Hình Ảnh & Sự Kiện
Nghĩa địa ở Sài Gòn ngày trước
Trong số các nghĩa địa tại Sài Gòn cách nay nửa thế kỷ, tôi không hình dung ra được khu nghĩa trang giải tỏa sau năm 1975, nằm phía sau Bộ Tổng tham mưu cũ và phía đối diện là Trung tâm hành quân. Đó là nghĩa trang của Hội tương tế Bắc Việt. Nhưng trong bài ký “Hui nhị tỳ I” viết hồi năm 1952 của Bình Nguyên Lộc thì đây không chỉ là nghĩa địa của Hội tương tế người Bắc di cư qua nhiều thời kỳ mà có cả mộ phần của người miền Trung và miền Nam nữa. Ông viết: “Riêng dân chết của Nam Việt họ tự trị mỗi tỉnh một ô riêng ngăn ranh giới bằng dây kẽm gai, ý chừng ngừa xâm lăng”.
Chuyện xâm lăng mà Bình Nguyên Lộc nhắc đến ở đây ý nói đến dòng người di cư ở thôn quê lên Sài Gòn vì chiến tranh từ giữa thập niên 1950. Ngay cả nghĩa trang tư gia của dòng họ Ðỗ Hữu Phương ngày xưa nằm ở vườn Bà Lớn trên đường Phan Thanh Giản trong một khu đất riêng biệt hẻo lánh cũng bị xâm lấn: “Người sống tràn đến đây đốn rụi lũy tre xanh và cả vườn xoài bên trong, không còn một cây để che mồ. Những con đường mòn trải sạn trắng trong nghĩa địa đã biến thành những lối mòn ngập đất bột và cái ao sen ở giữa ngày xưa liễu rũ soi bóng dưới nước xanh lơ, bây giờ dùng làm hầm đổ rác”.
Tôi không hình dung ra được nghĩa trang Bắc Việt tương tế cũng chính vì khu vực này toàn là doanh trại quân đội, nào là trại Trần Hưng Ðạo, Bộ Tổng tham mưu, phía xéo tay trái là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơn Nhất. Bước vào khu vực này thường dành cho những đoàn đưa đám chứ người dân qua lại nơi đây thường không để ý. Ngay cả ông Bình Nguyên Lộc lang thang Sài Gòn cũng chỉ biết đường vào nghĩa trang này phải rẽ vào Ngã ba Ông Tạ, qua chùa thì thấy cổng nghĩa trang. Nhưng thực tế từ chùa Ông Tạ đến được phần đất rộng lớn của Hội tương tế Bắc Việt phải đi thẳng băng qua đường Cách Mạng 1/11 (đường Nguyễn Văn Trỗi) xéo công viên qua đường Võ Tánh (Hoàng Văn Thụ ngày nay), là đến sân vận động quân đội (nay là sân vận động Quân khu 7), rồi đi theo con đường không tên đến nghĩa trang. Chính xác từ chùa Ông Tạ đến được nghĩa trang còn xa cả hơn cây số. Con đường không tên đó ngày nay mang tên Phổ Quang, phía trên là đường Ðào Duy Từ là một khu gia cư lớn hầu hết dành cho người Bắc sau năm 1975 vào Sài Gòn sinh sống.
Nghĩa trang Bắc Việt có từ bao giờ không ai biết chính xác, bởi mãi đến đầu thập niên 1950, nơi đây vẫn còn thưa thớt dân cư, hầu hết là đất đai quân sự. Ông Bình Nguyên Lộc tả: “Qua khỏi chùa, cảnh như cảnh quê miền Ðông với những con đường mòn núp bóng bờ tre, với các cây rơm phơi giữa đám gốc rạ. Rồi thì tới cửa nghĩa địa”. Tuy nhiên, nhà báo Phạm Quỳnh ở ngoài Bắc vào Sài Gòn trong chuyến đi Pháp dự đấu xảo Marseille năm 1922, có đến viếng nghĩa trang này. Ông viết trong cuốn “Pháp du hành trình nhật ký”: “5 giờ chiều (ngày 14/2/1922) cùng mấy ông ngoài ta (người Bắc) đi xem vườn Bắc kỳ nghĩa trang, cách thành phố 6 – 7 kilomet. Ðó là nơi nghĩa địa của người Bắc ở Sài Gòn. Số người ngoài ta vào lập nghiệp trong ấy ngày một nhiều, mà hướng lai (từ trước đến nay) không có một khu đất nào riêng để chôn những người bất hạnh mất đi. Nay nhờ có mấy ông hữu tâm xuất xướng lên, mua được một khu đất chừng mười mẫu, kinh doanh làm thành một vườn nghĩa địa, hiện nay đã có vài ba mộ mới chôn. Tình đồng quận, nghĩa tử sinh, thật là một việc đáng khen lắm”.
Việc ông Phạm Quỳnh dùng chữ “vườn nghĩa địa” làm tôi hình dung ra được thời ấy nơi người sống đã dành cho người chết một nơi an nghỉ nên thơ với khung cảnh hữu tình mà ngày nay người ta gọi là “công viên nghĩa trang” như cái mốt nở rộ cho các nhà kinh doanh địa ốc dành cho người chết mò đến các tỉnh quanh Sài Gòn như Long An, Bình Dương, Ðồng Nai đầu tư kiếm nhiều lợi nhuận. Một vườn nghĩa địa chỉ có vài ba nấm mồ thì phong cảnh hẳn nhiên là nên thơ giữa cảnh trí rộng lớn, còn một khi đông đúc người chết chen nhau phần mộ thì cái đẹp hữu tình thiên nhiên kia chẳng còn ý nghĩa gì nữa, nhất là từ khi các làn sóng di cư qua nhiều thời kỳ từ các tỉnh sau vĩ tuyến 17 đổ về Sài Gòn tìm sự bình yên làm ăn sinh sống.
Do vậy, cái tên nghĩa trang Bắc Việt cũng chỉ là một cái tên chung nhất cho khu vườn nghĩa địa có từ trước khi ông Phạm Quỳnh ghé Sài Gòn hồi năm 1922. Sau đó vài năm đã có các Hội tương tế các tỉnh miền Nam xin gia nhập làng nghĩa trang này. Năm 1927, lần lượt xuất hiện các Hội Gò Công tương tế, Sa Ðéc, Cần Thơ… rồi Hội tương tế tỉnh miền Trung cũng tham gia xí phần đất dành cho người về bên kia thế giới. Vài ba thập niên sau, nghĩa địa Bắc Việt có thêm tình bạn láng giềng từ khắp nơi làm ấm cúng cho người nằm xuống miền đất lạnh quê người. Bình Nguyên Lộc dí dỏm: “Những đêm mưa dầm, ma ở đây chắc không lạnh bao nhiêu, vì quanh họ đông đúc những gương mặt thân yêu, tha hồ mà trò chuyện cho ấm lòng. Tỉnh này muốn qua tỉnh kia thăm bạn, chỉ phải bước qua một hàng rào. Gần hai mươi tỉnh sát cách nhau để dựng lên một miền Nam trong cõi âm…”.
Sau năm 1975, nghĩa trang Bắc Việt cùng với nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi giải tỏa dời mộ gần như cùng thời gian. Ông Ngô Ðình Cẩn chôn ở Bắc Việt nghĩa trang cùng hai ông em Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu chôn ở nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi bị cải táng về an nghỉ tại Lái Thiêu. Trước đó, từ giữa thập niên 1960, làn sóng di cư từ các tỉnh miền Trung ồ ạt vào Sài Gòn sinh sống, Hội tương tế miền Trung đã tìm riêng cho mình mảnh đất làm nghĩa trang tại Gò Dưa (Thủ Ðức).
Ở Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi được xem như nghĩa địa “quý tộc” dành riêng cho quan chức từ thời Pháp và những người thuộc giới thượng lưu. Ðến khi giải tỏa, ngoài trừ những người Pháp không biết có quy hồi cố hương hay không nhưng người Việt giàu có, quyền cao chức trọng được thân nhân cải táng mang về quê chôn cất chứ ít khi hỏa táng đem tro cốt vào cất trong chùa. Tiếp đến là giải tỏa khu nghĩa trang lính Pháp tại Ngã tư Bảy Hiền (sau này xây thành Trung tâm triển lãm và hội chợ Tân Bình) và một số mồ mả quanh khu vực Lăng Cha Cả. Hồi học cấp hai có vài lần tôi đến phần đất đầy mồ mả lúp xúp thẳng hàng như bàn cờ vua nhưng lòng chẳng thấy sợ ma bởi nghĩa trang này hoang phế, không còn người chôn. Ðất Thánh Chà cũng nằm trong trường hợp tương tự, khu Hoà Hưng nơi gia đình tôi cư ngụ, có nhiều mảnh đất nghĩa trang nhỏ của người gốc Ấn, sau năm 1954 và 1975 người Ấn di cư ra nước ngoài, đất Thánh Chà đóng cổng suốt năm hiếm khi tiếp nhận một đám ma.
Sau đó, nghĩa địa Ðô Thành Chí Hoà bị giải tỏa vào giữa thập niên 1980. Ðây là nghĩa trang dành cho giới bình dân. Cả hai nghĩa trang của giới giàu nghèo khi chết đều như nhau trở thành công viên cho dân Sài Gòn dạo cảnh. Bà cố, ông nội của tôi đều chôn ở nghĩa địa Ðô Thành. Nhớ hồi nghĩa trang này dựng tượng ông Phật Ðịa Tạng, bà con kháo nhau linh thiêng lắm. Người không đi đưa đám vẫn cứ ghé nghĩa trang thắp nhang cầu xin mọi chuyện hanh thông. Sau khi giải tỏa, tượng Phật này dời về An Dưỡng Ðịa ở Phú Lâm. Một nghĩa địa lớn của người Hoa Chợ Lớn là Nhị tỳ Quảng Ðông phía trên trường đua Phú Thọ cũng được giải tỏa, mở đường và xây Trung tâm thương mại chung cư Thuận Kiều Plaza. Nhiều câu chuyện ma được thêu dệt nên khiến có người sợ ma không dám mua nhà ở đây.
Do làn sóng di cư từ các tỉnh về Sài Gòn, những vùng đất trống quanh Sài Gòn nhà cửa cất lên san sát. Người chết cần thêm nhiều nghĩa trang mới hoặc mở rộng thêm như khu An Dưỡng Ðịa Phú Lâm, nghĩa địa Bình Hưng Hoà. Trong đó Bình Hưng Hoà là khu nghĩa trang lớn nhất do đất đai rộng rãi, có thể chứa đến vài chục ngàn mộ phần. Người Sài Gòn sau năm 1975 thường gọi cái tên Bình Hưng Hoà như một địa chỉ dành cho người chết vì một số nghĩa trang nói ở trên đã bị giải tỏa không còn cái tên để nhớ. Nhưng rồi Bình Hưng Hoà cũng bị giải tỏa tiếp tục để xây công viên và khu dân cư. Xét cho cùng, người chết trở về với cát bụi mà cũng không được yên thân, đất đai Sài Gòn chỉ dành cho người đang sống.
Riêng Nghĩa trang Biên Hòa, nơi chôn cất các tử sĩ VNCH ngày trước vẫn còn đấy tuy cái tên đã đổi thành Nghĩa trang Nhân dân Bình An. Nghĩa trang Biên Hoà ít được thân nhân người quá cố chăm sóc nên hàng ngàn mộ phần hư hao, cảnh quan tiêu điều. Một số người hảo tâm hay đoàn thể đồng hương sống ở nước ngoài thỉnh thoảng về đây thắp nén hương tưởng niệm, tu bổ một số phần mộ nhưng chẳng thấm vào đâu nếu như không được chính quyền hiện thời quan tâm đúng mức xem nghĩa trang như một chứng tích chiến tranh, chẳng cần phải phân biệt bạn và thù.
Nhiều nghĩa trang trên thế giới vẫn dành sự cảm thương cho kẻ thua cuộc một nơi yên nghỉ vĩnh hằng dù khác màu da chủng tộc, trong khi ở VN thì hận thù cả những ngôi mộ.
TN
( Báo Trẻ )
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Thảm họa đường sắt Ấn Độ ( Lão Phan Sưu Tầm )
- Biển Ukraine.. nổi sóng – OCS Florida ( TVQ Úc Chuyển )
- Biểu tình phản đối trụ sở ban giao thương mại của CSVN tại Brooklyn, TB Victoria ( TVQ chuyển )
- Lễ Thượng Kỳ Đầu Năm Nhâm Dần tại Maribyrnong, Brimbank và Greater Dandenong Tiểu Bang Victoria ( TVQ Chuyển )
- Những Địa Danh Mang Tên "CÁI" Ở Miền Nam ( Trần Văn Giang ghi lại )
Nghĩa địa ở Sài Gòn ngày trước
Trong số các nghĩa địa tại Sài Gòn cách nay nửa thế kỷ, tôi không hình dung ra được khu nghĩa trang giải tỏa sau năm 1975, nằm phía sau Bộ Tổng tham mưu cũ và phía đối diện là Trung tâm hành quân. Đó là nghĩa trang của Hội tương tế Bắc Việt. Nhưng trong bài ký “Hui nhị tỳ I” viết hồi năm 1952 của Bình Nguyên Lộc thì đây không chỉ là nghĩa địa của Hội tương tế người Bắc di cư qua nhiều thời kỳ mà có cả mộ phần của người miền Trung và miền Nam nữa. Ông viết: “Riêng dân chết của Nam Việt họ tự trị mỗi tỉnh một ô riêng ngăn ranh giới bằng dây kẽm gai, ý chừng ngừa xâm lăng”.
Chuyện xâm lăng mà Bình Nguyên Lộc nhắc đến ở đây ý nói đến dòng người di cư ở thôn quê lên Sài Gòn vì chiến tranh từ giữa thập niên 1950. Ngay cả nghĩa trang tư gia của dòng họ Ðỗ Hữu Phương ngày xưa nằm ở vườn Bà Lớn trên đường Phan Thanh Giản trong một khu đất riêng biệt hẻo lánh cũng bị xâm lấn: “Người sống tràn đến đây đốn rụi lũy tre xanh và cả vườn xoài bên trong, không còn một cây để che mồ. Những con đường mòn trải sạn trắng trong nghĩa địa đã biến thành những lối mòn ngập đất bột và cái ao sen ở giữa ngày xưa liễu rũ soi bóng dưới nước xanh lơ, bây giờ dùng làm hầm đổ rác”.
Tôi không hình dung ra được nghĩa trang Bắc Việt tương tế cũng chính vì khu vực này toàn là doanh trại quân đội, nào là trại Trần Hưng Ðạo, Bộ Tổng tham mưu, phía xéo tay trái là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơn Nhất. Bước vào khu vực này thường dành cho những đoàn đưa đám chứ người dân qua lại nơi đây thường không để ý. Ngay cả ông Bình Nguyên Lộc lang thang Sài Gòn cũng chỉ biết đường vào nghĩa trang này phải rẽ vào Ngã ba Ông Tạ, qua chùa thì thấy cổng nghĩa trang. Nhưng thực tế từ chùa Ông Tạ đến được phần đất rộng lớn của Hội tương tế Bắc Việt phải đi thẳng băng qua đường Cách Mạng 1/11 (đường Nguyễn Văn Trỗi) xéo công viên qua đường Võ Tánh (Hoàng Văn Thụ ngày nay), là đến sân vận động quân đội (nay là sân vận động Quân khu 7), rồi đi theo con đường không tên đến nghĩa trang. Chính xác từ chùa Ông Tạ đến được nghĩa trang còn xa cả hơn cây số. Con đường không tên đó ngày nay mang tên Phổ Quang, phía trên là đường Ðào Duy Từ là một khu gia cư lớn hầu hết dành cho người Bắc sau năm 1975 vào Sài Gòn sinh sống.
Nghĩa trang Bắc Việt có từ bao giờ không ai biết chính xác, bởi mãi đến đầu thập niên 1950, nơi đây vẫn còn thưa thớt dân cư, hầu hết là đất đai quân sự. Ông Bình Nguyên Lộc tả: “Qua khỏi chùa, cảnh như cảnh quê miền Ðông với những con đường mòn núp bóng bờ tre, với các cây rơm phơi giữa đám gốc rạ. Rồi thì tới cửa nghĩa địa”. Tuy nhiên, nhà báo Phạm Quỳnh ở ngoài Bắc vào Sài Gòn trong chuyến đi Pháp dự đấu xảo Marseille năm 1922, có đến viếng nghĩa trang này. Ông viết trong cuốn “Pháp du hành trình nhật ký”: “5 giờ chiều (ngày 14/2/1922) cùng mấy ông ngoài ta (người Bắc) đi xem vườn Bắc kỳ nghĩa trang, cách thành phố 6 – 7 kilomet. Ðó là nơi nghĩa địa của người Bắc ở Sài Gòn. Số người ngoài ta vào lập nghiệp trong ấy ngày một nhiều, mà hướng lai (từ trước đến nay) không có một khu đất nào riêng để chôn những người bất hạnh mất đi. Nay nhờ có mấy ông hữu tâm xuất xướng lên, mua được một khu đất chừng mười mẫu, kinh doanh làm thành một vườn nghĩa địa, hiện nay đã có vài ba mộ mới chôn. Tình đồng quận, nghĩa tử sinh, thật là một việc đáng khen lắm”.
Việc ông Phạm Quỳnh dùng chữ “vườn nghĩa địa” làm tôi hình dung ra được thời ấy nơi người sống đã dành cho người chết một nơi an nghỉ nên thơ với khung cảnh hữu tình mà ngày nay người ta gọi là “công viên nghĩa trang” như cái mốt nở rộ cho các nhà kinh doanh địa ốc dành cho người chết mò đến các tỉnh quanh Sài Gòn như Long An, Bình Dương, Ðồng Nai đầu tư kiếm nhiều lợi nhuận. Một vườn nghĩa địa chỉ có vài ba nấm mồ thì phong cảnh hẳn nhiên là nên thơ giữa cảnh trí rộng lớn, còn một khi đông đúc người chết chen nhau phần mộ thì cái đẹp hữu tình thiên nhiên kia chẳng còn ý nghĩa gì nữa, nhất là từ khi các làn sóng di cư qua nhiều thời kỳ từ các tỉnh sau vĩ tuyến 17 đổ về Sài Gòn tìm sự bình yên làm ăn sinh sống.
Do vậy, cái tên nghĩa trang Bắc Việt cũng chỉ là một cái tên chung nhất cho khu vườn nghĩa địa có từ trước khi ông Phạm Quỳnh ghé Sài Gòn hồi năm 1922. Sau đó vài năm đã có các Hội tương tế các tỉnh miền Nam xin gia nhập làng nghĩa trang này. Năm 1927, lần lượt xuất hiện các Hội Gò Công tương tế, Sa Ðéc, Cần Thơ… rồi Hội tương tế tỉnh miền Trung cũng tham gia xí phần đất dành cho người về bên kia thế giới. Vài ba thập niên sau, nghĩa địa Bắc Việt có thêm tình bạn láng giềng từ khắp nơi làm ấm cúng cho người nằm xuống miền đất lạnh quê người. Bình Nguyên Lộc dí dỏm: “Những đêm mưa dầm, ma ở đây chắc không lạnh bao nhiêu, vì quanh họ đông đúc những gương mặt thân yêu, tha hồ mà trò chuyện cho ấm lòng. Tỉnh này muốn qua tỉnh kia thăm bạn, chỉ phải bước qua một hàng rào. Gần hai mươi tỉnh sát cách nhau để dựng lên một miền Nam trong cõi âm…”.
Sau năm 1975, nghĩa trang Bắc Việt cùng với nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi giải tỏa dời mộ gần như cùng thời gian. Ông Ngô Ðình Cẩn chôn ở Bắc Việt nghĩa trang cùng hai ông em Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu chôn ở nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi bị cải táng về an nghỉ tại Lái Thiêu. Trước đó, từ giữa thập niên 1960, làn sóng di cư từ các tỉnh miền Trung ồ ạt vào Sài Gòn sinh sống, Hội tương tế miền Trung đã tìm riêng cho mình mảnh đất làm nghĩa trang tại Gò Dưa (Thủ Ðức).
Ở Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi được xem như nghĩa địa “quý tộc” dành riêng cho quan chức từ thời Pháp và những người thuộc giới thượng lưu. Ðến khi giải tỏa, ngoài trừ những người Pháp không biết có quy hồi cố hương hay không nhưng người Việt giàu có, quyền cao chức trọng được thân nhân cải táng mang về quê chôn cất chứ ít khi hỏa táng đem tro cốt vào cất trong chùa. Tiếp đến là giải tỏa khu nghĩa trang lính Pháp tại Ngã tư Bảy Hiền (sau này xây thành Trung tâm triển lãm và hội chợ Tân Bình) và một số mồ mả quanh khu vực Lăng Cha Cả. Hồi học cấp hai có vài lần tôi đến phần đất đầy mồ mả lúp xúp thẳng hàng như bàn cờ vua nhưng lòng chẳng thấy sợ ma bởi nghĩa trang này hoang phế, không còn người chôn. Ðất Thánh Chà cũng nằm trong trường hợp tương tự, khu Hoà Hưng nơi gia đình tôi cư ngụ, có nhiều mảnh đất nghĩa trang nhỏ của người gốc Ấn, sau năm 1954 và 1975 người Ấn di cư ra nước ngoài, đất Thánh Chà đóng cổng suốt năm hiếm khi tiếp nhận một đám ma.
Sau đó, nghĩa địa Ðô Thành Chí Hoà bị giải tỏa vào giữa thập niên 1980. Ðây là nghĩa trang dành cho giới bình dân. Cả hai nghĩa trang của giới giàu nghèo khi chết đều như nhau trở thành công viên cho dân Sài Gòn dạo cảnh. Bà cố, ông nội của tôi đều chôn ở nghĩa địa Ðô Thành. Nhớ hồi nghĩa trang này dựng tượng ông Phật Ðịa Tạng, bà con kháo nhau linh thiêng lắm. Người không đi đưa đám vẫn cứ ghé nghĩa trang thắp nhang cầu xin mọi chuyện hanh thông. Sau khi giải tỏa, tượng Phật này dời về An Dưỡng Ðịa ở Phú Lâm. Một nghĩa địa lớn của người Hoa Chợ Lớn là Nhị tỳ Quảng Ðông phía trên trường đua Phú Thọ cũng được giải tỏa, mở đường và xây Trung tâm thương mại chung cư Thuận Kiều Plaza. Nhiều câu chuyện ma được thêu dệt nên khiến có người sợ ma không dám mua nhà ở đây.
Do làn sóng di cư từ các tỉnh về Sài Gòn, những vùng đất trống quanh Sài Gòn nhà cửa cất lên san sát. Người chết cần thêm nhiều nghĩa trang mới hoặc mở rộng thêm như khu An Dưỡng Ðịa Phú Lâm, nghĩa địa Bình Hưng Hoà. Trong đó Bình Hưng Hoà là khu nghĩa trang lớn nhất do đất đai rộng rãi, có thể chứa đến vài chục ngàn mộ phần. Người Sài Gòn sau năm 1975 thường gọi cái tên Bình Hưng Hoà như một địa chỉ dành cho người chết vì một số nghĩa trang nói ở trên đã bị giải tỏa không còn cái tên để nhớ. Nhưng rồi Bình Hưng Hoà cũng bị giải tỏa tiếp tục để xây công viên và khu dân cư. Xét cho cùng, người chết trở về với cát bụi mà cũng không được yên thân, đất đai Sài Gòn chỉ dành cho người đang sống.
Riêng Nghĩa trang Biên Hòa, nơi chôn cất các tử sĩ VNCH ngày trước vẫn còn đấy tuy cái tên đã đổi thành Nghĩa trang Nhân dân Bình An. Nghĩa trang Biên Hoà ít được thân nhân người quá cố chăm sóc nên hàng ngàn mộ phần hư hao, cảnh quan tiêu điều. Một số người hảo tâm hay đoàn thể đồng hương sống ở nước ngoài thỉnh thoảng về đây thắp nén hương tưởng niệm, tu bổ một số phần mộ nhưng chẳng thấm vào đâu nếu như không được chính quyền hiện thời quan tâm đúng mức xem nghĩa trang như một chứng tích chiến tranh, chẳng cần phải phân biệt bạn và thù.
Nhiều nghĩa trang trên thế giới vẫn dành sự cảm thương cho kẻ thua cuộc một nơi yên nghỉ vĩnh hằng dù khác màu da chủng tộc, trong khi ở VN thì hận thù cả những ngôi mộ.
TN
( Báo Trẻ )