đôi ba người trong cùng tình thế riêng biệt
nào đó, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi lên như thế
một lần. Họ gọi với hơi thở cuối, mồm há hốc, mắt trợn đứng, khi máu
chảy, nằm xuống giãy dụa, tay lần chuỗi hạt, mắt nhắm nghiền, trên
đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi, nổ tàn ác…Đạn nổ
không bỏ sót một phần đất, không quên một thân người. Lính Cộng Hòa
ơi! Người dân rất nhiều lần kêu lên như thế. Nhưng hôm nay, tháng
5.1972 người Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhất định trở về, sống lại
cùng làng xưa, chốn cũ bởi: Ông Trưởng đã ra Huế! Ông Trưởng đã tới
ngoài Huế rồi bà con ơi! Người dân hăm hở, tin tưởng thúc dục nói
cùng nhau và những chuyến hàng Đà Nẵng-Huế bắt đầu trở lại với hành
khách chen chúc đầy ngập. Trên đoạn đường lây lất, ươn ướt thịt da
người phía Nam La Vang, lối ‘’về ngoài mền…’’ thấp thoáng từng toán
người gồng gánh chạy theo đoàn quân…Mền (mình) về Quảng Trị thôi bà
con ơi, ông Trưởng đã vô ở trung (trong) Mang Cá giư (như) kỳ Tết
Mậu Thân với mền rồi bà con nè…
Chiếc xe jeep mang cờ hiệu Tư Lệnh màu đỏ với ba ngôi sao trắng chạy
chậm dọc Đường Trần Hưng Đạo hướng Cầu Gia Hội. Vị Tướng Quân khẽ
liếc về hai bên, che dấu cảm xúc trong ánh mắt u uất, cố giữ vẻ bình
thảm, ông đưa tay lên vành nón sắt tỏ ý nhấc khẽ để đáp lễ những
người dân kính cẩn chào ông với cách nhìn hàm ân, trân quý. Chợ Đông
Ba ngầu đục váng vất những đường khói nhỏ bốc mùi khét và loang lỗ
vết nám đen trên lớp tường sơn vôi vàng nhạt, dấu vết của lần hỗn
loạn hai ngày trước, 30 tháng 4.1972 khi mặt trận Quảng Trị tan vỡ
và đám lính phẫn nộ tràn vào Thành Phố với những người dân đang nháo
nhác rùng rùng di tản. Quảng Trị mất. Mất chưng hửng tức tối. Biệt
Động Quân nương nhau dọc Quốc Lộ về Nam, Thủy Quân Lục Chiến co lại,
Tiểu Đoàn này đỡ Tiểu Đoàn kia rút gần xuống Mỹ Chánh về phần Sư
Đoàn 3 Bộ binh, không phải lỗi ở lính, cấp chỉ huy không gian, cũng
có thể không do Tướng Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn (chưa có thể kiểm chứng
rõ), đã rã ngũ một cách mau chóng, phi lý, dẫu ba Trung Đoàn bị
thiệt hại từ ngày cuối tháng 3 đầu tháng 4, nhưng vẫn còn đủ quân
số, vũ khí, phương tiện liên lạc, yểm trợ, bỗng nhiên như viên đá
nhỏ tan trong ly nước bốc khói, một đại đơn vị diện địa mất hẳn khả
năng chiến đấu trong bất ngờ kinh ngạc, xua đẩy dân và lính Tiểu Khu
Quảng Trị hỗn loạn đua nhau tháo chạy về Huế như cơn nước lũ từ
nguồn cao băng qua bờ đê cát nhỏ. Và tiếp theo, dưới cơn ép kinh
hoàng của Quảng Trị, Huế nổ bùng tan nát như ánh lửa điên loạn bốc
cháy Chợ Đông Ba chen tiếng súng của đám quân không người chỉ huy
gồm những thành phần lao công đào binh nhân cơ hội chạy trốn, đám
phạm nhân từ các trại dân sự, quân đội thoát ra và tất nhiên không
thiếu những tổ đặc công, cơ sở nằm vùng cộng sản lợi dụng tình thế
đồng khởi động phá hoại. Huế mau chóng lâm cơn hấp hối cũng bởi ảnh
hưởng, tác động kinh khiếp của Mậu Thân mà dấu vết vẫn còn rất mới.
Từ đêm Giao Thừa 1968 nối tiếp, mở rộng thấm sâu ấn tượng bi thảm
của lần thất thủ Kinh Đô 1885, mà nay vẫn hằng lưu trong tâm hồn
người Huế, với cảnh sắc u uẩn của hệ thống chùa, miếu, am luôn mờ
mịt những dấu hương cháy đỏ vào đêm đến hoặc những ngày rằm, mồng
một Âm Lịch, rải rác cạnh những con đường nhỏ hẹp, âm âm bóng cây
che kín. Giặc vào và hiện thực cảnh tượng nhà tan, cửa nát, người
chết hằng hằng lớp lớp. Gần một thế kỷ qua kể từ năm tháng bi thảm
kia, mối đau không hề giảm bớt, mà lại càng tăng thêm sắc độ khốn
cùng, thương tâm. Chỉ một điều khác biệt: Thực Dân Pháp năm 1885 khi
tiến đánh Kinh Đô Huế, không có được ‘’ý niệm chính trị tiến bộ của
kẻ ngụy danh cách mạng giải phóng’’ sau nầy, họ chưa biết cách thực
hiện, không hề có cơ tâm tàn nhẫn thực hiện kỹ thuật giết người rẻ
tiền và im lặng của quần lũ gọi là ‘’bộ đội nhân dân’’ chôn sống
những đồng bào, đồng loại mình, Huế hoảng hốt kinh hoàng do đã có
kinh nghiệm về thành tích tàn bạo của những toán bộ đội cộng sản và
đám người cuồng khấu địa phương mang huy hiệu lá cờ đỏ (hoặc chiếc
băng vải đỏ) sục sạo khắp cùng những căn nhà, ngõ ngách, đường hẻm
để tìm địch giết Ngụy. Thế nên người người hớt hãi xuôi Nam hướng Đà
Nẵng, rần rật chen chúc lên tất cả mọi phương tiện di chuyển. lại
một lần bỏ quê hương chạy giặc. Đấy là cảnh tượng của những ngày
cuối tháng 4 năm 1972. Nhưng, nay tình thế đã hoàn toàn khác hẳn.
Bởi, Quân Lệnh Thứ Nhất của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, Vùng 1
Chiến Thuật loan báo khẳng định:
Tất cả Quân Nhân các cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong lãnh thổ
Khu 11 Vùng 1 Chiến Thuật (kể cả thành phần tăng phái, thuộc dụng
hành quân), quân phạm, lao công đào binh phải trở về trình diện đơn
vị, hoặc tại địa điểm quân sự gần nhất trong vòng 24 giờ kể từ
‘’Không Giờ’’ ngày 2 tháng 5.1972.
Các trường hợp vắng mặt bất hợp pháp tại đơn vị coi như đào ngũ
trong thời chiến, khi đối diện địch quân, sẽ bị truy tố ra trước tòa
án quân sự mặt trận với trường hợp khẩn cấp.
Tất cả hành vi cướp giật phá hoại, khủng bố sẽ bị trừng phạt, xử bắn
tại chỗ do các đơn vị Quân Cảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa toàn
quyền áp dụng, thi hành.
Huế hồi sinh từ những những giòng Quân Lệnh mạnh mẽ và sự hiện diện
uy nghiêm của vị Tướng Quân Tư Lệnh. Và người Huế, Quảng Trị trở về.
PHẢN CÔNG
Để mở đầu cho ngày 28 tháng 6, khai diễn chiến dịch giải tỏa toàn
thể Quảng Trị, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã chuẩn bị, thực hiện
những điều kỳ lạ kể từ ngày nhậm chức Tư Lệnh ngày 1 tháng 5, chỉ
hơn một tháng trước. Những điều kỳ lạ nầy không do phía người Việt
chủ quan tự định đặt, nhưng hiện thực trong báo cáo của Tướng Fred
Kroesen, Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn I với Đại Tướng Abrams: ‘’Ông ta đã
làm cho Ban Tham Mưu hoạt động chưa từng có ở Quân Đoàn I. Tướng
Trưởng đã đẩy bộ máy kia chạy với một cách thế khẩn cấp không bao
giờ thấy từ trước đến nay (13). Và Tướng Abrams đã không lầm đối
tượng khi trao trực tiếp đến những người bạn vũ khí tối hảo mà ông
vừa nhận được: Hai mươi dàn phóng hỏa tiễn chống tăng TOW được gởi
ngay đến mặt trận Vùng 1 cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến và Sư Đoàn Dù với lời bảo chứng của riêng Tướng Ngô Quang
Trưởng (14). Những vũ khí mới mẻ, công hiệu, chiến thuật linh động
sáng tạo phối hợp nhau nên thành một thế trận liên hoàn dưới tấm
thảm lửa yểm trợ của phi cơ chiến lược B-52 từ Guam, giàn hải pháo,
phi cơ của Hải Quân Mỹ từ Hạm Đội 7, phi cơ Mỹ, Việt từ Đà Nẵng, Chu
Lai đã kết nên sức tổng lực của Lôi Phong mà những sư đoàn 304, 308,
324B và 325 tổng trừ bị của miền Bắc đã phải chôn vùi phiên hiệu lẫn
khả năng chiến đấu. Sau đây là những trận đánh khai cuộc điển hình
trước buổi oanh liệt quyết định với mục tiêu Cổ Thành Đinh Công
Tráng nơi Thị Xã Quảng Trị.
Sau cuộc lui binh oan nghiệt, hỗn loạn, rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị,
căn cứ Ái Tử và những vị trí quan yếu Bắc Sông Thạch Hãn, kể từ ngày
1 tháng 5, phòng tuyến cực Bắc của miền Nam dừng lại ở Sông Mỹ
Chánh. Con sông rộng không quá một trăm thước chiều ngang kia thật
sự không thể là tuyến phòng thủ thiên nhiên hữu hiệu, hơn thế nữa,
đường tiếp cận trong Trường Sơn, qua ngã thung lũng A Sao, A Lưới để
về Huế đã hoàn toàn thuận lợi khi các binh đoàn cộng sản chiếm được
những căn cứ hỏa lực các binh đoàn cộng sản chiếm được những căn cứ
hỏa lực Bastogne, Checkmate, cửa vào Thành Phố Huế từ ngõ Tây-Nam.
Nếu lực lượng cộng sản tiếp tục lấn chiếm được đoạn phía Nam Huế
(đường đi Đà Nẵng), và cắt Đường Số I ở khoảng An Lỗ, theo chiều
ngang của Sông Bồ thì Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến nơi phòng tuyến
Mỹ Chánh nầy đã nằm gọn trong một chiếc túi bị thắt chặt cả hai đầu
Nam lẫn Bắc, không cần bị tấn công cũng sẽ phải rút đi, mà chắc gì
thoát được về Đà Nẵng (Chiến trận tháng 3.1975 sau nầy là minh chứng
cụ thể của ý niệm vừa trình bày). Đoạn Mỹ Chánh-Huế chỉ khoảng 50
cây số, và sau Huế là Đà Nẵng với hơn 100 cây số còn lại. Chiến dịch
tấn công miền Nam của bộ tổng quân ủy miền Bắc với tên hiệu Nguyễn
Huệ ắt sẽ trở thành hiện thực với cuộc ‘’Nam tiến ngụy danh giải
phóng’’ nếu như phòng tuyến Mỹ Chánh vỡ từ đầu những ngày tháng
5.1972. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến của Đại Tá Bùi Thế Lân (Đại Tá Lân thay Trung Tướng Lê Nguyên
Khang giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn cùng ngày 1 tháng 5) với những Lữ
Đoàn 147 và 258 Thủy Quân Lục Chiến dẫu bị tổn thất nặng trong suốt
trận chiến kể từ tháng 3 nơi những căn cứ hỏa lực Holcomb, Sarge,
Núi Bá Hổ, Mai Lộc Nam Sông Bến Hải, đã không để mưu định kia nên
hiện thực. Hơn thế nữa, đơn vị trấn đóng tuyến Mỹ Chánh trên Quốc Lộ
I, điểm tấn công chính của Bắc quân nếu muốn mở đường về Huế kia lại
là Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến ‘’Trâu Điên’’ của Trung Tá Nguyễn
Xuân Phúc, Tiểu Đoàn thượng thặng của Binh Chủng, cũng là đơn vị
lừng lẫy nhất của Quân Lực Cộng Hòa. Thế nên, bộ binh miền Bắc không
thể nào vượt qua được bảy mươi thước sông bề ngang mong manh này.
Chắc chắn không thể được. ‘’Một thằng ‘cháu của bác’ nào qua đây,
tôi sẽ ‘biệt phái’ nó đi gặp bác nó ngay’’. Trung Tá Phúc, ‘’Robert
Lửa’’ đã nói như thế với những phóng viên báo chí tại Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn ở Đồi Đức Mẹ cạnh Sông Mỹ Chánh trong buổi họp báo bỏ túi
ngày 1 tháng 5. Chung quanh xác chết những đặc công cộng sản (đơn vị
đánh thăm dò, mở đường qua cầu, hướng về Huế) nằm rải rác đến cây
cầu vừa bị giật sập còn bốc khói. Từ phòng tuyến mong manh này, với
lòng tin cậy đối với những đơn vị tăng phái hành quân. Trung Tướng
Trưởng trả lại quyền điều động đơn vị cho Đại Tá Lân trong khu vực
trách nhiệm. Lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, Sư Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến được sử dụng hết sức mạnh tổng hợp đúng kích thước của một
Sư Đoàn. Biết như thế để hiểu tại sao đã có những thiệt hại oan
uổng, vô lý ở trận Bình Giả, vùng rừng miền Đông Bộ tháng 12.1964
(15) với Lam Sơn 719, cũng nơi đất Trị-Thiên nầy. Đấy là do khi các
Tiểu Đoàn bị xé lẻ và nguy hại hơn nữa nếu các Đại Đội tác chiến
phải phơi thân đơn độc nơi những căn cứ hỏa lực, dưới cơn mưa lũ của
đạn pháo cộng sản qua những ngày dài chịu đựng, để đến một kết thúc
không tránh khỏi khi các đơn vị ấy cạn đạn dược, không được tải
thương, tiếp tế, không phi pháo yểm trợ. Trận đánh nơi những cao
điểm ‘’C-Charlie’’ ở chiến trường Tây Nguyên, Kontum với Tiểu Đoàn
11 Dù trong những ngày giữa tháng 4 vừa qua là một đau thương còn
quá mới. Nay, người lính giành lại thế chiến đấu và tất nhiên họ
phải chiến thắng. Nói lại thêm một lần cũng chưa đủ. Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng đã trả lại cho người lính ở mặt trận Trị-Thiên sức
chiến đấu thần kỳ của họ.
Từ phòng tuyến Mỹ Chánh, một đơn vị Viễn Thám Thủy Quân Lục Chiến
ban đêm men theo bóng tối vượt qua sông chiếm cứ một đầu cầu để ngày
mai, 12 tháng 5 cuộc hành quân Sóng Thần 5.1972 khai diễn có vị trí
đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Với đoàn trực thăng cơ hữu CH-53 của Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ từ Quân Vận Hạm Okinawa bay vào, hai Tiểu Đoàn 3
và 8 Thủy Quân Lục Chiến trực thăng vận đột kích chớp nhoáng xuống
bờ biển phía Tây Quận Hải Lăng, Nam Quảng Trị khoảng 10 cây số. 9
giờ sáng, cuộc đổ bộ hoàn tất 1200 chiến sĩ Cọp Biển tràn lên trận
địa, dạng hình những chiếc áo rằn màu xanh xô tới như sóng biển.
Quân tiến như qua chỗ không người, đám bộ đội trở tay không kịp bởi
phía chỉ huy Bắc quân chỉ đề phòng cuộc tấn công từ mạn Nam lên, nơi
phòng tuyến Mỹ Chánh. Nhưng thật cũng có một cánh quân tiến lên từ
phía Nam. Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến vượt sông ghìm chặt trung
đoàn 66 Bắc Việt cả hai mặt Bắc-Nam. Đơn vị cộng sản phân tán mỏng
rút lui để lại 240 xác chết đếm được. Chúng ta nêu lại yếu tố kỹ
thuật trận liệt đã một lần bàn đến, quân số thiệt hại ắt hẳn phải
gấp ba lần xác chết để lại trên chiến địa kia. Ba Tiểu Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến tổn thất nhẹ, rút về lại phòng tuyến Mỹ Chánh trong
buổi chiều cùng ngày, để lại một trực thăng CH-53 trúng đạn đã được
phá hủy tại chỗ. Phía Tư Tưởng mặt trận B2 (của Bắc quân) kể từ khi
khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ Tổng tấn công miền Nam bị khựng lại
với câu hỏi: Phía quân Nam sẽ đánh vào đâu ? Như thế nào ? Chiến
dịch Nguyễn Huệ sau nầy được giới nghiên cứu quân sự thế giới đánh
giá là cuộc tổng tấn công lớn thứ hai của khối cộng sản kể từ lần
xâm lăng Nam Hàn năm 1950 ở bán đảo Triều Tiên với 300.000 ngàn chí
nguyện quân Trung Cộng (16). Điểm khác biệt là vào thời điểm ấy,
Danh Tướng Mac Arthur có dưới tay 365.000 quân (Mỹ và Liên Hiệp
Quốc), được cả thế giới yểm trợ và tâm lý quần chúng, Quốc Hội Mỹ
phấn khởi, tự tin sau thắng lợi Thế Chiến Thứ Hai đồng thuận (kể cả
thái độ giám tiếp của Liên Sô) để chính phủ Mỹ áp dụng những biện
pháp quân sự mạnh mẽ, mà cũng đã phải rút lui về bán đảo Pusan trong
giai đoạn đầu cuộc chiến. Này, trận chiến mùa Hè 1972 hoàn toàn
không có Bộ Binh Mỹ tham dự và Không Quân Mỹ thực hiện lần cứu viện
cuối cùng cho Đồng Minh trước khi bị Tu Chính Án Frank Church kìm
giữ hẳn (17). Trong ‘’Vietnam A History’’, với tính vô liêm sỉ tàn
nhẫn cao độ, Stanley Karnow trình bày chuyện kể về Việt Nam hoàn
toàn cố ý nhảy qua đoạn chiến sử năm 1972 này. Y ta chỉ khai tác đề
tài Mậu Thân Huế, 1968 với yếu tố ‘’Phía Việt Nam Cộng Hòa cho người
lẻn vào ‘’khu giải phóng khu vực do phía cộng sản tạm chiếm’’ giết
những người ‘’tình nghi đã cộng tác với bộ đội cộng sản’’, xong ném
vào chung hố với những nạn nhân do cộng sản chôn sống để vu oan là
‘’cộng sản giết người!!’’ (18). Y chứng minh điều trung thực của câu
chuyện qua trích dẫn bài hát Trịnh Công Sơn: ‘’Chiều đi qua Bãi Dâu,
vỗ tay trên những xác người’’ Đoạn viết nầy hàm ý ‘’những xác người
nầy do phía Việt Nam Cộng Hòa sát hại rồi đổ tội cho việt cộng’’. Và
‘’nếu như có thật’’ một số người bị chết bởi tay bộ đội cộng sản,
thì cũng chỉ là do ‘’việt cộng từ du kích cộng sản miền Nam’’ trả
thù những kẻ ‘’có nợ máu đối với nhân dân’’, chứ bộ đội miền Bắc
hoàn toàn vô can trong vụ Tổng công kích và thảm sát người ở Huế.
Sau 1975, tạp chí Nationnal Geographic có đăng bài viết của Trần Văn
Đỉnh, vốn là nhân viên ngoại giao cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa, qua
phỏng vấn của người nầy, viên bí thư thành ủy Huế đặc trách ngoại
vụ, Nguyễn văn Diêu (kẻ tên Nguyễn văn Diêu nầy là ai ?) có ý kiến
về cuộc thảm sát năm 1968 như sau: ‘’Lê Minh, viên chỉ huy quân sự
mặt trận Huế trong thời đoạn ấy đã xác nhận: ‘’bộ đội của anh ta có
phạm tội ác’’. Nhưng lời thú tội được biện hộ ngay liền: ‘’Lê Minh
viết tiếp: Bởi chúng tôi không kiểm soát được những ‘hành vi tán ác
của cá nhân binh sĩ’. Nhưng dẫu sao là người chỉ huy, bao gồm cá
nhân tôi phải chịu trách nhiệm’’. (18 bis) Quý hóa quá, cũng có lúc
cán bộ cộng sản thú tội giết người! Nhưng tên Lê Minh là tên thật
hay giả của một anh cán bộ loại tép riu nào ? Hắn ta là ai ? Một tội
ác lớn chôn sống hàng ngàn người theo một kế hoạch hiểm độc tinh vi
thoắt được giải thích và giải quyết bởi lời thú tội từ một tên tuổi
bá vơ nào đấy được gọi là Lê Minh ?! Nhưng anh ta cũng không hẳn
phạm tội vì đấy chỉ là ‘’tội ác cá nhân’’ của những tên bộ đội vô
danh nào đó mà thôi! Hằng năm cho đến những năm đầu Thế Kỷ 21 nấy,
đảng cộng sản vẫn ra chỉ thị làm lễ kỷ niệm chiến thắng Mậu Thân. Lẽ
tất nhiên, buổi lễ có kể lại ‘’chiến công vĩ đại’’ Tết 1968 ở Huế.
Vậy ‘’thành tích chiến thắng đánh Mỹ, diệt Ngụy’’ được kể ra kia với
‘’hành vi tàn ác cá nhân của một tên bộ đội’’ dưới quyền Lê Minh có
khác gì nhau ? Nhưng Tường, dạy học ở Huế, một trong những kẻ gọi là
‘’văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước cách mạng, bạn chiến đấu của nhạc
sĩ Sơn’’, trong tập băng truyền hình ‘’Vietnam A History’’ thẳng
thừng trả lời ‘’Chúng tôi giết chúng như giết loài rắn độc’’. Cộng
sản Hà Nội đến cỡ của Tố Hữu cũng không thể trân tráo, ngang ngược
xuẫn động hơn những con người với những sự việc vừa nêu trên. Chúng
ta tạm rời bỏ những xảo trá đê tiện chính trị để trở lại chiến
trường với những người lính của quê hương. Không để cho phía cộng
sản có được thời gian chuẩn bị cuộc phản công. Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng chỉ thị đến hai Tư Lệnh Chiến Trường. Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Đại Tá Bùi Thế Lân. Tư Lệnh Thủy
Quân Lục Chiến phải thanh toán hai gọng kềm Tây-Nam và Đông-Bắc Huế
trước lần tổng phản công lên mặt Bắc. Mặt trận Tây-Nam được thực
hiện theo diễn tiến như sau: 9 giờ 15 ngày 14 tháng 5.1972 tại Bộ
Chỉ Huy Trung Đoàn 1 Bộ Binh, Tướng Phú nhận được báo cáo mới nhất
của cánh quân Trung Đoàn 3, đơn vị đánh chiếm lại căn cứ Bastogne
(bị mất từ tháng 3) từ mạn Bắc. Bastogne là tên do các đơn vị Mỹ đặt
để nhắc lại trận đánh lừng lẫy của Sư Đoàn Nhẩy Dù 82 trong Thế
Chiến Thứ Hai do Tướng Maxwell Taylor chỉ huy, nay Sư Đoàn I đặt lại
với một danh tự đầy cảm xúc Thuận Hóa tên cũ của Thừa Thiên-Huế từ
ngày Chúa Nguyễn vào Nam mở nước, Thế Kỷ 17. Người Quảng Trị, Thừa
Thiên dựng nước và mở nước từ đất Ái Tử, Thuận Hóa, nên người lính
Sư Đoàn I phải trở lại Thuận Hóa vì ở đấy không chỉ là một mục tiêu
quân sự, nhưng là biểu tượng sức chiến đấu của đơn vị, tấc lòng dân,
quân tha thiết với phần đất cha ông. Trận đánh từ sáng sớm đến xề
chiều vẫn chưa có kết quả quyết định dù phía Trung Đoàn 3 đã báo
cáo: ‘’Chúng tôi vượt qua hàng trăm xác của địch nhưng bởi hệ thống
chốt của chúng (Đào theo hình chữ A) quá dày đặc nên không thể nào
thanh toán mau chóng được. Thành phần bộ đội giữ chốt lại bị xích
chân vào súng, nên chúng không thể chạy trốn, quân ta phải thanh
toán từng chốt một cho đến gã lính cuối cùng bị tiêu diệt, và vì thế
cuộc tiến quân phải trì chậm lại. ‘’Báo cáo chính xác cuối ngày dừng
lại với con số 346 địch chết tại chỗ và 100 súng đủ loại bị tịch
thu, phần đông là thượng liên và đại liên phòng không, những chốt
lớn còn có súng cối do một tiểu đội (10 người) trách nhiệm cố thủ.
Trên đỉnh ‘’T-Bone’’, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Tướng Phú nói
cùng với phái đoàn báo chí và phóng viên điện ảnh từ Sài Gòn đến:
‘’Nội trong đêm này, Sư Đoàn I sẽ trở lại Bastogne. Trở lại Bastogne
để chứng tỏ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thừa sức để tái chiếm bất cứ
vùng đất nào mà trước đây tạm bỏ’’.
Nhưng dự định của Tướng Phú và quyết tâm của người lính Sư Đoàn I
không thực hiện đúng hẹn được, bởi hai tiểu đoàn K5 và K9 cộng sản
quyết liệt chận đứng cánh quân Trung Đoàn 3, chủ yếu là tại đỉnh 100
(cách Bastogne 800 thước), đơn vị chốt tại đây tử chiến tuyệt vọng,
không khoan nhượng. Nửa đêm, rạng 14 qua 15, Tướng Phú vào máy
truyền tin dã chiến nói chuyện trực tiếp với người chỉ huy Trung
Đoàn 3: ‘’Chỉ trong đêm nay, hay ngày mai, chứ không thể là 22 hay
29 tháng 5, mấy đứa con đầu của anh (các đơn vị tấn công tiến
phương) có vào được hay không ? Đừng nói lòng vòng…Các anh đừng làm
hổ danh Sư Đoàn I’’ (19) Sáng sớm ngày 15, Tướng Phú sau lần tiếp
xúc mật với Tướng Trưởng, có ngay quyết định táo bạo: ‘’Dùng một đơn
vị Trinh Sát nhảy xuống Bastogne xong từ trong trong đánh ra ngoài,
liên kết với lực lượng của Trung Đoàn 3 từ ngoài tấn công dứt
điểm’’.
Cuộc trực thăng vận dự trù lúc 10 giờ, đợi cho trời bớt sương mù
theo yêu cầu an phi…10 giờ, 11 giờ, 12 giờ…từng giờ một phải được
kéo lùi vì khu trục không nhìn thấy mục tiêu để đánh dọn bãi cho
quân bạn. 13 giờ 30 Giờ G của chiến dịch đột kích bắt đầu. 18 pháo
đội 105 ly và 155 ly đồng tập trung hỏa lực trút xuống Bastogne vũng
lưới lửa. Mỗi pháo đội có 6 khẩu súng, tức 108 nòng đại pháo cùng
lần tác xạ, mỗi pháo đội nhận được lệnh ‘’pháo đội 10 tràng’’, có
nghĩa số lượng đạn bắn đi nhân lên 10 lần số súng kia. Pháo Binh
chấm dứt để khu trục vào vùng. Đoàn khu trục của Phi Đoàn 518 từ
Biên Hòa ra tăng phái mặt trận giới tuyến từ đầu tháng 4, những
chiếc phi cơ AD-6 thật ra đã thuộc loại ‘’bỏ đi’’ của Không Quân lẫn
Hải Quân Mỹ chỉ dùng để huấn luyện, vì quá giờ bay sau Đệ Nhị Thế
Chiến 1945, nhưng khi vào tay Phi Công Việt Nam với những ‘’người
sinh ra để bay Skyraider’’ loại khu trục cánh quạt có khả năng mang
số bom nặng hơn trọng lượng của nó như Nguyễn Văn Cừ, Phạm Phú Quốc
(thế hệ đàn anh) hoặc Trần Thế Vinh, Phạm Văn Thặng, Nguyễn Du,
Nguyễn Văn Phong…hôm nay, chúng trở thành một vũ khí tấn công, yểm
trợ tiếp cận cho bộ binh tuyệt hảo. Chỉ từ một tuần từ 2 đến 9 tháng
Tư, Trần Thế Vinh đã hạ 21 chiến xa với những trái bom đặt dưới cánh
phi cơ của anh. Sáng ngày 15 nầy cũng thế, những trái bom rơi từ phi
cơ AD-6 của Phi Đoàn 518 như đặt vào những trái bóng nhỏ vào những
chiếc lỗ khít khao, bật tung toàn bộ hệ thống cố thủ của các chốt
chung quanh và Trung Tâm Bastogne. Sau đợt dội bom cường tập, Trung
Đội Trinh Sát của Thiếu Úy Hiệp nhẩy xuống mục tiêu khi còn nguyên
mùi bom, lửa cháy trên đất đá. 9 giờ sáng ngày 16 tháng, đại quân Sư
Đoàn I chiếm lính tất cả các cao độ quanh Bastogne. Từ trên cao nhìn
xuống, lá Cờ Vàng của Thuận Hóa, Bastogne đổ nát sáng rực giữa chập
chùng màu xanh của rừng với hơi khói đạn chưa tan.
Sau thất trận thê thảm ở cửa ngõ vào Tây-Nam Huế, nơi thung lũng A
Sao, sư đoàn 324B phải rút về Lào để tái bổ sung, biến mất khỏi
chiến trường Trị-Thiên. Nhưng thất bại quân sự của phía cộng sản
không chỉ dừng lại với sư đoàn 324B mà còn kéo dài, mở rộng hơn với
ảnh hưởng sâu xa đối với toàn thể mặt trận phía Bắc nói riêng và
sách lược của cuộc tổng công kích mùa Xuân 1972 trong tầm cỡ rộng
lớn tổng quát. Chúng ta hãy theo dõi tiếp sức mạnh vô địch của Lôi
Phong.
Do một tính toán sai lầm tai hại (sau này giới nghiên cứu chiến
lược, quân sử Mỹ, Việt, kể cả phía cộng sản đồng xác nhận đấy là sai
lầm của chính Võ nguyên Giáp) (20), Bắc quân mở trận đánh phục thù
vào ngày 21 tháng 5 bằng đội hình mở rộng trên trận địa với chiến xa
và bộ binh tùng thiết theo chiến thuật cổ điển của chiến tranh quy
ước ở một vùng chiến trường mà họ đánh giá là có ưu thế. Trên vùng
lau sậy bạt ngàn dọc Phá Tam Giang song song với bờ biển, bộ binh và
chiến xa cộng sản dàn đội hình theo trục lộ 555 (con đường nối Quận
Hải Lăng cực Nam Quảng Trị về Quận Phong Điền, Bắc Thừa Thiên) Kiểm
soát được tuyến đường tức là nối được trục tiếp vận Bắc-Nam của vùng
đồng bằng thuộc hai Tỉnh địa đầu mà không cần phải phụ thuộc vào
Quốc Lộ I, hiện tại không thể vượt qua được chốt Cầu Mỹ Chánh (do
Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ, phần trên vừa trình bày).
Lực lượng cộng sản thoạt tiên được tấn công các Đồn Địa Phương Quân
và Nghĩa Quân, thành phần nầy được lệnh rút bỏ vị trí, lui về phòng
tuyến của Thủy Quân Lục Chiến. Nương theo đà thắng lợi ban đầu, Bắc
quân thọc sâu về phía Nam định bao vây, bọc hậu hai Tiểu Đoàn 3 và 9
Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng hai đơn vị nầy đã áp dụng một kế sách
tuyệt diệu: Bỏ trống trận địa không cho địch ưu thế chọn lựa chiến
trường, để dành lại tư thế, khả năng thủ thắng cuộc giao tranh theo
kế hoạch hành quân của mình, bằng cách lui binh sâu về phía Nam 5
cây số lập phòng tuyến mới. Khi binh đội cộng sản tiến vào khu vực
bỏ trống (của hai Tiểu Đoàn 3 và 9 Thủy Quân Lục Chiến vừa rút khỏi)
thì cơn mưa lũ lửa, sắt, thép của hàng trăm phi cơ Việt-Mỹ cùng đổ
xuống (nơi những vị trí đã sẵn yếu tố tọa độ tác xạ, dội bom). Nhưng
nhất quyết không chịu rời bỏ mục tiêu đã dự trù chiếm lĩnh, sáng sớm
ngày 22, lực lượng cộng sản tập trung hai mươi chiến xa còn lại mở
đợt tấn công lần hai vào vị trí Tiểu Đoàn 3 và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn
369, nhưng cố gắng này hoàn toàn phá sản, bởi những giàn phóng hỏa
tiễn TOW do Thủy Quân Lục Chiến sử dụng đã khai triển, vận động hết
hỏa lực đáng sợ của nó, bắn hạ 10 chiến xa T-54 ngay trong đợt phản
công đầu tiên, có chiếc bị cháy chỉ cách hầm chỉ huy Lữ Đoàn khoảng
400 thước. Thế trận Bắc quân hoàn toàn tan vỡ, thiệt hại 542 xác đếm
được mà theo ước tính phải thêm một trung đoàn nữa bị loại ra khỏi
vòng chiến. Như cơn điên mê của loài thiêu thân tuyệt vọng, Tư lệnh
mặt trận B2 cộng sản lại chuyển mũi dùi tấn công sang phía Tây, vùng
trách nhiệm của Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến và Liên Đoàn I Biệt
Động Quân. Cách đánh thí quân nầy không gây thâu đạt một kết quả nhỏ
nào mà còn để lại hơn hai trăm xác nằm chật trên những bờ bãi lau
lách màu đỏ thẫm. Màu đỏ vốn có do từ nước cặn phèn nay thêm sẫm màu
bởi máu đọng vũng. Không để cho địch quân có thì giờ dưỡng thương,
Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến sử dụng Lữ Đoàn còn lại đánh dập toàn
bộ những mũi tấn công của binh đoàn cộng sản cố lấn sâu xuống phía
Nam Sông Mỹ Chánh. Kế hoạch tấn công dứt điểm được hình thành với
cuộc hành quân Sóng Thần 1972 để đưa Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến
vào trận.
Có thể nói rằng, đây là một cuộc hành quân Thủy-Bộ được tổ chức cao
nhất từ trước đến nay của chiến tranh Việt Nam do phối hợp nhịp
nhàng, vận dụng hết khả năng cơ động của Binh Chủng Thủy Quân Lục
Chiến Việt Nam, kỹ thuật khoa học quân sự hiện đại tinh vi của Quân
Đội Mỹ, cùng sức mạnh ghê hồn của hỏa lực phi pháo. Ngày 23 tháng 5,
Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến kín đáo rời phòng tuyến bố quân để
ra bến tàu Tân Mỹ, năm cây số Đông-Bắc Thị Xã Huế, Tiểu Đoàn xuống
tàu nhỏ ra Hạm Đội 7 đậu ngoài khơi, chờ giờ vượt tuyến tấn công mà
đến lúc nầy cấp chỉ huy mới phổ biến cho binh sĩ biết. Cần mở một
giải thích quan trọng về địa thế của chiến trường được chọn. Từ lúc
chiến tranh Đông Dương Thứ I (1945-1854), vùng đất thuộc eo biển
miền Trung dọc Phá Tam Giang, nằm giữa Quốc Lộ I và bờ biển nầy là
một vùng cấm kỵ của lực lượng quân đoàn viễn chinh Pháp, bởi địa thế
quá hẹp, trống trải, nhưng là vùng sình lầy không thuận tiện đối với
việc điều động cơ giới, bộ binh di chuyển khó khăn, lại không có
chướng ngại thiên nhiên để che dấu khi tiếp cận mục tiêu hoặc ẩn
tránh nếu xảy ra trận đánh. Tháng 7.1953 Tướng Navarre (thay thế
Tướng De Latter giữ chức Tư Lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương từ tháng
Năm 1953) vừa cầm quyền được hai tháng, đã mở cuộc hành quân
Camargue với một lực lượng Thủy-Bộ đến 30 tiểu đoàn cốt để đánh bật
trung đoàn 95 cộng sản ra khỏi vùng, giải tỏa áp lực địch mạn Bắc
Huế, vẫn là một địa danh có giá trị tinh thần, tác động chính trị
đối với tâm lý người Việt những người vẫn còn lòng ngưỡng vọng một
ông Vua với danh hiệu Quốc Trưởng, với những danh xưng, nghi lễ
‘’hoàng thượng, bệ hạ’’. Nhưng dù khoa trương rầm rộ, cuộc hành quân
phải chấm dứt vài ngày sau vì số thương vong do mìn bẫy quá cao, và
không có một đụng độ đích đáng như dự trù. Và dù trận liệt đã báo
cáo bắt được 387 tù binh, 182 địch bị hạ, nhưng trung đoàn 95 kia
vẫn hoạt động, và tiếp tục chiến đấu ở thời gian sau. Từ đấy, binh
đoàn viễn chinh Pháp gọi địa danh đáng sợ này với một tên hiệu thê
thảm ‘’Dãy Phố Buồn Thiu’’, và Học Giả người Pháp Bernard Fall đã
dùng làm tiêu đề cho một Biên Khảo của ông về chiến tranh Đông Dương
Lần Nhất (1945-1954). Thế nên, địa danh trở nên quen thuộc với giới
nghiên cứu quân sự và người viết nên cuốn sách kia cũng đã thiệt
mạng do mìn bẫy khi theo Quân Đội Mỹ hành quân trên vùng đất nầy vào
năm 1967. Nhưng nay, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến phá tan huyền
thoại âm u kia lẫn lời tán tụng: ‘’sư đoàn ‘nặng’ 325 tổng trừ bị
quân đội Bắc Việt là một đơn vị quân đội nhân dân anh hùng, nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng’’. Với một phối hợp đồng bộ tuyệt hảo, Bộ Tư Lệnh Tiền
Phương Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đặt trên Soái Hạm USS
Blue Ridge cùng với Ban Tham Mưu Hạm Đội điều hành, chỉ huy cuộc
hành quân đưa Tiểu Đoàn 7 trở lại bờ biển bằng tàu đổ bộ của Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ. Khi đoàn quân cách bờ khoảng ba cây số, giàn hải
pháo của Hạm Đội 7 sử dụng những đại pháo có đường kính 16 inches
hay 406 mm như của Thiết Giáp Hạm New Jersey đổ một màn lửa và mảnh
thép công phá xuống các bãi đáp dự trù, sau cơn bão nhân tạo do các
hải pháo, phi cơ Hạm Đội xuất kích với Sky Hawk của Hải Quân hoặc
F-4C Phantom. A-7F Corsair của Thủy Quân Lục Chiến, tiếp dọn sạch
các mục tiêu và cuối cùng, con bài chủ lực B-52, vũ khí cột trụ của
Lôi Phong được gọi tới trải tấm thảm lửa hung hãm suốt chiều dài bãi
biển dọc theo Hương Lộ 555. Lửa cuồn cuộn tung hoành đỏ rực sóng
biển, hắt ánh hồng át mặt trời vừa bắt đầu bình minh. Từ khoảng cách
hai cây số, (khoảng an toàn tối thiểu đối với B-52, vốn là phi cơ
oanh tạc chiến lược), hai đợt tàu đổ bộ gồm mỗi đợt 40 chiếc đưa
Tiểu Đoàn 7 ào vào vào bờ như những cơn sóng biển…Mà thật sự là một
biển người đồng loạt xông lên bờ cát âm âm mùi bom lửa. Đơn vị cộng
sản cố thủ bờ biển trong chớp mắt phân tán mỏng chạy về Quốc Lộ I
tìm đường sống sót. Một đại đơn vị chỉ còn 10 (đúng con số 10) tù
binh ngơ ngẩn vì quá sợ hãi đưa cao tay đầu hàng lính Thủy Quân Lục
Chiến. Nhưng đơn vị cộng sản tháo chạy hướng Quốc Lộ I (để vào vùng
núi phía Tây), hoặc về phía Bắc (hướng Sông Thạch Hãn) cũng không
còn hy vọng được trốn thoát lần cuối, vì hai Tiểu Đoàn 6 và 4 đã
nhảy xuống giao điểm nút chặn (của Hương Lộ 555 hướng Nam-Bắc và
Hương Lộ 602 hướng Đông-Tây) với cuộc trực thăng vận thần tốc thực
hiện đúng vào lúc Tiểu Đoàn 7 đổ quân. Hai Tiểu Đoàn 4 và 6 đụng độ
ngay tại bãi đáp với trung đoàn 18, đơn vị thuộc sư đoàn 325, mà bộ
chỉ huy đã thoát khỏi trận địa từ sau những thiệt hại từ giữa tháng
5. Sau bảy ngày ‘’chà láng’’ mật khu ‘’Dãy Phố Buồn Thiu’’, Lữ Đoàn
147 trả khung cảnh im lìm cho khu vực đúng như tên gọi, rút lại về
phòng tuyến Mỹ Chánh, Quân Đội Cộng Hòa rút đi cùng lần biến mất
khỏi trận địa những đơn vị từng là huyền thoại của bộ đội miền Bắc.
Hai trung đoàn mang danh số 66 và 88 của quân đội nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa hoàn toàn mất dấu khỏi hồ sơ trận liệt kể từ ngày,
tháng nầy. Chỉ trong vòng một tháng 5, trong vùng trách nhiệm của
Thủy Quân Lục Chiến đã có tới hai ngàn xác đếm được, hơn ngàn vũ khí
bị tịch thu, 60 chiến xa bị loại khỏi vòng chiến, có chiếc khi bị
‘’bắt sống’’ còn nguyên vũ khí, số đạn cấp phát: Binh sĩ những Tiểu
Đoàn 6 và 8 Thủy Quân Lục Chiến của Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, Nguyễn Văn
Phán đã không cho xạ thủ những chiếc tăng nầy bắn được một viên đạn
(21).
Sau 27 tháng Bảy, Thủy Quân Lục Chiến thay thế Nhẩy Dù để ‘’dứt
điểm’’ Cổ Thành Quảng Trị. Thật ra, kể từ 25 tháng 7, Tiểu Đoàn 5 Dù
đã bám được bức tường đá Cổ Thành Quảng Trị với yểm trợ tiếp cận của
phi cơ A-37 Không Quân Việt Nam, nhưng khi Đại Úy Nguyễn Tiến Sĩ,
Đại Đội Trưởng 51 của Tiểu Đoàn nầy thúc lính bò lên Thành thì cũng
là lúc Không Quân Hoa Kỳ can thiệp, dội bom Nội Thành, do những lý
do kỹ thuật, hai trái bom đã đánh nhầm vào đội hình quân bạn, Tiểu
Đoàn 5 mất đà, khựng lại và dội ngược. Sư Đoàn Dù lại để trống Ngã
Bến Chùa, đường qua sông Thạch Hãn về Nhan Biểu, Ái Tử. Đường tiếp
vận quan yếu của hệ thống hậu cần Bắc quân. Chín Tiểu Đoàn Dù hiện
có chỉ vừa đủ rải từ Mỹ Chánh đến Quảng Trị, từ đường chiến thuật
556B ra đến Quốc Lộ I thế nên, cần phải có thêm một Lữ Đoàn (với ba
hoặc bốn Tiểu Đoàn Bộ Binh tác chiến) tăng cường để chận con đường
Ái Tử-Nhan Biều-Cổ Thành là ước vọng tha thiết của Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn Dù hay cũng chính của Tướng Trưởng. Gần hai tháng qua đi kể từ
ngày khởi cuộc phản công, tất cả các đơn vị tham chiến bị ngưng lại
bên bờ hào của vòng Thành đá tảng, tuyến chiến đấu của ta và địch
cách nhau đúng 400 thước (hai tấn đạn súng cá nhân), nhưng cũng có
nơi không còn thước nào cả. Bởi các chốt kháng cự đan kín vào nhau,
nên nay đã đến lúc cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến để thực hiện
lời nguyền trước Quốc Dân và lịch sử. Tư Lệnh Chiến Trường, Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định cùng hai viên Tư Lệnh Nhảy Dù và
Thủy Quân Lục Chiến. Hai Tướng lãnh vừa được vinh thăng tại mặt
trận, trên chiến địa Trị-Thiên nầy. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và
Bùi Thế Lân một kế hoạch tái phối trí Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
nhận trách nhiệm phần đất bên trái Quốc Lộ I chạy dài ra đến biển.
Sư Đoàn Dù từ trái Quốc Lộ đổ sâu vào hướng núi. Tiểu Đoàn 6 Thủy
Quân Lục Chiến thay chỗ 6 Dù chịu trách nhiệm góc Tây-Nam Cổ Thành
Ngã Tư Đường Trần Hưng Đạo-Quang Trung, Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục
Chiến đổi 5 Dù chịu trách nhiệm phòng tuyến dọc Đường Lê Văn Duyệt
đối diện Cửa Tiền, Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đổi 11 Dù. Trâu
Điên (Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến), Quái Điểu (Tiểu Đoàn 1 Thủy
Quân Lục Chiến) chận đường cửa Bắc ngang Sông Thạch Hãn, cũng là
đường tiếp vận cho lực lượng cộng sản cố thủ Cổ Thành. Những giòng
chữ sau đây viết theo câu chuyện Người Lính Thủy Đánh Bộ kể lại
(22). Chúng ta hãy sống cùng những giờ phút dũng liệt với xương máu
của mỗi một người lính. Những Người Lính Vô Danh mà linh thiêng sông
núi đã hun đúc nên thành, gánh chịu suốt cuộc chiến điêu linh.
Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến,
vị Lữ Đoàn Trưởng thâm niên nhất của Sư Đoàn nhận nhiệm vụ chỉ huy
đơn vị xung kích tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị từ hướng Tây-Nam. Lữ
Đoàn 147 chịu trách nhiệm mặt phía Đông từ Quận Triệu Phong ra đến
biển. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến kể từ ngày thay thế Nhảy Dù tuy đã
chiến đấu không hề ngưng nghỉ nhưng cũng chỉ đẩy các chốt địch từ
ngoài vào trong Cổ Thành, và điểm gần nhất cũng còn cách bờ hào
Thành khoảng hai trăm thước. Không thể chần chờ hơn nữa, Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn I dưới điều hành trực tiếp của Tướng Trưởng soạn thảo Kế
Hoạch Lôi Phong giai đoạn hai sử dụng tối đa hỏa lực phi, pháo trong
48 giờ liên tiếp theo diễn tiến. Không Quân chiến lược B-52 liên tục
trải thảm từ Sông Thạch Hãn (Bắc Cổ Thành) đến Đông Hà (Bắc Quảng
Trị 50 cây số), có nhiệm vụ đập nát tất cả vị trí pháo binh, hỏa
tiễn, bộ chỉ huy, điểm tiếp vận, tiếp đến hải pháo từ Hạm Đội 7 bắn
vào các điểm nghi ngờ liên tục trong suốt chiến dịch vào những lúc
phi cơ tạm rời vùng, pháo binh diện địa 175 ly từ Phong Điền tăng
cường quấy rối, đặc biệt chiếu cố thật kỹ vị trí tọa độ Cổ Thành, 12
khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu 105 ly cơ hữu của Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến được lệnh tác xạ không ngưng một phút, Pháo Thủ chỉ thay nhau
ngủ vài giờ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một
trái đạn rớt ra ngoài bờ Thành. Đạn bắn không cần đếm, hàng trăm xe
vận tải hạng nặng chở đạn đi suốt ngày đêm trên lộ trình Đà
Nẵng-Quảng Trị, đạn giở xuống để ngay trên Quốc Lộ I dài hàng cây
số, lính Pháo Binh cứ tự động đến lấy mang về vị trí pháo binh khỏi
phải làm phiếu lãnh. Có người đã ôm viên đạn trong tay nhưng kiệt
sức, không nạp nổi vào nòng, anh ta ngã gục bên khẩu pháo. Trong
vòng 48 giờ, đã có 60.000 quả đạn bắn đi, không một phân đất nào của
khu vực chung quanh Cổ Thành trong Thị Xã không có dấu đạn rơi.
Về phần bốn bờ tường Thành được dành cho Không Quân chiến thuật Việt
Nam và Mỹ từ Đà Nẵng, Chu Lai, Tuy Hòa, Hạm Đội 7 đồng thực hiện.
Các Phi Công phải lựa chiều đánh bom làm sao quả bom rơi đúng trên
năm thước bề dày của chiếc Thành, cốt triệt hạ khối đá vuông vức kia
thấp xuống, càng thấp càng tốt, phải đập nát bốn lô cốt ở bốn góc,
khóa họng những thượng, đại liên mà xạ thủ đã bị xích chân vào súng.
Và cuối cùng cũng phải cầu viện đến ‘’bon mắt thần’’, những quả bom
nặng 500 cân Anh, điều khiển bằng Rada để đánh xuống những đoạn
Thành quá kiên cố mà pháo và bom thường không triệt hạ được. Nhưng
cái tường Thành ngạo nghễ kiên cố kia dầu chỉ còn thấp khoảng vài ba
thước, gạch đá ngổn ngang vẫn còn những đám con cháu ‘’bác Hồ’’ chui
rúc trong những căn hầm chữ A, loại hầm cứng chắc có khả năng chịu
được phi pháo, chỉ trừ khi bom rơi ngay vào miệng hầm. Thế nên, cứ
dứt pháo thì địch lại nhô đầu ra bắn điên cuồng về phía trước mặt,
hiệp cùng cối pháo, hỏa tiễn bên kia bờ Thạch Hãn, trong núi, Nam
Sông Bến Hải dội xuống dồn dập. Không để bị bó buộc vì tình thế, Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lại thêm một lần thay đổi ý định
điều quân: Lữ Đoàn 369 bàn giao vị trí cho bạn, lui binh làm thành
phần trừ bị, cái ‘’bánh chưng’’ gọi là Cổ Thành kia được cắt ra làm
hai: Nửa phía Đông giao cho Lữ Đoàn 258 điều động ‘’Trâu Điên’’ Tiểu
Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đánh từ hướng Tây. ‘’Ó Biển’’ Tiểu Đoàn 6
Thủy Quân Lục Chiến đánh chính diện Cửa Hữu theo Đường Quang Trung,
vùng cư dân trước đây gọi là Phường Thạch Hãn. Lực lượng tấn công
dứt điểm sẵn sàng trên tuyến xung phong đợt Lôi Phong chấm dứt sau
48 giờ bão lửa.
Tại hầm chỉ huy Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu Tá Cảnh nói
cùng Đại Úy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3: ‘’Anh Thạch, tôi biết
anh muốn lui về nghỉ có mấy ngày, nay giao cho anh nhiệm vụ nầy thì
kỳ quá, nhưng Tiểu Đoàn mình chỉ còn anh là Đại Đội Trưởng cứng
nhất, kế hoạch Lôi Phong 2 đã bắt đầu từ ngày hôm qua, đợi chờ chấm
dứt, tối nay anh đem Đại Đội lên trám tuyến cho ‘’thằng 1’’ (Đại Đội
1), rồi tìm cách tiến sát vào chân thành kia trước khi trời sáng.
Nếu không được thì lui về, để trời sáng tụi nó nhìn rõ là hỏng việc.
Đại Úy Thạch về họp cùng với Trung Đội Trưởng để bàn định kế hoạch
đột kích. Anh nói với những Trung Đội Trưởng đang ngồi chen chúc
trong chiếc hầm chìm bóng tối, những tròng mắt khô rốc mệt mỏi trừng
trừng nhìn xuống tấm bản đồ đặt trên đất: ‘’Đây, cái bờ Thành nầy,
làm thế nào Đại Đội mình cũng phải leo lên cho được, điều tôi dặn kỹ
là binh sĩ không được bắn vu vơ, đến sát bờ Thành thì tung lựu đạn
thật nhiều rồi leo lên, bám chặt vào đó. Đừng để tên nào leo xuống.
Bám vào được thì mình mới có thể bung ra hai bên. Đến trước viên
Thiếu Úy cùng tên Thạch, anh nói riêng: ‘’Ông với tôi cùng tên
‘’Thạch là đá’’, đá thì phải cứng, tôi chọn ông đi tiên phong là
thế. Hy vọng ông làm được việc’’.
Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến vượt tuyến tấn công lúc
nửa đêm, ba giờ sáng, đoàn quân đến mục tiêu ấn định, bờ tường Cổ
Thành Quảng Trị, nơi cách hầm đóng quân hai trăm thước khoảng cách
được vượt qua bởi những người lính bò im lặng trong đêm trên gạch
đá, mìn bẫy và dưới trùng điệp lưới lửa, đạn đại pháo của cả hai
bên…Đột nhiên, một loạt đạn pháo binh nổ rền ngay trên đầu hướng
tiến của Đại Đội, Thạch (Đại Đội Trưởng) giật mình cầm ống nói:
- Thạch Thảo (danh hiệu truyền tin của Thiếu Úy Thạch) anh có làm
sao không ?
- Trình thẩm quyền vô sự. Có tiếng nói lao xao bên đầu Trung Đội của
Thiếu Úy Thạch (nghe qua máy truyền tin), tiếp tiếng la mừng rỡ của
người Trung Đội Trưởng: Trình Đại Bàng (người chỉ huy), thằng Xuân
của tôi đã qua hào vào sát bờ Thành, pháo đang nổ trên đầu nó, Thẩm
Quyền bảo ông ‘’Phở Bắc’’ (Pháo Binh) ngưng đi để tụi nó leo lên…
Báo cáo được nghe tiếp với những lời nói dứt khoảng dồn dập lẫn
trong âm động đạn súng tay, lựu đạn, đại liên và pháo, cối từ phía
Bắc bắn xuống yểm trợ đám bộ đội cộng sản… ‘’Thằng Xuân đã lên đến
bờ tường rồi…Chúng tôi đã sang…bên kia…bờ hào nước…Tụi nó…tụi nó bắn
ghê quá…Lên…lên…đi’’. Không đợi nghe hết lời báo cáo, Đại Úy Thạch
đứng sổng dậy hét to: Xung phong…xung phong! Tất cả Đại Đội vụt chạy
nhanh qua chiếc hào Thành đã cạn nýớc vì đất đá hai bên đổ xuống.
Những người lính đồng thanh hòa theo lời hô của viên Đại Đội
Trưởng…xung phong!! xung phong!! Những thân người ngã xuống vật vã
trên gạch đá tan vỡ, màu tươi rói bắn ra tia thấm đẫm bạt vào người
bên cạnh. Không biết ai trúng đạn, ai còn sống, khoảng cách quá gần
và trời quá tối, những người thoát đạn xốc tới… Xung phong…xung
phong!!
Cùng lúc phía Tây-Nam, Đại Đội của Đại Úy Định (Định ‘’con’’, để
phân biệt với Đại Tá Định, Lữ Đoàn Trưởng 258) thuộc Tiểu Đoàn 6
Thủy Quân Lục Chiến khi nghe tiếng hô rền từ cánh quân bạn cũng đồng
bật dậy, bỏ vị trí xốc tới…xung phong…xung…xung phong! Giữa bóng tối
mù mịt, qua ánh chớp đạn pháo binh địch, và lóe sắc của lựu đạn đánh
cận chiến, bóng hình người Thủy Quân Lục Chiến ào lên thấp thoáng,
vùn vụt trên những khối đen của dãy tường Thành loang lỗ chập chờn
lửa dậy. Bốn giờ sáng, trời vừa hừng đông, được tăng thêm độ sáng do
đạn lửa của pháo hỏa tiễn cộng sản bắn tràn lên vị trí để các đơn vị
bộ đội địch tháo chạy, những người lính Thần Ưng (Tiểu Đoàn 6), Sói
Biển (Tiểu Đoàn 3) hoàn toàn làm chủ, tràn ngập trên bờ thành phía
Nam, về phía Đông, khu trách nhiệm của Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn
Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Phán vượt lên tuyến đầu đích thân thúc
quân ép sát vào bờ Thành bởi nhận ra sức chiến đấu của đám lính cộng
sản cố thủ yếu dần, đang thất thần tìm đường lẩn trốn trước đợt tiến
công dồn dập uy mãnh của lính miền Nam, những tên không tháo chạy
được bị thanh toán tại hầm bằng lựu đạn, hoặc súng tay bắn với
khoảng cách gần nhất, đạn xuyên vào da thịt người nghe lụp bụp, thân
người nẩy ngược lên. Hướng chính Tây, mặt tấn công của Tiểu Đoàn 2
cùng Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, lực lượng xung kích ào vào chân thành
như thác lùa, lũ lớn theo những khoảng vỡ đổ của bức tường Thành nay
đã biến dạng thành khối hình ngổn ngang chồng chất, lính ‘’Trâu
Điên’’ xốc tới như tên hiệu đơn vị, những con trâu trong cơn phẫn nộ
hung hãm, đánh phục thù cho trận lui binh oan nghiệt cuối tháng Tư
mà họ đã tận mắt chứng kiến. Đến chiều 14 tháng 9, Lực Lượng Thủy
Quân Lục Chiến kiểm soát toàn phần bờ Thành, khu vực phía Nam, chia
quân lục soát những khu hầm nhốt tù (do người Pháp xây dựng đầu thế
kỷ) mà sau nầy, trước tháng 4.1975, Tiểu Khu Quảng Trị, Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 3 Bộ Binh đặt Trung Tâm Hành Quân, đám lính cộng sản ném
súng, lội Sông Thạch Hãn tháo chạy về phía Bắc như đàn vịt nháo nhác
trên khoảng sông phơi đáy cát. Một chiếc L-19 (máy bay quan sát) bay
lờ lững trên cao, anh Phi Công tinh nghịch rà xuống sát mặt nước,
bắn ra trái đạn khói, những tên lính cộng sản chạy trốn hốt hoảng
đưa tay đầu hàng, đứng ngơ ngác trên giòng sông mờ đục trống trải.
Đêm 14 tháng 9, lần đầu tiên sau 48 ngày, đêm, Đại Úy Thạch Đại Đội
Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn ‘’Sói Biển’’, đơn vị tiên phong của đợt
đột kích dứt điển Cổ Thành được ngủ một giấc dài vì đôi giày đã được
cởi ra. Nhiều người lính của mặt trận Quảng Trị cũng được ‘’hạnh
phúc’’ nhỏ bé tầm thường tội nghiệp nầy. Sáng hôm sau, ngày 15 tháng
9.1972 từ căn hầm phòng thủ nơi đặt Ban Chỉ Huy Đại Đội, qua lỗ
hổng, Thạch thấy rừng rực lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bay uy nghi trong gió
sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẳn. Anh thấy cay cay trong mắt
với cảm giác nôn nao thầm lặng…Cảm xúc từ rất lâu anh không có. Cảm
giác muốn khóc về một điều bi phẩm. Thạch nhìn quanh, những người
lính đồng có sắc đỏ xẫm ươn ướt nơi tròng mắt. Những khuôn mặt chai
cứng, hư hao, loang lỗ lấm láp khói đạn, bụi đất đồng duỗi ra theo
độ sáng của ngày mới vẻ kiên nghị kiêu hãnh xen lẫn đau đớn kìm giữ.
Thạch nhìn xuống những xác binh sĩ đồng bạn mới đem về, nằm bó gọn
trong những poncho phủ bụi đất, bê bết máu. Anh lơ đãng nghe báo cáo
về số lượng vũ khí sơ khởi được tịch thu, đâu khoảng hai tấn rưỡi,
phải cần tới một GMC mới chở hết.
Nơi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở Thành
Mang Cá, Huế, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cất chiếc nón sắt đã đội
suốt từ bao ngày đêm. Người chỉ huy chiến trường ngồi lặng im rất
lâu, mặt ông trầm xuống không gợn nét, đổi sắc.
KẾT TỪ VỀ MỘT NGƯỜI LÍNH
Ba mươi năm sau, báo chí Mỹ, cho dù tờ báo khách quan, đứng đắn,
hoặc giới học giả, nghiên cứu (với những con người được tin cậy,
kính phục như Giáo Sư W. Tuchman) khi viết về Lịch Sử, Quân Sử Việt
Nam (giai đoạn sau Mậu Thân 1968, trước Hiệp Định Paris 1973) đã
không hề có một giòng chữ ngắn đối với chiến công lẫm liệt kể trên.
Phim ảnh, sách, báo chí Mỹ với những đầu óc chủ bại lẫn tự tôn
(khiếp nhược trước kẻ nghịch, bất nhân với bạn hữu), thiển cận từ tư
cách chuyên nghiệp, bác học của văn minh kỹ thuật cao (thật sự do
không đủ can đảm trí thức tự nhận nỗi bất lực thảm hại của bản thân,
xã hội, bộ máy cầm quyền của quốc gia mình) nên đã không nhìn rõ
địch tình, đánh giá thấp, không tận hiểu đúng sức mạnh tinh thần của
một Dân Tộc, Quân Đội bạn, điển hình như Thượng Nghị Sĩ Bob Kerry,
kẻ viết biên khảo Stanley Karnow, Đạo Diễn phim ảnh Oliver Stone
v.v…đã sử dụng hệ thống thông tin đại chúng Mỹ để trút lỗi lầm thất
bại, gánh nặng ‘’hội chứng Việt Nam’’ lên lưng người Lính Việt với
một lý luận hàm hồ chung nhất: ‘’Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không
chịu chiến đấu dù rằng người Mỹ đã góp nên trị giá 58.000 người chết
và hơn 100 tỷ đô la trong cuộc chiến với cộng sản Việt Nam’’ Những
kẻ này đã không hề biết đến (hoặc cố tình không biết) những số liệu:
587 Tù binh Mỹ và người nước ngoài (gồm một binh sĩ Đại Hàn và hai
binh sĩ Thái) Số liệu của Ban Liên Hợp Quân Sự do chính bản thân
người viết làm báo cáo là 585) trao trả theo điều khoản của Nghị
Định Thư Tù Binh. Hiệp Định Paris gồm 473 nhân viên quân sự thuộc
thành phần Phi Hành Đoàn của những phi cơ bị bắn hạ trên lãnh thổ
Bắc Việt kể từ khi Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc do cớ sự vụ tàu
Maddox (tháng 8.1964) (23) Hiệu số của 585 và 473 là 112, trừ thêm
ba (3) Quân Nhân có quốc tịch nước ngoài kể trên, ta có con số: 109
người là tổng số tù binh Mỹ bị bắt ở miền Nam, gồm thường dân, nhân
viên Tình Báo, cố vấn Cơ Quan Bình Định, và Quân Nhân bộ binh Mỹ
(24) Trong khi ấy phía Việt Nam Cộng Hòa trao trả về phía cộng sản
26.508 nhân viên quân sự và nhận về 5.081 người lính từ Binh Nhì đến
cấp Đại Tá (25). Cơ sở Rand Mc Nelly sử dụng trong Chronicle of 20
Century còn cho thêm số liệu 924.048 lính cộng sản tử thương (26) ở
chiến trường. Từ những chứng số kể trên (do những cơ quan thống kế,
chắc chắn không do cảm tình với chính phủ, Quân Đội Việt Nam Cộng
Hòa, nếu không nói là ngược lại) chúng ta có thể kết luận với mức độ
chính xác nhất: Trong suốt chiến tranh Việt Nam từ khi Bộ Binh, Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ lâm chiến. Cuộc hành quân Starlight, tháng 5.1965
đến 27 tháng 3 năm 1973, bộ binh cộng sản hoàn toàn né tránh các đại
đơn vị bộ chiến Mỹ, nếu có đụng độ chăng chỉ là những đơn vị cấp Đại
Đội, phía Mỹ bị thương vong phần lớn do bị đánh mìn bẫy, phục kích,
phòng không, pháo kích. Số lượng 924.048 bộ đội cộng sản tử thương,
26.508 tù binh bị bắt đổi lại 5.081 người của Việt Nam Cộng Hòa
(chưa kể số lượng 200.000 cán binh cộng sản đầu hàng Quân Đội Việt
Nam Cộng Hòa tại trận địa, hồi chánh chính phủ Việt Nam Cộng Hòa với
nhiều hình thức, tại nhiều địa phương trong nhiều trường hợp) đã xác
chứng: Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là đơn vị chủ động chiến trường do
đã kiên cường chiến đấu và uy hùng chiến thắng trên chiến địa. Nói
như thế để cùng nhau hiểu một điều đau đớn: Ngày 30.4.1975 là một bi
thảm phẫn uất suốt giải quê hương, nỗi oan khiên chung của toàn Dân
Tộc Việt Nam. Nhưng đây là đề tài thuộc về những biên khảo khác.
Để kết luận, ta thử tìm so sánh: Người Đức bao vây Stalingrad 76
ngày, người Mỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày, Quân
Lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày, phải
mất đến bốn ngày kịch chiến, một Trung Đội thuộc Trung Đoàn 28 Sư
Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ mới dựng được ngọn cờ oai dũng Sao và
Sọc lnê đỉnh núi Suribachi của Đảo Iwo Jima. Và đây gần nhất, Điện
Biên Phủ thực sự bị bao vây 56 ngày dưới sức công phá của những sơn
pháo 75 ly, và đại pháo (Trung Cộng) tương đương 105 ly. Những cuộc
bao vây tử thủ, tấn công lừng danh này được thực hiện bởi súng tiểu
liên Sten, Mai 36, Garant, Carbin M1, loại vũ khí hàng đầu của Bộ
Binh Mỹ, cũng là Bộ Binh hàng đầu thế giới. Những trận đánh để đời
của Quân Sử toàn cầu khi đó có gì so với Quảng Trị, chỉ từ 27 tháng
7 đến 14 tháng 9 là 48 ngày, và nếu kể từ ngày 7 tháng 7, lúc Tiểu
Đoàn 7 Dù vượt qua Ngã Ba Long Hưng, vào cách Chi Khu Mai Lĩnh 300
thước thì mặt trận Thành Phố Quảng Trị thực sự đã kéo dài trong 68
ngày. Trong 68 ngày ấy, lực lượng bộ chiến gồm 4 Tiểu Đoàn Dù (5, 6,
7, 11) trong giai đoạn đầu, hoặc 8 Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
một Liên Đoàn Biệt Động Quân và một Thiết Đoàn chiến xa của giai
đoạn 2. Trong 68 ngày đó, chỉ riêng 48 ngày của Thủy Quân Lục Chiến,
những người Lính Quân Đội miền Nam đã phải chiến đấu liên tục trên
một chiến trường dài hai cây số năm trăm thước từ Ngã Ba Long Hưng,
ngõ vào Thị Xã Quảng Trị đến sát bờ Sông Thạch Hãn, và bề ngang một
cây số hay 1000 thước. Những con số này phải viết chính xác để nói
đủ về một chiến trường hẹp cứng, gai góc vượt hết ý niệm chiến trận.
Chiến trường có diện tích ‘’hai ngàn năm trăm thước vuông’’ đó đã
được 15 Tiểu Đoàn Bộ Chiến bao vây quét sạch từng thước đất, phải
nói từng tấc đất, nếu muốn giữ độ chính xác trong 68 ngày. Đội quân
15 Tiểu Đoàn có khoảng 7.500 đến 8.000 người phải vượt qua 2500
thước vuông mục tiêu. Vậy mỗi người lính có bao nhiêu thước đất
chiến trận ? Chỉ số trung bình cho thấy ‘’3 người lính có 1 thước
vuông mục tiêu chiến đấu’’. Một thước vuông để tác chiến trong 68
ngày. Quân Sử Thế Giới, trước và sau Quảng Trị, không một nơi nào,
không thể có một chiến trường nào chật cứng, đứt hơi bằng ở Quảng
Trị Việt Nam. Chắc chắn như thế. Trong 68 ngày đó, sáu Tiểu Đoàn
Pháo của hai Sư Đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến, dàn hải pháo Hạm Đội
7 đã bắn bao nhiêu trái đạn ? Phi cơ chiến đấu Mỹ từ Chu Lai (Quảng
Tín), Đông Tác (Tuy Hòa) (27) từ Guam (28) của Hạm Đội 7 (ngoài khơi
lãnh hải Đông Dương) Phi cơ Việt Nam từ Đà Nẵng đã đánh bao nhiêu
bom xuống khu vực Cổ Thành ? Trong 68 ngày, bao nhiêu cân bom, trái
đạn đã rơi xuống trên mỗi phân đất của Thị Xã chiều dài không quá 15
phút Honda ấy ? Quảng Trị! Muốn được kêu lên một tiếng, muốn nhỏ
xuống dòng nước mắt. Thành Phố Quê Hương là Thánh Địa chịu nạn cho
hết tai ương nhân loại. Không một nơi chốn nào trên địa cầu nầy phải
chịu đựng cảnh huống điêu linh khốc liệt bằng vùng đất gọi tên Quảng
Trị, nơi Thị Xã có khối Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Không dân tộc nào nên sức chịu đựng so cùng dân và lính ở miền Nam.
Phải! Người Lính Việt Nam đã chiến đấu và tồn tại như một nhiệm mầu.
Trên mầu nhiệm bình thường lặng lẽ nầy. Tổ Quốc điêu linh thở từng
hơi ngắn đớn đau nhưng bền bỉ. Chữ nghĩa hoàn toàn vô nghĩa trước
chân dung bi tráng hùng vĩ của Người và Quê Hương. Nơi đất phương
Nam với người chỉ huy giữ nước tên gọi NGÔ QUANG TRƯỞNG.
Phan Nhật Nam
Để nhớ ngày
Người Lính lẫm liệt giữ vững Quê Hương
14 tháng 9.1972
Nơi Quảng Trị
Ở Việt Nam.
Ghi Chú:
13-14.- Lewis Soley A better War Harvest Book Florida. USA (p.332)
15.- Bình Giả, Tỉnh Phước Tuy, miền Đông Nam Bộ, nơi xẩy ra trận địa
chiến cấp trung đoàn đầu tiên ở miền Nam tháng 12.1964.
16.- Vietnam Experience South Vietnam On Trail (p.138)
17.- Tu Chính Án do Frank Church và John S. Cooper đệ trình Quốc Hội
Mỹ (1970) cấm Bộ Binh Mỹ tham chiến Campuchia, Không Quân Mỹ không
được hoạt động ở Đông Dương.
18.- Stanley Karnow Vietnam A History, Penguin Books NY 1984 (p.544)
18bis.- Trần Văn Đỉnh, Huế My City, Myself National Greographic
Nov.1969.
19.- Mai Hòa. Sư Đoàn I Trở Lại Bastogne Diều Hâu Sài Gòn số tháng
5.1972.
20.- Phillip B. Davidson Vietnam at War Presidio Press CA, 1988
(p.169)
21.- Trần Văn Hiển Thủy Quân Lục Chiến và Trận Chiến Xuân Hè KBC 21
Ca, USA 1995.
22.- Sói Biển Thạch Thảo Lính Thủy Đánh Bộ KBC (20, 25, 26) CA
1998-1999
23-24-25.- Phan Nhật Nam Tù Binh Và Hòa Bình, Hiện Đại Sài Gòn,
1974, trang 143-168.
26.- Yearbook Grôlier Canada, 1974, Rand Mc. Nally Inc USA, 1987.
27.- Căn Cứ, Phi Trường Quân Đội Mỹ dọc miền Trung Nam Việt Nam
(1965-1973)
28.- Căn Cứ Hải, Không Quân Mỹ thuộc Quần Đảo Mariana, Tây Thái Bình
Dương
Biên Hùng chuyển