Truyện Ngắn & Phóng Sự
Người mang thánh giá - Nguyễn Trọng Hoàn
TÂY NINH 1972.
Viên
Thiếu tá Tiểu đoàn phó nài nỉ:
- Thưa Trung tá, một lần nữa xin Trung tá xem
xét lại tư cách Trưởng ban 2 của Trung úy
Nguyễn Xuân Nam.
Viên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/9 thuộc
Sư đoàn 5 nhỏ nhẹ:
- Từ ngày tôi về Tiểu đoàn này đến giờ,
tôi thấy đây là một sĩ quan rất có khả năng.
Lẽ ra, viên sĩ quan ban 2 này phải được bổ
nhậm ở những đơn vị có trách nhiệm lãnh
thổ như địa phương quân hay nghĩa quân thì hay
biết mấy, vì phải nhìn nhận rằng, tuy chúng
ta là đơn vị hành quân cơ động nhưng ông ta
sắp xếp các lưới tình báo rất chuyên nghiệp
và hữu hiệu.
Viên Thiếu tá Tiểu đoàn phó: Điều chính tôi
muốn trình Trung tá, không phải những điều
ấy, mà tôi xin phép nói thẳng, đây là một
sĩ quan vô kỷ luật, vô nhân đạo, đầy ắp máu
lạnh. . .
Viên Tiểu đoàn trưởng nhíu mày: Có thiên kiến
lắm không? tôi đang đọc một bản phúc trình
và một lá thư của Nam. . .
Bỗng viên Tiểu đoàn trưởng đặt tay lên vai
người cộng sự ăn chay trường có khuôn mặt
đen như củ tam thất, cặp mắt lúc nào cũng
như buồn ngủ dưới cặp lông mày đen, rậm rạp
trông giống ông Ác trong chùa, nhưng lại có
cái tâm nhân hậu như ông Bụt trong những chuyện
cổ tích. . .
- Cậu cứ đọc đi, chúng mình sẽ bàn lại vấn
đề này. . .
. . . . . . .
Bản Phúc trình:
Kính thưa Trung Tá.
Thi hành khẩu lệnh của Trung tá, tôi làm bản
phúc trình này để tường trình về hành động
đối xử của tôi với tù binh Bắc Việt, do gợi
ý của Thiếu tá Tiểu đoàn phó và để Trung
tá hiểu rõ hơn cách làm việc của tôi, tôi
xin lần lượt phúc trình các vụ việc cụ thể
trong thời gian trước đây một năm ( Trong đó
có thời gian Trung tá chưa về làm Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn này)
- Ngày 23 tháng 1 năm 1971 Tiểu đoàn hành quân
trong khu vực XT ,bên kia sông Vàm Cỏ thuộc
quận Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa. Đơn vị đụng
địch tại ấp Bà Ràng, tôi đã đánh trọng thương
một tù binh thuộc Tiểu đoàn cơ động tỉnh
Long An. Khi giải giao tù binh này cho chi khu
Đức Huệ, chi khu này không nhận, lấy lý do
tù binh này bị đánh quá nhiều, tôi đã bị
Trung tá Nguyễn Văn Nhung, Tiểu đoàn trưởng
tiền nhiệm khiển trách nặng nề.
- Ngày 2 tháng 6 năm 1971 Tiểu đoàn đụng địch
tại vùng Lưỡi Câu, biên giới Việt Miên, đơn
vị ta bắt được hai cán bộ kinh tài thuộc
hậu cần cục R, trong đó có một là nữ. Trong
lúc khai thác chiến trường, tôi có ra lệnh
lột quần áo của người nữ này để y thị sợ
mà phải khai. Tôi đã bị Trung tá Nhung đề
nghị phạt 10 trọng cấm xin gia tăng tối đa.
- Ngày 1 tháng 2 năm 1972. Trong thời gian Tiểu
đoàn bị vây hãm tại An Lộc. Toán thám báo
giao nộp một phụ nữ cảm tình viên Cộng Sản.
Tôi đã sắp thành công trong việc tra cung người
phụ nữ này, thì tôi bị Thiếu tá Dương Kim
Mãng, Tiểu đoàn phó khiển trách và buộc
ngưng cuộc điều tra, Thiếu tá cho rằng đây
là một người đàn bà điên. Riêng tôi đoan chắc
với cấp trên y thị không có triệu chúng gì
về bệnh tâm thần cả. Y thị là tiền sát viên
Cộng sản? Y thị là mật báo viên? Với sắc
đẹp và sự khôn khéo ấy, y thị là cả trăm
câu hỏi đối với một sĩ quan ban 2 chuyên nghiệp
như tôi.
Kính trình Trung tá thẩm tường.
Trung úy Nguyễn Xuân Nam.
Sau đây là một thư riêng tôi xin gửi đến Trung
tá như một lời tâm sự riêng với mục đích
duy nhất để Trung tá hiểu rõ hơn một thuộc
cấp của Trung tá.
.NINH BÌNH 1951.
Quê tôi ở miền trung du Bắc Việt, nơi thể
nghiệm đầu tiên của cuộc cải cách ruộng đất.
. .
Thật khủng khiếp, ngỡ ngàng và bi thảm, nó
làm đảo lộn bao tập quán và trật tự xã
hội mang tính truyền thống đã có từ bao lâu
đời. Nhũng dồn nén, mặc cảm tự ti, xu thế
muốn thay đổi và lối sống quá quắt của giai
cấp địa chủ phong kiến đã bùng dậy, Lúc
đầu lôi kéo được tuyệt đại dân chúng nghèo
đói nhưng rồi như bao nhiêu cuộc cách mạng
khác trên thế giới, nó lao vào cái quá đà,và
sau đó rơi vào tay một thiểu số, mà cái rực
rỡ của buổi bình minh cách mạng, tạo cho
họ cái ảo tưởng là, họ đang độc quyền chân
lý, biến cách mạng đang trên đà thành công
thành một trào lưu tự cô lập mình và xa rời
các sự kiện thực tế, đưa cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân mang đầy tính tình
tự dân tộc thành xu thế vọng ngoại, đầy ắp
tính giáo điều. Thay vì đáp ứng đúng vào
khát vọng và lòng yêu nước cùng những hy
sinh vô bờ bến thì nó lại quay lưng, hòa nhập
vào cái bóng đen khổng lồ của một thứ chủ
nghĩa xã hội kiểu Mao với tất cả bản chất
sắt máu, quá khích và tả khuynh triệt để.
. .
Nó xa lạ hoàn toàn với bản chất khoan hòa
nhân ái của người Việt nam, và cứ cái đà
ấy nó biến và đưa chủ nghĩa Mác không còn
là một khoa học tích cực, một học thuyết
về thực tại, và thật đáng tiếc, nó không
còn được nhìn như một loại triết học về
thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản
nữa.
Trong bối cảnh ấy, gia đình tôi tan nát, ông
bà nội tôi bị đấu tố chết, cha mẹ tôi không
kịp chôn cất người thân của mình, vội vã
ôm chúng tôi xuống tị nạn tại một tỉnh ven
biển, một khu Công giáo tự trị, giáo phận
Bùi Chu Phát Diệm. . .
Hai giáo khu này có lực lượng vũ trang riêng
do quân đội Pháp huấn luyện và trang bị võ
khí.
Ở đây thế lực của các tăng lữ vượt ra khỏi
phạm vi của nhà thờ, các cha xứ đã biến
cả một vùng trù phú ấy thành những giáo
khu kiểu trại lính với kỷ luật sắt, nửa
quân đội, nửa thần quyền. Mỗi giáo dân là
một chiến sĩ, mỗi giáo phận là một pháo
đài chống lại Cộng sản. Đây là gíao khu toàn
tòng.
Lúc đầu mới đặt chân lên vùng đất thánh này,
tôi lơ mơ không hiểu lý do gì đã dẫn đến thái
độ quá khích của cả hai bên ( Công giáo và
Cộng Sản) đối với nhau. Họ quên mất cả chính
sách, quên mất cả bản chất tôn giáo và chủ
nghĩa để tàn sát và giết hại lẫn nhau không
một chút nương tay.
Máu loang đỏ nghị quyết, Chúa ngỡ ngàng trên
các Thánh chương.
Tôi quen dần với không khí chống Cộng ngùn
ngụt ấy.Tôi quen dần với hình ảnh ông cố
đạo người Bỉ, cứ sáng sáng đi chậm chạp
dưới dốc cầu Trì Chính, ông như một nhà sư
khất thực, đôi mắt dịu dàng, có hàm râu trông
như râu của Chúa Jesus, trông ông thoát tục
và thân thiết.
Tôi cũng say mê dáng cao cao, lối nói quảng
bác, cái chóp đỏ và những bài giảng khúc
triết, mang tính thời sự nhiều hơn giáo huấn
của Đức Giám mục Lê Hữu Từ. . .
Tôi quen dần với những tiếng hô “ sát sát”
trong những buổi tập diễn của các chiến sĩ
tự vệ áo đen. Tôi cũng tò mò và ngạc nhiên
khi chứng kiến những buổi lễ làm “ Chết phép
lành” của cha Hoàng Quỳnh dành cho đội Vệ
sĩ cảm tử tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc.
Cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi từ hôm cha
Hoàng Quỳnh đến thăm bố tôi.. .
Cha ngạc nhiên nhìn thấy quyển Thánh kinh đang
mở trên bàn. Cha hỏi:
- Nhà cháu ai đọc sách này thế?
- Thưa, cháu.
- Cháu đọc kỹ chưa?
- Thưa, cháu đọc mới được có vài lần.
- Cháu bên Phật, cháu cũng tin có Đức Chúa
Trời?.
- Thân trình cha, xin cho cháu nói với tất
cả tâm ý của cháu.
- Con cứ nói ta nghe.
- Cháu đọc Thánh kinh để tìm nội dung, tìm
bước chân tương lai của con người, chứ không
tìm niềm tin cha ạ.
Cha Quỳnh có vẻ bối rối;
- Thế con có tin cuốn sách này được viết
ra bằng sự dẫn dắt kỳ diệu của Thượng đế
hay không?.
Tôi không trả lời câu hỏi của cha, tôi nói:
- Con không nghĩ là cuốn sách này là truyện
tích kéo dài lâu đời về loài người trong
quá trình vươn lên tìm kiếm Đức Chúa Trời
không, con không dám tin như vậy. Có điều con
cứ thắc mắc mãi, về việc sách ghi chép những
bước từng trải của loài người vươn lên tìm
Đức Chúa Trời và lần lần cải tiến ý niệm
về Đức Chúa theo kinh nghiệm của những thế
hệ trước.
Trong rất nhiều đoạn của Thánh kinh có chép
rằng Đức Chúa Trời phán. Con nghĩ Đức Chúa
Trời thực ra không nói như thế đâu, người ta
phát biểu tư tưởng của mình bằng ngôn ngữ
tự nhận là của Đức Chúa Trời, chớ thật
ra chỉ là những điều người ta tưởng về Đức
Chúa Trời mà thôi.
Cha Hoàng Quỳnh quả vừa bản lĩnh vừa nhân
hậu, cha thoáng tím mặt rồi vừa xua tay vừa
nói:
- Đừng, đừng con, lậy Chúa Jesus, Đức Maria
xin cứu chuộc một trí khôn lầm lạc. Đấy đọc
Kinh thánh mà không có niềm tin nó tác hại
như thế đấy, càng nguy hiểm hơn nếu con không
đọc tới nơi tới chốn. Không, không phải như
con trẻ và bọn duy lý nói vậy đâu. Đấy là
những hoang tưởng, những ngụy tín, kéo Kinh
thánh xuống ngang hàng với những sách khác.
. .Con hãy nghe ta nói đây:
- Kinh thánh là sách chép Đức Chúa trời tự
khải thị cho loài người để dậy dỗ và dẫn
dắt họ trên Đường Sự Sống. Đấy, chỉ có một
chân lý nhất quán như thế thôi.
Cha để tay lên vai tôi, tự nhiên tôi rùng mình:
- Thế con đã tìm được gì trong Thánh kinh
nào?
- Thân trình cha, con đã đọc khá nhiều sách
trong thư viện giáo xứ, thì quả Kinh thánh
là tài sản quý giá hơn hết của loài người.
Nó đạt được đủ hai yếu tố mà chưa có một
quyển sách nào có được là phổ quát và vĩnh
cửu. Nó không còn là của nhà thờ, của Công
giáo nữa. Nó là vốn sống của thế gian, túi
khôn của loài người. Nó có xuất có xử. Có
tồn có dụng. Nó không dừng lại ở việc chỉ
khuyên người ta tránh dữ làm lành mà bao quát
cả những điều thánh thiện và dung tục.
Chỉ tiếc có một điều: Thân trình cha, con
nghĩ cuốn sách được viết ra không phải cho
người cùng khổ đang khao khát hướng về Chúa
vì nó khó đọc quá cha ạ! Nhiều ẩn ngữ quá,
nhiều câu người đọc như đứng trước ngã ba
đường. Nó gần giống như những câu chân chân
giả giả trong bí kíp võ đạo vậy, mà người
đọc, hiểu hoặc được mặc khải thì rất hiếm.
Còn như coi đó là công việc duy nhất ở trên
tòa giảng để giải bầy và truyền dạy thì
con xin cha tha tội, con thấy như vẽ rắn thêm
chân, đẩy Thượng đế đi xa hơn vào vùng sương
mù huyền bí. . .Từ Kinh thánh tới niềm tin,
đến được mặc khải rồi hành động, một quá
trình tuy đơn giản bằng phẳng nhưng có một
cái gì lấp ló bàn tay con người. . .
Cha lắng nghe, đôi mắt loáng vẻ kỳ dị. Cũng
may vừa lúc ấy bố tôi về đến.
Cha kéo bố tôi ra ngoài vườn sau. Hai người
ngồi ngoài đó nói chuyện rất lâu. Lúc tôi
mang nồi nước sôi ra châm thêm vào bình trà.
Tiếng nói chuyện ngừng bặt, thấy tôi chần
chờ muốn nghe lóm, cha chỉ tôi:
- Năm nay nó bao nhiêu tuổi?
Bố tôi nói:
- Mười chín rồi đấy.
Tôi ngạc nhiên, sao bố tôi lại tăng tuổi tôi
lên nhiều như vậy.
Cha nói:
- Thanh niên bây giờ khôn trước tuổi, biết đọc
và suy nghĩ Phúc âm, tuy non nớt, không căn
bản nhưng xem ra còn hơn chúng ta ngày xưa rất
nhiều, ngày xưa ông nhớ không, bọn mình ngu
ngơ tồng ngồng. . .
Tôi liếc bố tôi, chiều nay lại uống ở đâu
rồi. . .
Như không có tôi, bố tôi cười khà khà:
- Có lần tôi dẫn ông chui qua bờ ao nhà bà
Đông, ông còn nhớ không? Gai tre cào xước cả
lưng, ông hỏi: “ Đi đâu vậy?” Tôi đưa tay lên
miệng: “Suỵt! Đi xem chim!” Ông ngây thơ: “Chim
gì mà ở dưới đất vậy?”. Tôi kéo tay ông rồi
cứ thế mà bò, qua lùm nhót, tôi chỉ xuống
cầu ao, ông nhìn trân trân đỏ mặt rồi lùi
dần, tôi còn tham, nấn ná. . . “ Đồ đạo đức
giả, trên đời không có thú gì bằng nhìn trộm
đàn bà con gái tắm truồng”. Mà tôi cũng không
ngờ sao ông lại ác thế, tôi đang say xưa, bỗng
nghe thấy ông la bên lùm tre: “ Coi chừng thằng
Mạnh nó đang nhìn trộm đấy!” Hai hòn giái
tôi nó chạy tót lên đầu. Mặt tôi lãnh đủ
những nắm bùn của cái Thắm, cái Tỵ. Tôi
xấu hổ chui ra “ Ông thụi bỏ mẹ mày! Đồ.
. .” Bỗng tôi sáng con mắt lên: “ Mả bố mày
đây rồi”. Cái thánh giá to tướng, ông vẫn
đeo ở cổ, lúc nãy khi ông chui ra, còn toòng
teeng trên đốt tre. Tôi run lên với cảm giác
thú vật rồi hiên ngang trở lại cái cầu ao,
lần này thì đếch phải bò nữa.
Cái Thắm, cái Tỵ đã mặc xong quần áo. Tôi
huơ huơ cây Thánh giá rồi ném về phía chúng
nó. Tôi quát to để cho ông ở bên kia hàng rào
tre nghe thấy:
- Cả cái thằng này cũng nhòm hĩm của chúng
mày đây này!
Kể đến đây bố tôi cười sằng sặc. Cha Quỳnh
cũng cười hồn nhiên. Tiếng cười của cha trong
veo.
Cha về rồi mà bố tôi vẫn ngồi một mình
như một pho tượng. Từ ngày mẹ tôi mất, bố
con tôi dồn tình thương cho nhau
- Bố nghĩ gì vậy bố?
- Con ngồi xuống đây, bố có một việc nói
với con.
- Việc gì vậy bố?
- Cha Tổng Chỉ huy Tổng bộ tự vệ vừa xin
bố để cho con đi theo cha Tổng.
- Sao lạ vậy bố, nhà mình đạo Phật lại không
có đức tin, vả lại để lại bố sống quạnh
quẽ một mình, làm sao con đi cho đành..
- Bố chỉ lo sự xa cách của cha con mình, còn
những điều con nêu trên không cần, tình thế
đến mức này, đâu còn phân biệt lương giáo
nữa, mà cùng một mặt trận con ạ! Mặt trận
bên này và bên kia. bên ta và bên địch. Nhà
tràng Phúc Nhạc không cung cấp đủ cán bộ.
Việt Minh đang thắng thế, Giáo hội đang ở
chân tường. Lớp cán bộ mới không cần trang
bị bằng thần học nữa mà chỉ cần lòng căm
thù, ý chí chiến đấu một mất một còn.
- Đành rằng Việt minh thì vô thần, quả là
họ không có tín ngưỡng thật đấy, nhưng con
thấy họ không làm hại đến người lành.
Bố tôi quắc mắt:
- Thế ông bà nội con là những người ác hay
sao?
- Con xin lỗi bố. nhưng con chỉ thắc mắc mình
và họ không thỏa hiệp được hay sao? . . .Đạo
với Đời, việc ai nấy làm!
- Không chung sống với nhau được đâu con ạ,
cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng. Chống
lại thì hoặc thua hoặc có cơ may thắng, còn
thỏa hiệp thì không bị diệt ngay những tan
vỡ từ từ ( bố tôi bắt đầu tái mặt) Con nên
nhớ, sách lược muôn thuở của Cộng sản là:
Liên kết với kẻ thù phụ để đánh kẻ thù
chính, cứ thế như tầm ăn lá, từ từ diệt
tất. . .
Bố tôi ôm đầu:
- Cháy nhà mới ra mặt chuột, bọn Việt Nam
Quốc Dân Đảng chỉ là thứ thùng rỗng kêu to.
- Con thấy thày Thích Tâm Châu vẫn đi lại với
giáo xứ ?
- Thì cũng chỉ được có mỗi ông sư này, còn
tất cả chỉ toàn là bọn già giái non hột
( bố tôi dằn từng tiếng) Bố thấy chỉ có
người Công giáo mới có khả năng chống Cộng,
còn thì vất đi tất.
- Thế tại sao mình phải nhẩy vào cái vòng
tranh chấp của họ?
- Không đứng ngoài được đâu con ạ, Giáo hội
đã đùm bọc mình trong những khi thất cơ lỡ
vận, gia tộc ta mang nặng một mối thù, ông
bà nội con bị đấu tố chết. lẽ nào bây giờ
mình không đóng góp. Phải sòng phẳng con ạ.
. .
Bố tôi khóc, đây là lần thứ hai tôi thấy bố
tôi khóc, lần đầu là lúc hạ huyệt mẹ tôi.
. .
- Thôi con hiểu rồi, con xin nghe bố, cái sợ
của con là bố phải sống một mình, từ nay
không có con bên cạnh, bố đừng uống rượu nữa
nghe bố.
Rồi tôi cũng khóc, bố tôi lau nước mắt rồi
cười vang lên như một người điên. Âm thanh vùa
ma quái, vừa thỏa thuê, những uất nghẹn như
bật ra từ lâu lắm rồi. Đôi mắt của bố tôi
lóe lên những tia hừng hực như đốm lửa âm
ỉ lâu ngày, gặp gió cháy bùng
Tôi đi theo cha Hoàng Quỳnh và làm thư ký
riêng cho cha từ ngày ấy. . .
Hôm đến văn phòng Tổng Bộ tự vệ nhận việc,
cha dặn tôi:
- Cha chỉ yêu cầu một điều, nếu các cha bề
trên có hỏi thì con trả lời : con có đạo
nhé!
Tôi tự ái : Sao cha không lấy người trong đạo
giúp việc cho cha, con ngoại đạo ngộ lỡ có
chuyện gì mang tiếng cho cha
Cha Quỳnh xua tay:
- Đừng khí khái hảo! Cha chúa ghét cái bọn
con chiên nịnh hót, làm hư các cha không ai
khác là con chiên của mình
“ Cha Quỳnh không phải là loại cha răng đen,
thuốc lào, thịt chó”. Càng ở gần cha, tôi
càng nghĩ như vậy, cha không hiểu rộng nhưng
biết nhiều , biết đủ thứ chuyện, cả việc
đạo lẫn chuyện đời, tính tình cha có đôi
lúc bất thường. Cha không hợp với các cha
già bảo thủ, cha căm ghét việc các cha đánh
con chiên, cha gay gắt phê phán việc đem chuyện
gia đình ra bêu rếu tại nhà thờ. Cha thích
bỡn cợt với các cha trẻ cấp tiến “họ ăn
nói báng bổ thật nhưng niềm tin của họ thì
có cơ sở rất cao, tương lai của giáo hội ở
trong tay của các vị ấy đấy!”
Có lần cha nghe ai phàn nàn về việc cha già
Thiên dùng roi xua con chiên đi lễ ,cha tím mặt:
- Tại các ông, các bà đấy, cứ nịnh cha lắm
vào, cái gì cha cũng nhất, cứ bơm riết rồi
cha nào cũng thành Đức Chúa Trời cả thôi.
Đấy là đối với việc đạo, tôi cũng được
kề cận bên cha những lần ra Hà Nội, ra Huế
gặp Cao ủy Pháp, gặp Thủ hiến Bắc Việt,
gặp cả Quốc truởng Bảo Đại, những lần gặp
gỡ như vậy cha dung dị, tự tin, tôn trọng đối
tượng. Duy có lần gặp Bảo Đại – cha bước
ra, mặt buồn buồn, cha bảo:
- Người Nhật thật may mắn có Minh Trị Thiên
Hoàng! còn mình ...Ôi! bất hạnh quá! Một
quái thai chính trị !
Cha nhổ toẹt trên thềm dinh rồi nắm tay tôi
chạy như ma đuổi
Mấy ngày sau, tôi gặp cha ỏ nhà chung Phát
Diệm, cha vẫn còn buồn, cha kéo tôi vào phòng,
cha ngồi trầm ngâm, dư âm cái lần gặp Đức
vua vẫn còn cấu xé cha...
- Cậu nhìn xem cái phòng này có gì đặc biệt
?
Tôi nhìn quanh quất, chẳng thấy gì, lắc đầu.
Cha đẩy một cái ghế dài. . .Một khung cửa
vừa đủ cho một người, bên kia là cái phòng
tối om .
- Đấy! năm 1946 có hai anh em nhà họ Ngô Đình
chạy từ Hà Nội vào, Giáo hội hào hiệp đưa
tay ra đón, chính tôi đã sai Lê Quang Luật đưa
Nhu qua Lào, tương lai đất nước phải có những
tay như thế...
Cha lại trầm ngâm: Tiếc rằng bây giờ sự đấu
tranh giữa các chủ thuyết còn quá gay gắt,
chủ nghĩa Mác tuy làm chủ bản thân nó còn
quá kém, chưa đến mức là một khoa học. Tuy
vấn đề con người luôn luôn được Mác rao giảng,
nhưng trong Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản, Mác
đã định nghĩa con người là sự tổng hòa các
quan hệ xã hội. Nói một đàng làm một nẻo,
khi viết những nguyên lý về duy vật lịch sử
thì Mác lại cố tình lờ luôn yếu tố con người
mà chỉ xoáy vào vấn đề giai cấp, lấy cớ
rằng con người đã tham gia vào đủ mọi việc,
đã có mặt trong các nguyên lý cơ bản về chính
trị, kinh tế, văn hóa rồi.
Thế nhưng, học thuyết của Mác, không phải
là không có sức hấp dẫn, không phải là không
có tính thực dụng, nó biết gom góp các kẽ
hở của duy tâm để bổ túc cho duy vật. Tuy
vậy nó quá độc tài, nó quá thiên về con
người tập thể để quên mất con người cá nhân,
đòi hỏi quá đáng về sự hy sinh bản thân.
Nó được tô vuốt ở phương Tây nhưng lại bị
hiếp dâm ở phương Đông.
Những vụ thanh trừng đẫm máu ở Diên An, Tứ
Xuyên, Thượng Hải đang biến những cái nhìn
ban đầu về Mác thành cái nhìn xót xa hoảng
sợ.
Còn chủ nghĩa tư bản ư? Tuy cái tiên đoán
về chủ nghĩa này đã có nhiều dấu hiệu cho
thấy Mác đã sai lầm nhưng nó vẫn bị tai tiếng
về bản chất bóc lột của nó. Khác hẳn với
Mác, nó lại duy cá nhân và đánh mất cái
tập thể. Khi trở thành đế quốc thì nó lại
quá độc ác.
Qua nhiều đêm nói chuyện với Nhu. . . Cha thấy
cái học thuyết của ông ta đang thai nghén quả
có thể dung hòa được cái tích cực và tiêu
cực của hai lưỡng cực đối kháng này. Chỉ
tiếc một điều. Tớ là thày tu, tớ phải cay
đắng nhận thấy rằng: Cái đầu của anh chàng
này có pha tôn giáo. Tránh kỵ triết học chính
trị có pha tôn giáo, nó giống như vá áo không
cùng màu vải. Nó biến học thuyết thành hoang
tưởng hỗn tạp.
Cha lẫm bẩm: Cần nhất là phải biết làm chủ
được những lý thuyết cơ bản.
Tôi nhìn cha: Đôi lông mày đậm dầy này. .
.Vầng trán có những vết nhăn trăn trở này..
. Cặp mắt và vành môi khát vọng kia, đâu chỉ
dừng lại ở bộ áo thày tu: Đen hay đỏ? Cái
đầu thông bác kia chỉ ép xác trong cái cổng
kín bưng của tu viện, sao không ở chỗ khác
kìa?
Tôi sống với cha Quỳnh như vậy đã gần được
hai năm
Quan hệ giữa tôi và cha có cái nhập nhằng dễ thương làm sao! Có lúc thì như cha con. Có lúc như thày trò. Có lúc như đồng đội. Có lúc như bạn bè. Có ai hứng chí lấn lướt một chút, thì người kia cũng chẳng phật lòng, chẳng sợ mất mặt, chẳng sợ phạm thượng.
Cho đến một hôm tôi đang đọc sách trong thư
viện giáo xứ thì có cậu bé giúp việc cho
cha tìm tôi:
- Thày về gấp, cha Tổng đang chờ.
( Như tôi nói ở trên, tôi đạo Phật, cha dặn
dấu không cho ai biết, nên ai cũng tưởng tôi
là thày Bốn, thày Năm bên Tiểu chủng viện
biệt phái qua giúp việc cho cha)
Về đến văn phòng, không thấy cha tôi đi thẳng
xuống nhà riêng. Cha vẫy tay:
- Vào đây, vào đây thụ lộc!
“Lộc” là quà ngon vật lạ, con chiên quý cha
thường đem biếu, một dĩa thịt luộc đầy ắp,
một dĩa lòng, một tô nhựa mận và một chai
rượu nếp cẩm.
Tôi xuýt xoa;
- Chà, mưa dầm gió bấc thế này mà chén thịt
chó thì chỉ có sướng mà chết thôi!.
Cha cười:
- Vào đi, vào đi kẻo lạnh
An tọa tôi lại xuýt xoa:
- Bố con nói đùa, cái thú nhất là nhìn trộm
đàn bà con gái tắm truồng, nhưng theo con thì
chẳng có gì thú bằng chén thịt chó. Hay
thịt chó và đàn bà có cái gì gắn bó đến
ngũ dục của đàn ông, cha nhỉ?
Cha Quỳng cười thoải mái:
- Bố cậu hôm trước không kể hết cái chuyện
ngày xưa ấy. . .
Cha vừa nhấm nháp vừa kể:
. . .Sau khi bố cậu chơi khăm tớ. Cái Tỵ, cái
Thắm cầm cái thánh giá về ngay nhà tớ. Ôi!
Ôi! Lậy Chúa tôi, tớ bị một trận đòn thừa
sống thiếu chết và ngay ngày hôm sau tớ bị
gửi vào nhà dòng
Cha cười sảng khoái:
- Ấy nhờ thế mà thành cha đấy!
Khi chai nếp cẩm đã gần hết, Bỗng cha hỏi
tôi:
- Tớ hỏi thật nhé, cậu có biết đàn bà là
gì không?
- Thưa cha, cứ như Kinh thánh. . .
Cha xua tay:
- Đừng, đừng múa rìu qua mắt thợ, đừng lấy
Kinh thánh ra để hù dọa tớ, tớ hỏi thật
đấy, tớ muốn biết thêm về một chút đời thường.
. .
- Thế thì thưa cha, cứ như những người đi trước,
từng có “ Nợ máu” với cánh đàn bà thì con
thấy, quả Thiên Chúa đã sáng suốt khi không
sáng tạo người nữ từ cái đầu của người
nam để nàng lấn lướt, cai trị chàng. Nhưng
quả Chúa cũng chưa am tường nhân thế khi lấy
người nữ từ cái xương sườn của người nam,
chỗ ấy rất gần con tim khiến đàn ông cứ mê
muội, cứ say đắm vào những cái phù phiếm
mà đau khổ nhiều hơn hạnh phúc. Như bố con
ấy, cái hôm mẹ con mất bố con khóc như con
trâu rống. . .
Cha Quỳnh cười:
- Thế thì theo cậu phải tạo người nữ từ
phần nào của người nam?
- Phải tạo từ đôi chân để họ mãi mãi làm
nô lệ cho đàn ông!
Cha xua tay:
- Không được đâu, không được đâu, này tớ không
đùa đâu đấy, cậu phải lấy vợ đi. Cây có cây
đực cây cái. Người có âm có dương thì mới
hanh thông được, còn như bọn thày tu chúng
tớ, có sáng suốt, có uyên bác thật đấy nhưng
vẫn có cái gì lệch lạc, nghiêng ngả, mất
thăng bằng. Lúc nào cũng như bị dị ứng, tức
như bò đá. . .
Tôi xum xoe:
- Con hỏi thực xin cha đừng giận:
- Hỏi đi, sao tự dưng lại khách sáo thế?
- Tại vì đây là những điều khó nói, con nghĩ
đàn ông cả với nhau mới dám hỏi cha: Cha có
bao giờ bị dục tình thôi thúc không ạ?
- Câu hỏi hay, quả là khó nói đấy, nhưng tớ
với cậu, mình cùng cánh đàn ông với nhau
tớ phải nói thật: Ghê Lắm. khủng khiếp lắm
. . .Từ cái ngày nhìn thấy cái Thắm , cái
Tỵ, tớ cứ bị ám ảnh hoài, những bữa trưa
hè, những đêm đông, nhất là về ban đêm, có
một cái gì bứt rứt xôn xao. Có một cái gì
nó cứ chạy rần rật trong từng thớ thịt,
hai má thì cứ nóng ran. Phía trên đầu thì
vang váng. Phía dưới thì căng cứng, các tế
bào cứ như bị tê dại hẳn đi. Hơi thở của
mình như không thể điều khiển được nữa, cứ
như có ai gãi ở các đầu ngón chân ấy.
- Thế thì cha chịu trận à?
- Mình cởi quần áo ngoài ra, mặc mỗi cái
quần đùi. Đêm miền biển lạnh giá là vậy
mà mình cứ thế mà chạy, quay lại bể nước
xối ào ào rồi lại chạy tiếp, lại xối nước.
. .Về nằm, ngủ được thì không sao, không ngủ
được thì đâu lại vào đấy. . .Có khi mình
mặc áo lễ vào, lên nhà thờ quỳ xin Chúa
toàn năng cho êm ả tâm hồn, cho thanh khiết
đẩy đi mọi cám dỗ. Nhưng đến là quỷ! Khi
nhìn thấy tượng thánh, thì tớ lại nhớ ra
khuôn mặt cái Tỵ! Chúa ơi! Sao mặt con bé
giống Đức Mẹ như hai giọt nước. Rồi tớ lại
nghĩ bậy bạ, thân thể thì cứ rã rời, tâm
hồn thì hoang mạc như một bãi chiến trường
vừa mới qua cơn binh lửa. Cái mặc cảm ấy
nó cứ ray rứt tớ như một bóng ma. . .Ghê sợ
lắm!
- Các thày chùa bên chúng con, họ chay tịnh
còn đỡ, các cha bên này, ăn uống không kiêng
khem, chịu sao nổi.
Cha bối rối, chợt như nhớ ra một điều gì,
cha nhìn tôi, nhíu mày:
- Này, tớ nghe đồn, cậu léng phéng với cái
cô Hiên gì đó của Hội con Đức Mẹ , bên giáo
xứ Kim Sơn phải không? Hình như cô ta có một
người anh thoát ly từ năm 45, 46 gì đó. Cẩn
thận, rất cẩn thận anh bạn trẻ nhé.
“ Cái cô Hiên gì đó” quả thực tôi có yêu,
có say mê, có tâm sự, thề thốt. . .
Một tháng sau, Hiên và người em út của cô
ta, không mộtlời từ biệt tôi, đã bỏ Giáo
khu trốn ra vùng Việt Minh.
Cha Quỳnh che chắn cho tôi hết lòng, tôi mới
không bị lôi ra ban An ninh của Tổng bộ.
Người ta đã không tìm ra ai là người làm nội
tuyến cho Việt Minh đánh đồn Yên Thổ, nhưng
người ta đã râm ran đồn đoán ai là người đã
để lọt ra ngoài các tin tức mật từ Tổng
bộ Tự vệ.
Tôi như người mất trí. tôi ngồi lắp ráp lại
những câu hỏi không đầu không đuôi của Hiên
và những câu trả lời hớ hênh của tôi, trong
những lần chúng tôi ngồi tâm sự với nhau.
Trong đôi mắt nhân hậu của Cha Tổng có thấp
thoáng sự thương hại và ngờ vực. . .Tôi không
còn được làm thư ký trong những phiên họp
của Tổng bộ nữa. . .
Tôi xin cha cho tôi được nghỉ việc. . .Cha nhận
lời.
Tôi thất thểu về nhà. . .
. . . Bố tôi ngồi bất động trên cái chõng
tre, giọng ông tắc nghẹn:
- Con không phải giải thích nữa, bố biết hết
cả rồi.
Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc hoài không ngủ được,
tôi nhớ đến cha Quỳnh. Tôi thương bố tôi. tôi
ghê tởm Hiên. Tôi ghê tởm tôi. Tôi đem những
kỷ vật Hiên đã có ý để lại cho tôi, như cái
khăn màu tím nàng hay quấn cổ, cái kẹp ba
lá, những lá thư hò hẹn, tôi đem những thứ
đó ném xuống sông.
Tôi như người lần đầu tiên đi đánh bạc gặp
ngay đứa cờ bạc bịp. . .
Bổng tôi nghe như có tiếng rên nho nhỏ của
Bố trong giường trong:
- Xoan ơi! Nhục quá! Xoan ơi! ( Xoan là tên mẹ
tôi)
Tôi cứ tưởng bố tôi nói mê.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy đun nước để bố
tôi pha trà. Chờ hoài không thấy bố dậy. Tôi
lên tiếng gọi, vẫn im lặng. Tôi nhẹ kéo chăn
ra. Máu trong miệng, mũi bố tôi đã khô đen,
hai con mắt trắng dã, trừng trừng. . .
Tôi cắn răng nhìn xác bố. . .“ Con khốn nạn,
mày là người đã làm tan nát đời tao, gia
đình tao” Tôi hét lên như một thằng điên:
- Trời ơi, Bố ơi! Thù này biết bao giờ mới
trả được hở trời?
Đám ma của bố tôi sầu thảm như đất trời
ngày hôm ấy. . .
Cha Quỳnh mặc thường phục. Đám ma đi dọc đường
phố Phát Diệm mưa phùn, trơn lạnh. . .Những
người đứng dọc hai bên đường nhìn quan tài
bố tôi thương xót. nhìn tôi khinh bỉ.
Tôi xin cha để dời Giáo xứ;
- Con về đâu ? Cha hỏi như khóc.
- Con phải đi lính. . .Chỉ có quân đội. . .
- Con nên vào Huế học trường Đập Đá ta chứng
nhận cho.
- Không con chỉ muốn làm lính, con muốn chính
tay con, chứ không phải qua lệnh của con.
Trong một cữ chỉ mà chính tôi cũng không thể
ngờ được. Tôi quỳ xuống chắp tay lậy cha:
- Thưa cha Linh hưởng. Con tuy ngoại đạo nhưng
như đã phó hồn xác trong tay Chúa, sự nhân
ái của Cha cả đời nằm nguyên vẹn trong trái
tim con. Xin cha giúp con cầu nguyện Chúa phán
xét công bằng.
Cha Quỳnh khóc. Tôi khóc. . .
CĂN CỨ SUỐI MƯƠNG, HÒA BÌNH NĂM 1952
Hai chị em Hiên bỏ Phát Diệm vào một buổi sáng tinh mơ.
Hiên ngoái lại rất lâu nhìn một lần cuối
cái dốc cầu Trì Chính. Những dấu chân hẹn
hò của cô và Nam như còn chập chờn, bồng
bềnh trong sương mù của buổi sáng hôm ấy.
Khi chiếc thuyền nan xuôi dòng về hướng Thượng
Kiệm, tim cô nhói lên khi nhìn thấy tháp chuông
giáo đường vươn cao lên trên những ngọn cau
già, nước mắt cô trào ra, trong hơi nước ngầy
ngậy ngái ngủ, cô ngửi thấy cả đến mùi hoa
hoàng lan quấn quýt lấy hương vị tình yêu
đầu đời, từ những hàng cây dọc lối vào nhà
xứ.
Cô đến Nho Quan, Tân Lạc rồi vào Hòa Bình.
Hai chị em Hiên tìm đến căn cứ Suối Mương.
Anh vệ quốc cảnh vệ dẫn hai chị em đến giới
thiệu với một chính trị viên.
Hậu nói như khoe:
- Hai chúng tôi là em ruột của Chính ủy Hải
Ninh.
Viên cán bộ mặt lạnh tanh:
- Đồng chí Hải Ninh đả bị hạ tầng công tác
và đang thời gian quản chế. . .
Hai chị em Hiên đứng không muốn vững, bám vào
nhau:
- Anh tôi có tội gì chứ?
- Tôi không biết.
- Chúng tôi có được phép gập anh tôi không?
- Theo tôi hai cô không nên gập anh ấy lúc này,
hãy để cho anh ta tập trung tư tưởng để tự
đánh giá mình. Mọi quan hệ với anh ta chỉ
làm vấn đề thêm phức tạp
“Mình về đâu bây giờ?”. Câu hỏi ấy cứ oằn
lên vai Hiên trên con đường từ căn cứ ra Thạch
Thất.
Đến bến đò Tân Vệ, Hậu nói như rên:
- Chị ơi, em mỏi chân lắm rồi, hai bàn chân
giộp hết rồi.
Hiên nhìn em thương hại. Cánh đồng Sằn vắng
vẻ, còn bờ sông không bóng một con đò. Hiên
như được linh tính mách bảo là ban an ninh
căn cứ đang theo dõi bước chân hai chị em cô.
Sau đây là những mẫu đối thoại không đầu
không đuôi của hai cô con gái, lần đầu tiên
ra đời để đi làm cách mạng
Hậu nói:
- Cứ như anh thợ săn đầu mùa, gập ngay viên
đạn thối!
Hiên nói: Chị đã bảo ở nhà mà không nghe.
Anh Ninh nhắn có mình chị.
Hậu nói: Em không muốn xa chị, em chán cái
không khí xóm đạo nhà mình lắm rồi. Em sợ,
sợ kinh khủng. . .Trời mưa dầm, gió bấc, tiếng
cầu kinh ê, a. .
Hiên nheo mắt:
- Có sợ thày Bốn không đấy!
- Sợ luôn, em chúa là ghét thứ đã đi tu mà
còn tình. Tu tiếc gì cái ông ấy. Chị biết
không, ông ấy bảo em: Kỳ lễ Đức Mẹ Lên Trời
này, ông ấy trình cha xứ cho em ngồi xe hoa
làm Đức Mẹ. Em hỏi: “ Sao thày không chọn
chị Hiên ?” Thày nói: “ Đâu phải ai muốn làm
Đức Mẹ cũng được, phải ngoan này, phải còn
trinh này. . .” Em hỏi: “ Thế cái đêm Giáng
sinh, sau hang đá, thày cầm tay em, thày sờ
ngực em, vậy em còn trinh không?” Thày nói:
“ Nói nhỏ chứ, đừng có nói với chị Hiên
em nghe. Mà chị Hiên em cũng ghê lắm. Mê thày
Nam như điếu đổ, ngày nào cũng qua Tổng bộ,
Còn ngủ lại đêm bên ấy nữa chứ”. Rồi thày
nheo mắt: “ Chị em đâu có làm Đức Mẹ được,
mất trinh rồi”
Chị này, cái đêm chị qua Phát Diệm, chị ngủ
với anh Nam hả chị? Mất trinh hôm ấy hả? như
vậy chị em mình cùng mất trinh cả rồi còn
gì ( Hiên cười khúc khích) em vẫn tưởng trinh
tiết là cái gì phải kiên cố lắm, khó khăn
lắm, dư luận lắm chứ đâu có nhẹ nhàng, mỏng
tanh, mất còn không biết ( cả hai chị em cười
khúc khích)
Hậu lại hỏi:
- Kháng chiến là gì? Cách mạng là gì hả
chị?
Hiên trầm ngâm giây lát, cô nhớ ngay đến Hải
Ninh:
- Thì cứ như chơi đồ hàng ấy thôi, nhưng nhân
rộng ra, lớn ra, cái gì cũng thật, cái gì
cũng giả: Đánh nhau thật, căm thù thật, đấu
đá thật, hạ tầng công tác thật, chết thật.
Nhưng khen thì giả. . .
Hiên lại nhớ đến Nam, đến cái bẽ bàng của
Hải Ninh. cô nhớ đến lời chị Bổng:
- Còn Cách mạng ư? Trong lý thuyết thì lãng
mạn. Ngoài thực tế thì trần truồng. Trông
xa thì như một cô gái trinh trắng đài các.
Chạm vào thì mới biết đó là một con đĩ
toang hoác.
Hậu hỏi: Người trong giáo xứ đồn rằng, trong
trận đánh đồn Yên Thổ, có tin tức chị lấy
của Tổng bộ qua anh Nam phải không?
Hiên bừng lên: Không, em biết bên đạo mình có
câu thề nào nặng nhất không? Nghe chị đây,
chị mà làm thế, chị bị trọng tội đấy!
Có tiếng súng nổ chát tai, cả thân thể Hiên
bật tung lên. Một tay chới với như muốn tìm
chỗ dựa nào đó ở khoảng không. Một tay chống
xuống đất, rồi ngã nghiêng. . .
Hậu trân trân nhìn Hiên quằn quại , cô lấy
hai tay ôm lấy mặt rồi rú lên:
- Chúa ơi! Chị ơi! Ai bắn chị tôi thế này.
Tiếng khóc, tiếng gào, tiếng gió theo nước
sông loang loáng về phía hạ du. . .
SÀI GÒN 1954.
Sư đoàn khinh binh số 10 của tôi vào Nam. Đóng
ở Long Khánh.
Đây là lúc ông Nhu thanh toán xong các lực
lượng thân Pháp và các lực lượng giáo phái,
ông quay sang “ Làm thịt” nốt Tổng bộ tự vệ.
Lực lượng chống Cộng có đến hàng vạn người
này dần dần tan tác.
Đức cha Lê Hữu Từ vẫn ngạo nghễ làm lễ ở
nhà thờ di cư Phát Diệm. Đức cha đang suy nghĩ
gì thì chỉ có Chúa mới biết, nhưng những
người thân cận nhìn bóng cha nghiêng nghiêng
mỗi chiều tắt nắng, không nén được tiếng
thở dài cho tình đời đen bạc.
Còn cha Quỳnh, hình như ông Cố vấn quên hẳn
cái việc cha đã tổ chức cho ông trốn qua Lào
bằng cách ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt giam
cha. Sau đó đầy cha đến cái xứ đồng khô cỏ
cháy Bình An này.
. . .Nhờ bộ đồ lính còn vương đất đỏ. Tôi
lẻn được vào thăm cha.
Cha ôm đầu tôi, hôn tôi. Tay cha sờ sờ cái lon
Thượng sĩ nhất của tôi:
- Bây giờ mà còn như thế này à! Đám sĩ quan
Bùi-Phát , tướng tá hết cả rồi. Thằng Phạm
Xuân Chiểu trở cờ biết chưa?
Tôi đau đớn nhìn cha. Cha già hẳn đi. Tôi móc
trong cái “ Túi bắt gà” một gói bên ngoài
là lá chuối.
- Con ghé Gò Vấp, biết cha mê món này.
Cha nhìn trân trân ( một thoáng suy nghĩ: không
biết đôi mắt này có giống lúc bố và cha
nhìn xuống dưới cầu áo nhà bà Đông không
nhỉ? ) rồi cười lên ha hả, khiến bọn mật
vụ bên ngoài ngơ ngác.
- Bố anh! Trước khi anh tới đây, tôi nghĩ có
thể bắt tay ông Diệm chứ có bao giờ dám mơ
tưởng đến món này đâu. Ôi! Tranh bá đồ vương.
Ôi ! Công hầu khanh tướng! Làm sao bằng cái
gói thịt chó này cơ chứ ! Ủa mà sao lại
khóc? Yên tâm đi! Chúa sắp xếp hết, Chúa rất
công bằng. Rồi cũng êm thôi.
“ Rồi cũng êm thôi”. Cái đầu của cha một lần
nữa xác định được cái nhanh nhạy ấy
:Nhà Ngô càng ngày càng bị sức ép của Mỹ.
Sau những lần dằn mặt từ những Nguyễn Chánh
Thi, Vương Văn Đông, rồi đến Nguyễn Văn Cừ,
Phạm Phú Quốc. Đến sự chống đối ngấm ngầm
của các sĩ quan thân Pháp. Đến ngay sự lạnh
nhạt của tòa thánh Vatican. Đến lúc phải
tìm một mô hình giáo khu Bùi Phát cho Quốc
sách Ấp chiến lược, Ông Nhu dần dần thấy
cái quá đà của ông trong việc đánh phá Tổng
bộ tự vệ Phát Diệm với cả triệu giáo dân
và những người gốc miền Bắc sau lưng nó.
Nó đâu giống Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo
đâu?
Giáng Sinh năm 1960 tôi trở lại Bình An. Lần
này thì khôngcòn hoang vắng như lần trước
nữa. Những chiếc xe hơi, xe Jeep nối đuôi nhau.
Chủ nhân của chúng là những chính trị gia
đối lập, cần sự hậu thuẫn của Công giáo.
Cớ cả những sĩ quan, viên chức cần lên lon,
thăng ngạch, cần đi làm tỉnh trưởng, tư lệnh.
. .
Thấy tôi lấp ló. Cha đuổi khéo hai người
khách đang ngồi trong phòng, ra tận cửa lôi
tôi xềnh xệch.
- Lần trước nhờ món thịt cầy của cậu mà
tớ thoát chết hai lần. Lại trò bắn lén kiểu
bắn Trịnh Minh Thế. Hoàng Quỳnh đâu có ngờ
nghệch như Trịnh Minh Thế đâu chớ. Về với
tớ đi. Hai tay vừa rồi là chuyên viên trong
văn phòng ông Cố Vấn đấy. Ông Nhu muốn tìm
thêm kinh nghiệm của Giáo khu ngày trước .
Ông ta quên là mỗi thời mỗi khác. Ngày ấy,
lòng dân còn toàn tòng. Bây giờ thì ly tán
hết rồi! Chưa qua sông đã đấm buồi vào sóng,
ai còn tin được. . .
. . .Người ta vẫn bảo Lê Hữu Từ và Hoàng
Quỳnh thân Pháp. Thì đã sao nào? Pháp già
rồi nhưng có thủy có chung. Chơi với tụi Mỹ
như chơi với dao vậy. Vừa thực dụng lại vừa
tráo trở. Đụng tới quyền lợi của họ, thì
bạn hay thù cũng a lê hấp !
. . . Sao về với tớ không? Ngày còn ở Ninh
Bình, cậu thua đếch gì thằng Chiểu, thằng
Đổng. .
Thấy số người chờ càng lúc càng đông. tôi
hỏi:
- Cha còn nhớ chị em cô Hiên không?
- A ha ! cái rắc rối của đời cậu ấy mà,
tớ làm sao quên được, nhưng “ Giai nhân nan tái
đắc” Bóng chim tăm cá phải không? Sao nhất
định không lấy vợ à?
- Thưa cha, quả là mọi việc đều do Chúa an
bài cả cha ạ. Con mới được tin hai con yêu
cái này cũng di cư vào đây, đang ở vùng Bình
Long Bến Cát gì đó. Con về đây chỉ để nhờ
cha, xin cho con đổi về sư đoàn nào ở gần
đó. Nếu bố con có linh thiêng , xin dẫn đường
chỉ nẻo cho con. Đời con thua chúng, thua bạn
chỉ vì còn đeo đuổi mối thâm thù này. Xin
cha cầu nguyện cho con. . .
Cha Quỳnh bỗng ho xù xụ, tóc cha đã bạc
quá nửa. Cha nhìn tôi :
- Mình còn nhiều dang dở, những sở nguyện
chưa đạt được một phần ba. Cậu xem ra còn
bết bát hơn mình, tụi mình không còn bắt
đầu từ số không được đâu, thật là lực bất
tòng tâm. Nghĩ cho cùng: Chỉ có tha thứ và
sự bình yên ở nước Chúa mới là yên phần
hồn rỗi phần xác !
Bỗng cha cười ha hả:
- Ngày xưa, nói chuyện đàn bà với cậu, tớ
cũng thầm mong Cộng đồng Vatino cho phép linh
mục lấy vợ, bây giờ mà có được phép, tớ
cũng đếch thèm
Cha đứng lên lấy phích nước, cái dáng gù
của cha làm tăng vẻ chậm chạp
- Cậu ở với mình một thời gian. Cậu thấy
mình thế nào? Mình có cuồng tín quá hay
không? Có trọng đời khinh đạo quá hay không?
Tớ biết tính cậu hay nói thẳng tớ mới hỏi,
cần cứ việc khuyên. Bố cậu lúc sinh thời
vẫn cho tớ những lời bộc trực thấm thía.
Cha chỉ tay ra ngoài phòng chờ, lố nhố những
khách. Môi dưới của cha trề ra
- Họ gồm hai loại: Con chiên chân chính và
những người đến nhờ vả. Con chiên thì cha
nào chả là ông thánh. Lúc nào họ cũng thấy
thấp thoáng nơi vị chăn dắt của mình ánh
hào quang của Đức Chúa Trời!
Còn những người đến cầu cạnh mình ư? Họ
đời nào dám nói cái sở đoản của mình ra
kia chứ . Có lần mình giả vờ nóng giận,
mình hỏi me xừ Ngô Trọng Hiếu: “ Có phải
với cương vị Bộ trưởng Công dân vụ ông tuyên
bố trước các Tỉnh đoàn trưởng là phải xem
xét tôn giáo như một hiện tượng văn hóa không?
Đó là quan điểm của chính phủ hay của cá
nhân ông?” Ông ta sợ hãi ra mặt. . .
Cha vừa pha trà vừa nói:
- Họ đến với mình bằng những câu: “Nhờ cha
sinh phúc, nhờ cha gia ân cho”. Mình làm chó
gì có quyền mà làm ngay cho họ được, mà
phải làm trung gian. Ôi! đã là trung gian bên
Đạo, lại còn phải làm trung gian bên Đời!
Cha cười thiểu não:
- Có đứa còn phong cho mình là thiên tài nữa
kia đấy.
Cha đổi giọng cười ha hả :
- Thiên tài đếch gì tớ. Thiên tài đớp thịt
chó thì có!
Ánh sáng của cửa sổ phía tây xuyên qua tầu
dừa chênh chếch, chiếu vào chỗ cha ngồi. Tôi
thấy rõ mái tóc điểm sương khô khốc, những
nếp nhăn men mét, hai túi lệ chẩy xệ dưới
đôi mắt trũng sâu khắc khoải.
Tôi nói:
- Thưa cha cứ theo định nghĩa “ Cái không học
ở đâu cả, cái không thể học nổi, cái không
thể bắt chước được. Đó là thiên tài!” Thì
người ta bảo cha là thiên tài đúng quá rồi
còn gì! Hồi còn ở với cha, con may mắn được
cha mặc khải khá nhiều. đoán biết và nắm
bắt được chút ít tư tưởng của cha, nhìn cách
cha giải quyết vấn đề, xem cách cha khu xử
sao cho hợp đạo đẹp đời. Con vẫn tiếc giá
như cha đừng đi tu, những điều sở tồn của
cha mà làm sở dụng thì hay biết mấy, thì
giúp ích cho nước nhà biết mấy.
Con xin nói thật, giới tăng lữ bây giờ. Đạo
nào cũng vậy, có làm chính trị giỏi cách
mấy thiên hạ cũng gán cho cái tội khuynh loát
lợi dụng đấy cha ạ. Cha không nghe giới kẻ
chợ bây giờ họ sắp xếp thang bậc trong xã
hội bằng vỏn vẹn có tám chữ: Nhất cố, nhì
sư, tam xi, tứ tướng.
Cha cười buồn:
- Cố là gì? Xi là gì?
Tôi nói:
- Cố là cố đạo, là các linh mục, Còn xi
là taxi, là những tên ma cô chở đĩ điếm cho
ngoại kiều.
Cha giật mình: “ đến thế cơ à?” Rồi cha ho
khung khúc.
Tôi nói:
- Ngày ở với cha, con có đọc trong một tờ
báo cũ của thư viện giáo xứ, tờ Phụ Nữ
Thời Đàm, một bài thơ của một nữ sĩ, vịnh
Hai Bà Trưng, con sửa lại mấy chữ có ý để
tặng cha, xin cho con đọc trình cha nghe, coi
như nhận xét của con về cha kính yêu.
Bùi Phát quân thù kinh vó giặc.
Giáp vàng, áo chùng lạnh đầu voi
Chúa ơi, Tòa giảng bơ vơ quá.
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi.
Cha bắt tôi đọc lại lần nữa, cha buông bút
ngồi ôm đầu
- Ôi bơ vơ, lẻ loi thật!
MẶT TRẬN BÌNH LONG 1972
Tôi hỏi người phụ nữ “ Điên”
- Cô bị bắt trong trường hợp nào?
- Tôi đang giặt giũ ở bờ sông, các ông bắt
tôi
- Tình hình này, ai dám ra sông để giặt? Quê
cô ở đâu?
- Hải Hậu, Ninh Bình
- Trước năm 1953 cô ở đâu?
- Tôi ở Kim Sơn, Phát Diệm
- Rồi sau đó
- Tôi lên Nho Quan!
( Bố mẹ ơi, quả nhiên lưới trời lồng lộng,
rất thưa nhưng không sao lọt được! Kẻ thù hình
như đang ngồi ngay trước mặt con đây, cũng khuôn
mặt trái xoan, cái mũi dọc dừa, cũng đôi
mắt bồ câu trong sáng và phản trắc ấy. Bố
ơi, còn văng vẳng đâu đây tiếng bố gọi mẹ
lúc lâm chung: “ Xoan ơi, nhục quá!” Rồi bố
chết, bố đem những uất nghẹn cùng những điều
không làm được về thế giới bên kia, bố để
lại thế giới này cái hận thù dai dẳng cho
con đeo mãi vào người trong niềm ân hận bất
lực.)
Tôi rung lên như lên cơn sốt:
- Cô còn có một người chị?
Ôi! một câu hỏi hớ hênh, rất không nghiệp vụ
và đầy tính định mệnh đã cứu người phụ
nữ. Tôi đã tự lột bỏ lốt áo người thẩm
vấn để lộ rõ cái nóng vội của một kẻ tử
thù, đang muốn ăn tươi nuốt sống đối phương.
( Còn người phụ nữ, tuy cô không có cái
bản lĩnh của Hiên, nhưng tính nhậy cảm và
nhanh nhạy của một người đàn bà đã thấy
rất rõ trong đôi mắt của người trưởng ban
tình báo kia loang loáng vẻ kỳ bí của một
thế giới đầy u uẩn. Vầng trán tái tím kia
như đang toát ra những làn tử khí hừng hực,
có bóng tử thần lấp ló.)
Cô lạnh toát người, Có một lực siêu nhiên
gì mách bảo cô phải nói to như một lời khẳng
định:
- Không, tôi không có một người chị nào cả!
Thiếu tá Mãng bước vào, chẳng biết ất giáp
gì, quát tôi:
- Lại đánh tù binh hả? Việt Cộng gì con dở
dở ương ương này, làm lệnh tha, tôi ký.
Ông vừa bước ra khỏi hầm vừa lầu bầu:
- Việc ngập đầu, đéo lo, lo ba cái con mẹ
điên điên khùng khùng.
Tôi tức uất người, tức vì cái nông cạn võ
biền của đồng đội mình, chống Cộng kiểu
ông ta chỉ là đánh võ vườn, Ông ta đánh giặc
bằng tâm tính của một nhà tu, với tính khí
của một cao bồi miền viễn tây nước Mỹ, và
lối hành sử mệnh lệnh của một công chức
HOUSTON 1978,
Tiếng súng ở bến đò Vệ, Hòa Bình ngày
ấy không giết chết Hiên, nhưng giết chết tâm
hồn của Hiên và Hậu. Đặc biệt với Hậu, do
sợ quá mà sau này có lúc cô không làm chủ
chính cô.
Xin tóm tắt, từ năm 1972. . .
Sau khi thả Hiên ra, sau khi An Lộc được giải
tỏa. Trung úy Nguyễn Văn Nam tiếp tục theo
dõi Hiên
. . .Quả đúng Hiên là em Hậu, giấy thế vì
khai sinh cho những người tản cư làm tại Tòa
hòa giải rộng quyền Hà Nội của Hiên với
tên mới là Thoa, Nguyễn Thị Kim Thoa. . .
. . .Thoa và Hậu di cư vào Nam cùng với lòng
căm thù Cộng Sản ngun ngút. Cô đi học tiếp
rồi ra trường thành giáo sư trường trung học
Hưng Đạo. Người chồng thứ nhất của Thoa, một
sĩ quan Đà Lạt chết trận Mậu Thân năm 1968,
để lại cho cô một bé trai kháu khỉnh. Lúc
hạ huyệt Thuận, cô ôm con khóc lặng trong mưa
phùn hiếm hoi của mùa xuân miền Nam. nét sầu
bi cô phụ ấy, đánh thức tâm hồn của người
đồng nghiệp kém cô 5 tuổi, vốn tu xuất
Cô và Thuấn lấy nhau, tình yêu chưa làm ấm
chăn gối vợ chồng thì Thuấn tử trận tại
chiến trường An lộc.
Tôi ( Người viết lại chuyện này), nghe tiếng
Nam bên kia đầu giây, giọng vui vẻ:
- Anh sẽ qua thăm chú?
- Sao anh bảo đến mùa hè sang năm anh chị mới
qua, gấp vậy?
- Không, anh cần qua. Anh đem cho chú thêm một
vài chi tiết và đoạn kết của câu chuyện chú
đang viết.
Tôi háo hức chờ Nam
Hôm gập Nam tại phi trường Houston sau bao nhiêu
năm xa cách. Tôi ôm Nam còn vợ tôi và vợ Nam
vồn vã hỏi thăm về nhau. Nam giới thiệu vợ:
- Đây là bà xã anh, chú có đoán được là
ai không nhỉ?
Người đàn bà có đôi mắt buồn rười rượi,
có giông bão còn đọng ở ánh mắt, đưa tay
ra:
- Nghe anh Nam nói nhiều về anh, tôi là Hiên,
là Thoa, là cừu thù một thời của nhà tôi
đấy.
Mùa đông Houston lạnh kinh người nhưng người
tôi cứ nóng bừng.
Đêm hôm ấy, Nam kể cho tôi nghe quãng đường
anh chị tìm nhau, anh tìm chị để trả thù,
còn Chúa lại dẫn chị tìm anh để nối lại
mối tình đầu.
- Còn Hậu bây giờ ra sao?
- “Cô tù binh” của anh năm xưa bây giờ gia thất
đề huề . Cũng tính sang thăm chú một chuyến
này, nhưng cuối cùng cô chú ấy lại đổi ý.
Nam kết luận:
- Quả nhiên có Chúa thật chú ạ. Không tin
không được. Cha Quỳnh dậy chí phải.
- Chú có nghe gì về cha?
Giọng Nam u uất:
- Ngay sau khi chiếm miền Nam, Việt Cộng tìm
ngay đến giáo xứ Bình An. Họ bắt cha giam
vào khám Chí Hòa. Tại phòng số 8, khu ED,
nơi chặng chót của bước đường thánh giá.
Cha đã uống xong chén đắng cuối cùng. . .
Nguyễn Trọng Hoàn
( Viết tại Phòng giam 8, khu ED 1991. Hoàn tất tại Mỹ 1997)
Người mang thánh giá - Nguyễn Trọng Hoàn
TÂY NINH 1972.
Viên
Thiếu tá Tiểu đoàn phó nài nỉ:
- Thưa Trung tá, một lần nữa xin Trung tá xem
xét lại tư cách Trưởng ban 2 của Trung úy
Nguyễn Xuân Nam.
Viên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/9 thuộc
Sư đoàn 5 nhỏ nhẹ:
- Từ ngày tôi về Tiểu đoàn này đến giờ,
tôi thấy đây là một sĩ quan rất có khả năng.
Lẽ ra, viên sĩ quan ban 2 này phải được bổ
nhậm ở những đơn vị có trách nhiệm lãnh
thổ như địa phương quân hay nghĩa quân thì hay
biết mấy, vì phải nhìn nhận rằng, tuy chúng
ta là đơn vị hành quân cơ động nhưng ông ta
sắp xếp các lưới tình báo rất chuyên nghiệp
và hữu hiệu.
Viên Thiếu tá Tiểu đoàn phó: Điều chính tôi
muốn trình Trung tá, không phải những điều
ấy, mà tôi xin phép nói thẳng, đây là một
sĩ quan vô kỷ luật, vô nhân đạo, đầy ắp máu
lạnh. . .
Viên Tiểu đoàn trưởng nhíu mày: Có thiên kiến
lắm không? tôi đang đọc một bản phúc trình
và một lá thư của Nam. . .
Bỗng viên Tiểu đoàn trưởng đặt tay lên vai
người cộng sự ăn chay trường có khuôn mặt
đen như củ tam thất, cặp mắt lúc nào cũng
như buồn ngủ dưới cặp lông mày đen, rậm rạp
trông giống ông Ác trong chùa, nhưng lại có
cái tâm nhân hậu như ông Bụt trong những chuyện
cổ tích. . .
- Cậu cứ đọc đi, chúng mình sẽ bàn lại vấn
đề này. . .
. . . . . . .
Bản Phúc trình:
Kính thưa Trung Tá.
Thi hành khẩu lệnh của Trung tá, tôi làm bản
phúc trình này để tường trình về hành động
đối xử của tôi với tù binh Bắc Việt, do gợi
ý của Thiếu tá Tiểu đoàn phó và để Trung
tá hiểu rõ hơn cách làm việc của tôi, tôi
xin lần lượt phúc trình các vụ việc cụ thể
trong thời gian trước đây một năm ( Trong đó
có thời gian Trung tá chưa về làm Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn này)
- Ngày 23 tháng 1 năm 1971 Tiểu đoàn hành quân
trong khu vực XT ,bên kia sông Vàm Cỏ thuộc
quận Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa. Đơn vị đụng
địch tại ấp Bà Ràng, tôi đã đánh trọng thương
một tù binh thuộc Tiểu đoàn cơ động tỉnh
Long An. Khi giải giao tù binh này cho chi khu
Đức Huệ, chi khu này không nhận, lấy lý do
tù binh này bị đánh quá nhiều, tôi đã bị
Trung tá Nguyễn Văn Nhung, Tiểu đoàn trưởng
tiền nhiệm khiển trách nặng nề.
- Ngày 2 tháng 6 năm 1971 Tiểu đoàn đụng địch
tại vùng Lưỡi Câu, biên giới Việt Miên, đơn
vị ta bắt được hai cán bộ kinh tài thuộc
hậu cần cục R, trong đó có một là nữ. Trong
lúc khai thác chiến trường, tôi có ra lệnh
lột quần áo của người nữ này để y thị sợ
mà phải khai. Tôi đã bị Trung tá Nhung đề
nghị phạt 10 trọng cấm xin gia tăng tối đa.
- Ngày 1 tháng 2 năm 1972. Trong thời gian Tiểu
đoàn bị vây hãm tại An Lộc. Toán thám báo
giao nộp một phụ nữ cảm tình viên Cộng Sản.
Tôi đã sắp thành công trong việc tra cung người
phụ nữ này, thì tôi bị Thiếu tá Dương Kim
Mãng, Tiểu đoàn phó khiển trách và buộc
ngưng cuộc điều tra, Thiếu tá cho rằng đây
là một người đàn bà điên. Riêng tôi đoan chắc
với cấp trên y thị không có triệu chúng gì
về bệnh tâm thần cả. Y thị là tiền sát viên
Cộng sản? Y thị là mật báo viên? Với sắc
đẹp và sự khôn khéo ấy, y thị là cả trăm
câu hỏi đối với một sĩ quan ban 2 chuyên nghiệp
như tôi.
Kính trình Trung tá thẩm tường.
Trung úy Nguyễn Xuân Nam.
Sau đây là một thư riêng tôi xin gửi đến Trung
tá như một lời tâm sự riêng với mục đích
duy nhất để Trung tá hiểu rõ hơn một thuộc
cấp của Trung tá.
.NINH BÌNH 1951.
Quê tôi ở miền trung du Bắc Việt, nơi thể
nghiệm đầu tiên của cuộc cải cách ruộng đất.
. .
Thật khủng khiếp, ngỡ ngàng và bi thảm, nó
làm đảo lộn bao tập quán và trật tự xã
hội mang tính truyền thống đã có từ bao lâu
đời. Nhũng dồn nén, mặc cảm tự ti, xu thế
muốn thay đổi và lối sống quá quắt của giai
cấp địa chủ phong kiến đã bùng dậy, Lúc
đầu lôi kéo được tuyệt đại dân chúng nghèo
đói nhưng rồi như bao nhiêu cuộc cách mạng
khác trên thế giới, nó lao vào cái quá đà,và
sau đó rơi vào tay một thiểu số, mà cái rực
rỡ của buổi bình minh cách mạng, tạo cho
họ cái ảo tưởng là, họ đang độc quyền chân
lý, biến cách mạng đang trên đà thành công
thành một trào lưu tự cô lập mình và xa rời
các sự kiện thực tế, đưa cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân mang đầy tính tình
tự dân tộc thành xu thế vọng ngoại, đầy ắp
tính giáo điều. Thay vì đáp ứng đúng vào
khát vọng và lòng yêu nước cùng những hy
sinh vô bờ bến thì nó lại quay lưng, hòa nhập
vào cái bóng đen khổng lồ của một thứ chủ
nghĩa xã hội kiểu Mao với tất cả bản chất
sắt máu, quá khích và tả khuynh triệt để.
. .
Nó xa lạ hoàn toàn với bản chất khoan hòa
nhân ái của người Việt nam, và cứ cái đà
ấy nó biến và đưa chủ nghĩa Mác không còn
là một khoa học tích cực, một học thuyết
về thực tại, và thật đáng tiếc, nó không
còn được nhìn như một loại triết học về
thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản
nữa.
Trong bối cảnh ấy, gia đình tôi tan nát, ông
bà nội tôi bị đấu tố chết, cha mẹ tôi không
kịp chôn cất người thân của mình, vội vã
ôm chúng tôi xuống tị nạn tại một tỉnh ven
biển, một khu Công giáo tự trị, giáo phận
Bùi Chu Phát Diệm. . .
Hai giáo khu này có lực lượng vũ trang riêng
do quân đội Pháp huấn luyện và trang bị võ
khí.
Ở đây thế lực của các tăng lữ vượt ra khỏi
phạm vi của nhà thờ, các cha xứ đã biến
cả một vùng trù phú ấy thành những giáo
khu kiểu trại lính với kỷ luật sắt, nửa
quân đội, nửa thần quyền. Mỗi giáo dân là
một chiến sĩ, mỗi giáo phận là một pháo
đài chống lại Cộng sản. Đây là gíao khu toàn
tòng.
Lúc đầu mới đặt chân lên vùng đất thánh này,
tôi lơ mơ không hiểu lý do gì đã dẫn đến thái
độ quá khích của cả hai bên ( Công giáo và
Cộng Sản) đối với nhau. Họ quên mất cả chính
sách, quên mất cả bản chất tôn giáo và chủ
nghĩa để tàn sát và giết hại lẫn nhau không
một chút nương tay.
Máu loang đỏ nghị quyết, Chúa ngỡ ngàng trên
các Thánh chương.
Tôi quen dần với không khí chống Cộng ngùn
ngụt ấy.Tôi quen dần với hình ảnh ông cố
đạo người Bỉ, cứ sáng sáng đi chậm chạp
dưới dốc cầu Trì Chính, ông như một nhà sư
khất thực, đôi mắt dịu dàng, có hàm râu trông
như râu của Chúa Jesus, trông ông thoát tục
và thân thiết.
Tôi cũng say mê dáng cao cao, lối nói quảng
bác, cái chóp đỏ và những bài giảng khúc
triết, mang tính thời sự nhiều hơn giáo huấn
của Đức Giám mục Lê Hữu Từ. . .
Tôi quen dần với những tiếng hô “ sát sát”
trong những buổi tập diễn của các chiến sĩ
tự vệ áo đen. Tôi cũng tò mò và ngạc nhiên
khi chứng kiến những buổi lễ làm “ Chết phép
lành” của cha Hoàng Quỳnh dành cho đội Vệ
sĩ cảm tử tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc.
Cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi từ hôm cha
Hoàng Quỳnh đến thăm bố tôi.. .
Cha ngạc nhiên nhìn thấy quyển Thánh kinh đang
mở trên bàn. Cha hỏi:
- Nhà cháu ai đọc sách này thế?
- Thưa, cháu.
- Cháu đọc kỹ chưa?
- Thưa, cháu đọc mới được có vài lần.
- Cháu bên Phật, cháu cũng tin có Đức Chúa
Trời?.
- Thân trình cha, xin cho cháu nói với tất
cả tâm ý của cháu.
- Con cứ nói ta nghe.
- Cháu đọc Thánh kinh để tìm nội dung, tìm
bước chân tương lai của con người, chứ không
tìm niềm tin cha ạ.
Cha Quỳnh có vẻ bối rối;
- Thế con có tin cuốn sách này được viết
ra bằng sự dẫn dắt kỳ diệu của Thượng đế
hay không?.
Tôi không trả lời câu hỏi của cha, tôi nói:
- Con không nghĩ là cuốn sách này là truyện
tích kéo dài lâu đời về loài người trong
quá trình vươn lên tìm kiếm Đức Chúa Trời
không, con không dám tin như vậy. Có điều con
cứ thắc mắc mãi, về việc sách ghi chép những
bước từng trải của loài người vươn lên tìm
Đức Chúa Trời và lần lần cải tiến ý niệm
về Đức Chúa theo kinh nghiệm của những thế
hệ trước.
Trong rất nhiều đoạn của Thánh kinh có chép
rằng Đức Chúa Trời phán. Con nghĩ Đức Chúa
Trời thực ra không nói như thế đâu, người ta
phát biểu tư tưởng của mình bằng ngôn ngữ
tự nhận là của Đức Chúa Trời, chớ thật
ra chỉ là những điều người ta tưởng về Đức
Chúa Trời mà thôi.
Cha Hoàng Quỳnh quả vừa bản lĩnh vừa nhân
hậu, cha thoáng tím mặt rồi vừa xua tay vừa
nói:
- Đừng, đừng con, lậy Chúa Jesus, Đức Maria
xin cứu chuộc một trí khôn lầm lạc. Đấy đọc
Kinh thánh mà không có niềm tin nó tác hại
như thế đấy, càng nguy hiểm hơn nếu con không
đọc tới nơi tới chốn. Không, không phải như
con trẻ và bọn duy lý nói vậy đâu. Đấy là
những hoang tưởng, những ngụy tín, kéo Kinh
thánh xuống ngang hàng với những sách khác.
. .Con hãy nghe ta nói đây:
- Kinh thánh là sách chép Đức Chúa trời tự
khải thị cho loài người để dậy dỗ và dẫn
dắt họ trên Đường Sự Sống. Đấy, chỉ có một
chân lý nhất quán như thế thôi.
Cha để tay lên vai tôi, tự nhiên tôi rùng mình:
- Thế con đã tìm được gì trong Thánh kinh
nào?
- Thân trình cha, con đã đọc khá nhiều sách
trong thư viện giáo xứ, thì quả Kinh thánh
là tài sản quý giá hơn hết của loài người.
Nó đạt được đủ hai yếu tố mà chưa có một
quyển sách nào có được là phổ quát và vĩnh
cửu. Nó không còn là của nhà thờ, của Công
giáo nữa. Nó là vốn sống của thế gian, túi
khôn của loài người. Nó có xuất có xử. Có
tồn có dụng. Nó không dừng lại ở việc chỉ
khuyên người ta tránh dữ làm lành mà bao quát
cả những điều thánh thiện và dung tục.
Chỉ tiếc có một điều: Thân trình cha, con
nghĩ cuốn sách được viết ra không phải cho
người cùng khổ đang khao khát hướng về Chúa
vì nó khó đọc quá cha ạ! Nhiều ẩn ngữ quá,
nhiều câu người đọc như đứng trước ngã ba
đường. Nó gần giống như những câu chân chân
giả giả trong bí kíp võ đạo vậy, mà người
đọc, hiểu hoặc được mặc khải thì rất hiếm.
Còn như coi đó là công việc duy nhất ở trên
tòa giảng để giải bầy và truyền dạy thì
con xin cha tha tội, con thấy như vẽ rắn thêm
chân, đẩy Thượng đế đi xa hơn vào vùng sương
mù huyền bí. . .Từ Kinh thánh tới niềm tin,
đến được mặc khải rồi hành động, một quá
trình tuy đơn giản bằng phẳng nhưng có một
cái gì lấp ló bàn tay con người. . .
Cha lắng nghe, đôi mắt loáng vẻ kỳ dị. Cũng
may vừa lúc ấy bố tôi về đến.
Cha kéo bố tôi ra ngoài vườn sau. Hai người
ngồi ngoài đó nói chuyện rất lâu. Lúc tôi
mang nồi nước sôi ra châm thêm vào bình trà.
Tiếng nói chuyện ngừng bặt, thấy tôi chần
chờ muốn nghe lóm, cha chỉ tôi:
- Năm nay nó bao nhiêu tuổi?
Bố tôi nói:
- Mười chín rồi đấy.
Tôi ngạc nhiên, sao bố tôi lại tăng tuổi tôi
lên nhiều như vậy.
Cha nói:
- Thanh niên bây giờ khôn trước tuổi, biết đọc
và suy nghĩ Phúc âm, tuy non nớt, không căn
bản nhưng xem ra còn hơn chúng ta ngày xưa rất
nhiều, ngày xưa ông nhớ không, bọn mình ngu
ngơ tồng ngồng. . .
Tôi liếc bố tôi, chiều nay lại uống ở đâu
rồi. . .
Như không có tôi, bố tôi cười khà khà:
- Có lần tôi dẫn ông chui qua bờ ao nhà bà
Đông, ông còn nhớ không? Gai tre cào xước cả
lưng, ông hỏi: “ Đi đâu vậy?” Tôi đưa tay lên
miệng: “Suỵt! Đi xem chim!” Ông ngây thơ: “Chim
gì mà ở dưới đất vậy?”. Tôi kéo tay ông rồi
cứ thế mà bò, qua lùm nhót, tôi chỉ xuống
cầu ao, ông nhìn trân trân đỏ mặt rồi lùi
dần, tôi còn tham, nấn ná. . . “ Đồ đạo đức
giả, trên đời không có thú gì bằng nhìn trộm
đàn bà con gái tắm truồng”. Mà tôi cũng không
ngờ sao ông lại ác thế, tôi đang say xưa, bỗng
nghe thấy ông la bên lùm tre: “ Coi chừng thằng
Mạnh nó đang nhìn trộm đấy!” Hai hòn giái
tôi nó chạy tót lên đầu. Mặt tôi lãnh đủ
những nắm bùn của cái Thắm, cái Tỵ. Tôi
xấu hổ chui ra “ Ông thụi bỏ mẹ mày! Đồ.
. .” Bỗng tôi sáng con mắt lên: “ Mả bố mày
đây rồi”. Cái thánh giá to tướng, ông vẫn
đeo ở cổ, lúc nãy khi ông chui ra, còn toòng
teeng trên đốt tre. Tôi run lên với cảm giác
thú vật rồi hiên ngang trở lại cái cầu ao,
lần này thì đếch phải bò nữa.
Cái Thắm, cái Tỵ đã mặc xong quần áo. Tôi
huơ huơ cây Thánh giá rồi ném về phía chúng
nó. Tôi quát to để cho ông ở bên kia hàng rào
tre nghe thấy:
- Cả cái thằng này cũng nhòm hĩm của chúng
mày đây này!
Kể đến đây bố tôi cười sằng sặc. Cha Quỳnh
cũng cười hồn nhiên. Tiếng cười của cha trong
veo.
Cha về rồi mà bố tôi vẫn ngồi một mình
như một pho tượng. Từ ngày mẹ tôi mất, bố
con tôi dồn tình thương cho nhau
- Bố nghĩ gì vậy bố?
- Con ngồi xuống đây, bố có một việc nói
với con.
- Việc gì vậy bố?
- Cha Tổng Chỉ huy Tổng bộ tự vệ vừa xin
bố để cho con đi theo cha Tổng.
- Sao lạ vậy bố, nhà mình đạo Phật lại không
có đức tin, vả lại để lại bố sống quạnh
quẽ một mình, làm sao con đi cho đành..
- Bố chỉ lo sự xa cách của cha con mình, còn
những điều con nêu trên không cần, tình thế
đến mức này, đâu còn phân biệt lương giáo
nữa, mà cùng một mặt trận con ạ! Mặt trận
bên này và bên kia. bên ta và bên địch. Nhà
tràng Phúc Nhạc không cung cấp đủ cán bộ.
Việt Minh đang thắng thế, Giáo hội đang ở
chân tường. Lớp cán bộ mới không cần trang
bị bằng thần học nữa mà chỉ cần lòng căm
thù, ý chí chiến đấu một mất một còn.
- Đành rằng Việt minh thì vô thần, quả là
họ không có tín ngưỡng thật đấy, nhưng con
thấy họ không làm hại đến người lành.
Bố tôi quắc mắt:
- Thế ông bà nội con là những người ác hay
sao?
- Con xin lỗi bố. nhưng con chỉ thắc mắc mình
và họ không thỏa hiệp được hay sao? . . .Đạo
với Đời, việc ai nấy làm!
- Không chung sống với nhau được đâu con ạ,
cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng. Chống
lại thì hoặc thua hoặc có cơ may thắng, còn
thỏa hiệp thì không bị diệt ngay những tan
vỡ từ từ ( bố tôi bắt đầu tái mặt) Con nên
nhớ, sách lược muôn thuở của Cộng sản là:
Liên kết với kẻ thù phụ để đánh kẻ thù
chính, cứ thế như tầm ăn lá, từ từ diệt
tất. . .
Bố tôi ôm đầu:
- Cháy nhà mới ra mặt chuột, bọn Việt Nam
Quốc Dân Đảng chỉ là thứ thùng rỗng kêu to.
- Con thấy thày Thích Tâm Châu vẫn đi lại với
giáo xứ ?
- Thì cũng chỉ được có mỗi ông sư này, còn
tất cả chỉ toàn là bọn già giái non hột
( bố tôi dằn từng tiếng) Bố thấy chỉ có
người Công giáo mới có khả năng chống Cộng,
còn thì vất đi tất.
- Thế tại sao mình phải nhẩy vào cái vòng
tranh chấp của họ?
- Không đứng ngoài được đâu con ạ, Giáo hội
đã đùm bọc mình trong những khi thất cơ lỡ
vận, gia tộc ta mang nặng một mối thù, ông
bà nội con bị đấu tố chết. lẽ nào bây giờ
mình không đóng góp. Phải sòng phẳng con ạ.
. .
Bố tôi khóc, đây là lần thứ hai tôi thấy bố
tôi khóc, lần đầu là lúc hạ huyệt mẹ tôi.
. .
- Thôi con hiểu rồi, con xin nghe bố, cái sợ
của con là bố phải sống một mình, từ nay
không có con bên cạnh, bố đừng uống rượu nữa
nghe bố.
Rồi tôi cũng khóc, bố tôi lau nước mắt rồi
cười vang lên như một người điên. Âm thanh vùa
ma quái, vừa thỏa thuê, những uất nghẹn như
bật ra từ lâu lắm rồi. Đôi mắt của bố tôi
lóe lên những tia hừng hực như đốm lửa âm
ỉ lâu ngày, gặp gió cháy bùng
Tôi đi theo cha Hoàng Quỳnh và làm thư ký
riêng cho cha từ ngày ấy. . .
Hôm đến văn phòng Tổng Bộ tự vệ nhận việc,
cha dặn tôi:
- Cha chỉ yêu cầu một điều, nếu các cha bề
trên có hỏi thì con trả lời : con có đạo
nhé!
Tôi tự ái : Sao cha không lấy người trong đạo
giúp việc cho cha, con ngoại đạo ngộ lỡ có
chuyện gì mang tiếng cho cha
Cha Quỳnh xua tay:
- Đừng khí khái hảo! Cha chúa ghét cái bọn
con chiên nịnh hót, làm hư các cha không ai
khác là con chiên của mình
“ Cha Quỳnh không phải là loại cha răng đen,
thuốc lào, thịt chó”. Càng ở gần cha, tôi
càng nghĩ như vậy, cha không hiểu rộng nhưng
biết nhiều , biết đủ thứ chuyện, cả việc
đạo lẫn chuyện đời, tính tình cha có đôi
lúc bất thường. Cha không hợp với các cha
già bảo thủ, cha căm ghét việc các cha đánh
con chiên, cha gay gắt phê phán việc đem chuyện
gia đình ra bêu rếu tại nhà thờ. Cha thích
bỡn cợt với các cha trẻ cấp tiến “họ ăn
nói báng bổ thật nhưng niềm tin của họ thì
có cơ sở rất cao, tương lai của giáo hội ở
trong tay của các vị ấy đấy!”
Có lần cha nghe ai phàn nàn về việc cha già
Thiên dùng roi xua con chiên đi lễ ,cha tím mặt:
- Tại các ông, các bà đấy, cứ nịnh cha lắm
vào, cái gì cha cũng nhất, cứ bơm riết rồi
cha nào cũng thành Đức Chúa Trời cả thôi.
Đấy là đối với việc đạo, tôi cũng được
kề cận bên cha những lần ra Hà Nội, ra Huế
gặp Cao ủy Pháp, gặp Thủ hiến Bắc Việt,
gặp cả Quốc truởng Bảo Đại, những lần gặp
gỡ như vậy cha dung dị, tự tin, tôn trọng đối
tượng. Duy có lần gặp Bảo Đại – cha bước
ra, mặt buồn buồn, cha bảo:
- Người Nhật thật may mắn có Minh Trị Thiên
Hoàng! còn mình ...Ôi! bất hạnh quá! Một
quái thai chính trị !
Cha nhổ toẹt trên thềm dinh rồi nắm tay tôi
chạy như ma đuổi
Mấy ngày sau, tôi gặp cha ỏ nhà chung Phát
Diệm, cha vẫn còn buồn, cha kéo tôi vào phòng,
cha ngồi trầm ngâm, dư âm cái lần gặp Đức
vua vẫn còn cấu xé cha...
- Cậu nhìn xem cái phòng này có gì đặc biệt
?
Tôi nhìn quanh quất, chẳng thấy gì, lắc đầu.
Cha đẩy một cái ghế dài. . .Một khung cửa
vừa đủ cho một người, bên kia là cái phòng
tối om .
- Đấy! năm 1946 có hai anh em nhà họ Ngô Đình
chạy từ Hà Nội vào, Giáo hội hào hiệp đưa
tay ra đón, chính tôi đã sai Lê Quang Luật đưa
Nhu qua Lào, tương lai đất nước phải có những
tay như thế...
Cha lại trầm ngâm: Tiếc rằng bây giờ sự đấu
tranh giữa các chủ thuyết còn quá gay gắt,
chủ nghĩa Mác tuy làm chủ bản thân nó còn
quá kém, chưa đến mức là một khoa học. Tuy
vấn đề con người luôn luôn được Mác rao giảng,
nhưng trong Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản, Mác
đã định nghĩa con người là sự tổng hòa các
quan hệ xã hội. Nói một đàng làm một nẻo,
khi viết những nguyên lý về duy vật lịch sử
thì Mác lại cố tình lờ luôn yếu tố con người
mà chỉ xoáy vào vấn đề giai cấp, lấy cớ
rằng con người đã tham gia vào đủ mọi việc,
đã có mặt trong các nguyên lý cơ bản về chính
trị, kinh tế, văn hóa rồi.
Thế nhưng, học thuyết của Mác, không phải
là không có sức hấp dẫn, không phải là không
có tính thực dụng, nó biết gom góp các kẽ
hở của duy tâm để bổ túc cho duy vật. Tuy
vậy nó quá độc tài, nó quá thiên về con
người tập thể để quên mất con người cá nhân,
đòi hỏi quá đáng về sự hy sinh bản thân.
Nó được tô vuốt ở phương Tây nhưng lại bị
hiếp dâm ở phương Đông.
Những vụ thanh trừng đẫm máu ở Diên An, Tứ
Xuyên, Thượng Hải đang biến những cái nhìn
ban đầu về Mác thành cái nhìn xót xa hoảng
sợ.
Còn chủ nghĩa tư bản ư? Tuy cái tiên đoán
về chủ nghĩa này đã có nhiều dấu hiệu cho
thấy Mác đã sai lầm nhưng nó vẫn bị tai tiếng
về bản chất bóc lột của nó. Khác hẳn với
Mác, nó lại duy cá nhân và đánh mất cái
tập thể. Khi trở thành đế quốc thì nó lại
quá độc ác.
Qua nhiều đêm nói chuyện với Nhu. . . Cha thấy
cái học thuyết của ông ta đang thai nghén quả
có thể dung hòa được cái tích cực và tiêu
cực của hai lưỡng cực đối kháng này. Chỉ
tiếc một điều. Tớ là thày tu, tớ phải cay
đắng nhận thấy rằng: Cái đầu của anh chàng
này có pha tôn giáo. Tránh kỵ triết học chính
trị có pha tôn giáo, nó giống như vá áo không
cùng màu vải. Nó biến học thuyết thành hoang
tưởng hỗn tạp.
Cha lẫm bẩm: Cần nhất là phải biết làm chủ
được những lý thuyết cơ bản.
Tôi nhìn cha: Đôi lông mày đậm dầy này. .
.Vầng trán có những vết nhăn trăn trở này..
. Cặp mắt và vành môi khát vọng kia, đâu chỉ
dừng lại ở bộ áo thày tu: Đen hay đỏ? Cái
đầu thông bác kia chỉ ép xác trong cái cổng
kín bưng của tu viện, sao không ở chỗ khác
kìa?
Tôi sống với cha Quỳnh như vậy đã gần được
hai năm
Quan hệ giữa tôi và cha có cái nhập nhằng dễ thương làm sao! Có lúc thì như cha con. Có lúc như thày trò. Có lúc như đồng đội. Có lúc như bạn bè. Có ai hứng chí lấn lướt một chút, thì người kia cũng chẳng phật lòng, chẳng sợ mất mặt, chẳng sợ phạm thượng.
Cho đến một hôm tôi đang đọc sách trong thư
viện giáo xứ thì có cậu bé giúp việc cho
cha tìm tôi:
- Thày về gấp, cha Tổng đang chờ.
( Như tôi nói ở trên, tôi đạo Phật, cha dặn
dấu không cho ai biết, nên ai cũng tưởng tôi
là thày Bốn, thày Năm bên Tiểu chủng viện
biệt phái qua giúp việc cho cha)
Về đến văn phòng, không thấy cha tôi đi thẳng
xuống nhà riêng. Cha vẫy tay:
- Vào đây, vào đây thụ lộc!
“Lộc” là quà ngon vật lạ, con chiên quý cha
thường đem biếu, một dĩa thịt luộc đầy ắp,
một dĩa lòng, một tô nhựa mận và một chai
rượu nếp cẩm.
Tôi xuýt xoa;
- Chà, mưa dầm gió bấc thế này mà chén thịt
chó thì chỉ có sướng mà chết thôi!.
Cha cười:
- Vào đi, vào đi kẻo lạnh
An tọa tôi lại xuýt xoa:
- Bố con nói đùa, cái thú nhất là nhìn trộm
đàn bà con gái tắm truồng, nhưng theo con thì
chẳng có gì thú bằng chén thịt chó. Hay
thịt chó và đàn bà có cái gì gắn bó đến
ngũ dục của đàn ông, cha nhỉ?
Cha Quỳng cười thoải mái:
- Bố cậu hôm trước không kể hết cái chuyện
ngày xưa ấy. . .
Cha vừa nhấm nháp vừa kể:
. . .Sau khi bố cậu chơi khăm tớ. Cái Tỵ, cái
Thắm cầm cái thánh giá về ngay nhà tớ. Ôi!
Ôi! Lậy Chúa tôi, tớ bị một trận đòn thừa
sống thiếu chết và ngay ngày hôm sau tớ bị
gửi vào nhà dòng
Cha cười sảng khoái:
- Ấy nhờ thế mà thành cha đấy!
Khi chai nếp cẩm đã gần hết, Bỗng cha hỏi
tôi:
- Tớ hỏi thật nhé, cậu có biết đàn bà là
gì không?
- Thưa cha, cứ như Kinh thánh. . .
Cha xua tay:
- Đừng, đừng múa rìu qua mắt thợ, đừng lấy
Kinh thánh ra để hù dọa tớ, tớ hỏi thật
đấy, tớ muốn biết thêm về một chút đời thường.
. .
- Thế thì thưa cha, cứ như những người đi trước,
từng có “ Nợ máu” với cánh đàn bà thì con
thấy, quả Thiên Chúa đã sáng suốt khi không
sáng tạo người nữ từ cái đầu của người
nam để nàng lấn lướt, cai trị chàng. Nhưng
quả Chúa cũng chưa am tường nhân thế khi lấy
người nữ từ cái xương sườn của người nam,
chỗ ấy rất gần con tim khiến đàn ông cứ mê
muội, cứ say đắm vào những cái phù phiếm
mà đau khổ nhiều hơn hạnh phúc. Như bố con
ấy, cái hôm mẹ con mất bố con khóc như con
trâu rống. . .
Cha Quỳnh cười:
- Thế thì theo cậu phải tạo người nữ từ
phần nào của người nam?
- Phải tạo từ đôi chân để họ mãi mãi làm
nô lệ cho đàn ông!
Cha xua tay:
- Không được đâu, không được đâu, này tớ không
đùa đâu đấy, cậu phải lấy vợ đi. Cây có cây
đực cây cái. Người có âm có dương thì mới
hanh thông được, còn như bọn thày tu chúng
tớ, có sáng suốt, có uyên bác thật đấy nhưng
vẫn có cái gì lệch lạc, nghiêng ngả, mất
thăng bằng. Lúc nào cũng như bị dị ứng, tức
như bò đá. . .
Tôi xum xoe:
- Con hỏi thực xin cha đừng giận:
- Hỏi đi, sao tự dưng lại khách sáo thế?
- Tại vì đây là những điều khó nói, con nghĩ
đàn ông cả với nhau mới dám hỏi cha: Cha có
bao giờ bị dục tình thôi thúc không ạ?
- Câu hỏi hay, quả là khó nói đấy, nhưng tớ
với cậu, mình cùng cánh đàn ông với nhau
tớ phải nói thật: Ghê Lắm. khủng khiếp lắm
. . .Từ cái ngày nhìn thấy cái Thắm , cái
Tỵ, tớ cứ bị ám ảnh hoài, những bữa trưa
hè, những đêm đông, nhất là về ban đêm, có
một cái gì bứt rứt xôn xao. Có một cái gì
nó cứ chạy rần rật trong từng thớ thịt,
hai má thì cứ nóng ran. Phía trên đầu thì
vang váng. Phía dưới thì căng cứng, các tế
bào cứ như bị tê dại hẳn đi. Hơi thở của
mình như không thể điều khiển được nữa, cứ
như có ai gãi ở các đầu ngón chân ấy.
- Thế thì cha chịu trận à?
- Mình cởi quần áo ngoài ra, mặc mỗi cái
quần đùi. Đêm miền biển lạnh giá là vậy
mà mình cứ thế mà chạy, quay lại bể nước
xối ào ào rồi lại chạy tiếp, lại xối nước.
. .Về nằm, ngủ được thì không sao, không ngủ
được thì đâu lại vào đấy. . .Có khi mình
mặc áo lễ vào, lên nhà thờ quỳ xin Chúa
toàn năng cho êm ả tâm hồn, cho thanh khiết
đẩy đi mọi cám dỗ. Nhưng đến là quỷ! Khi
nhìn thấy tượng thánh, thì tớ lại nhớ ra
khuôn mặt cái Tỵ! Chúa ơi! Sao mặt con bé
giống Đức Mẹ như hai giọt nước. Rồi tớ lại
nghĩ bậy bạ, thân thể thì cứ rã rời, tâm
hồn thì hoang mạc như một bãi chiến trường
vừa mới qua cơn binh lửa. Cái mặc cảm ấy
nó cứ ray rứt tớ như một bóng ma. . .Ghê sợ
lắm!
- Các thày chùa bên chúng con, họ chay tịnh
còn đỡ, các cha bên này, ăn uống không kiêng
khem, chịu sao nổi.
Cha bối rối, chợt như nhớ ra một điều gì,
cha nhìn tôi, nhíu mày:
- Này, tớ nghe đồn, cậu léng phéng với cái
cô Hiên gì đó của Hội con Đức Mẹ , bên giáo
xứ Kim Sơn phải không? Hình như cô ta có một
người anh thoát ly từ năm 45, 46 gì đó. Cẩn
thận, rất cẩn thận anh bạn trẻ nhé.
“ Cái cô Hiên gì đó” quả thực tôi có yêu,
có say mê, có tâm sự, thề thốt. . .
Một tháng sau, Hiên và người em út của cô
ta, không mộtlời từ biệt tôi, đã bỏ Giáo
khu trốn ra vùng Việt Minh.
Cha Quỳnh che chắn cho tôi hết lòng, tôi mới
không bị lôi ra ban An ninh của Tổng bộ.
Người ta đã không tìm ra ai là người làm nội
tuyến cho Việt Minh đánh đồn Yên Thổ, nhưng
người ta đã râm ran đồn đoán ai là người đã
để lọt ra ngoài các tin tức mật từ Tổng
bộ Tự vệ.
Tôi như người mất trí. tôi ngồi lắp ráp lại
những câu hỏi không đầu không đuôi của Hiên
và những câu trả lời hớ hênh của tôi, trong
những lần chúng tôi ngồi tâm sự với nhau.
Trong đôi mắt nhân hậu của Cha Tổng có thấp
thoáng sự thương hại và ngờ vực. . .Tôi không
còn được làm thư ký trong những phiên họp
của Tổng bộ nữa. . .
Tôi xin cha cho tôi được nghỉ việc. . .Cha nhận
lời.
Tôi thất thểu về nhà. . .
. . . Bố tôi ngồi bất động trên cái chõng
tre, giọng ông tắc nghẹn:
- Con không phải giải thích nữa, bố biết hết
cả rồi.
Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc hoài không ngủ được,
tôi nhớ đến cha Quỳnh. Tôi thương bố tôi. tôi
ghê tởm Hiên. Tôi ghê tởm tôi. Tôi đem những
kỷ vật Hiên đã có ý để lại cho tôi, như cái
khăn màu tím nàng hay quấn cổ, cái kẹp ba
lá, những lá thư hò hẹn, tôi đem những thứ
đó ném xuống sông.
Tôi như người lần đầu tiên đi đánh bạc gặp
ngay đứa cờ bạc bịp. . .
Bổng tôi nghe như có tiếng rên nho nhỏ của
Bố trong giường trong:
- Xoan ơi! Nhục quá! Xoan ơi! ( Xoan là tên mẹ
tôi)
Tôi cứ tưởng bố tôi nói mê.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy đun nước để bố
tôi pha trà. Chờ hoài không thấy bố dậy. Tôi
lên tiếng gọi, vẫn im lặng. Tôi nhẹ kéo chăn
ra. Máu trong miệng, mũi bố tôi đã khô đen,
hai con mắt trắng dã, trừng trừng. . .
Tôi cắn răng nhìn xác bố. . .“ Con khốn nạn,
mày là người đã làm tan nát đời tao, gia
đình tao” Tôi hét lên như một thằng điên:
- Trời ơi, Bố ơi! Thù này biết bao giờ mới
trả được hở trời?
Đám ma của bố tôi sầu thảm như đất trời
ngày hôm ấy. . .
Cha Quỳnh mặc thường phục. Đám ma đi dọc đường
phố Phát Diệm mưa phùn, trơn lạnh. . .Những
người đứng dọc hai bên đường nhìn quan tài
bố tôi thương xót. nhìn tôi khinh bỉ.
Tôi xin cha để dời Giáo xứ;
- Con về đâu ? Cha hỏi như khóc.
- Con phải đi lính. . .Chỉ có quân đội. . .
- Con nên vào Huế học trường Đập Đá ta chứng
nhận cho.
- Không con chỉ muốn làm lính, con muốn chính
tay con, chứ không phải qua lệnh của con.
Trong một cữ chỉ mà chính tôi cũng không thể
ngờ được. Tôi quỳ xuống chắp tay lậy cha:
- Thưa cha Linh hưởng. Con tuy ngoại đạo nhưng
như đã phó hồn xác trong tay Chúa, sự nhân
ái của Cha cả đời nằm nguyên vẹn trong trái
tim con. Xin cha giúp con cầu nguyện Chúa phán
xét công bằng.
Cha Quỳnh khóc. Tôi khóc. . .
CĂN CỨ SUỐI MƯƠNG, HÒA BÌNH NĂM 1952
Hai chị em Hiên bỏ Phát Diệm vào một buổi sáng tinh mơ.
Hiên ngoái lại rất lâu nhìn một lần cuối
cái dốc cầu Trì Chính. Những dấu chân hẹn
hò của cô và Nam như còn chập chờn, bồng
bềnh trong sương mù của buổi sáng hôm ấy.
Khi chiếc thuyền nan xuôi dòng về hướng Thượng
Kiệm, tim cô nhói lên khi nhìn thấy tháp chuông
giáo đường vươn cao lên trên những ngọn cau
già, nước mắt cô trào ra, trong hơi nước ngầy
ngậy ngái ngủ, cô ngửi thấy cả đến mùi hoa
hoàng lan quấn quýt lấy hương vị tình yêu
đầu đời, từ những hàng cây dọc lối vào nhà
xứ.
Cô đến Nho Quan, Tân Lạc rồi vào Hòa Bình.
Hai chị em Hiên tìm đến căn cứ Suối Mương.
Anh vệ quốc cảnh vệ dẫn hai chị em đến giới
thiệu với một chính trị viên.
Hậu nói như khoe:
- Hai chúng tôi là em ruột của Chính ủy Hải
Ninh.
Viên cán bộ mặt lạnh tanh:
- Đồng chí Hải Ninh đả bị hạ tầng công tác
và đang thời gian quản chế. . .
Hai chị em Hiên đứng không muốn vững, bám vào
nhau:
- Anh tôi có tội gì chứ?
- Tôi không biết.
- Chúng tôi có được phép gập anh tôi không?
- Theo tôi hai cô không nên gập anh ấy lúc này,
hãy để cho anh ta tập trung tư tưởng để tự
đánh giá mình. Mọi quan hệ với anh ta chỉ
làm vấn đề thêm phức tạp
“Mình về đâu bây giờ?”. Câu hỏi ấy cứ oằn
lên vai Hiên trên con đường từ căn cứ ra Thạch
Thất.
Đến bến đò Tân Vệ, Hậu nói như rên:
- Chị ơi, em mỏi chân lắm rồi, hai bàn chân
giộp hết rồi.
Hiên nhìn em thương hại. Cánh đồng Sằn vắng
vẻ, còn bờ sông không bóng một con đò. Hiên
như được linh tính mách bảo là ban an ninh
căn cứ đang theo dõi bước chân hai chị em cô.
Sau đây là những mẫu đối thoại không đầu
không đuôi của hai cô con gái, lần đầu tiên
ra đời để đi làm cách mạng
Hậu nói:
- Cứ như anh thợ săn đầu mùa, gập ngay viên
đạn thối!
Hiên nói: Chị đã bảo ở nhà mà không nghe.
Anh Ninh nhắn có mình chị.
Hậu nói: Em không muốn xa chị, em chán cái
không khí xóm đạo nhà mình lắm rồi. Em sợ,
sợ kinh khủng. . .Trời mưa dầm, gió bấc, tiếng
cầu kinh ê, a. .
Hiên nheo mắt:
- Có sợ thày Bốn không đấy!
- Sợ luôn, em chúa là ghét thứ đã đi tu mà
còn tình. Tu tiếc gì cái ông ấy. Chị biết
không, ông ấy bảo em: Kỳ lễ Đức Mẹ Lên Trời
này, ông ấy trình cha xứ cho em ngồi xe hoa
làm Đức Mẹ. Em hỏi: “ Sao thày không chọn
chị Hiên ?” Thày nói: “ Đâu phải ai muốn làm
Đức Mẹ cũng được, phải ngoan này, phải còn
trinh này. . .” Em hỏi: “ Thế cái đêm Giáng
sinh, sau hang đá, thày cầm tay em, thày sờ
ngực em, vậy em còn trinh không?” Thày nói:
“ Nói nhỏ chứ, đừng có nói với chị Hiên
em nghe. Mà chị Hiên em cũng ghê lắm. Mê thày
Nam như điếu đổ, ngày nào cũng qua Tổng bộ,
Còn ngủ lại đêm bên ấy nữa chứ”. Rồi thày
nheo mắt: “ Chị em đâu có làm Đức Mẹ được,
mất trinh rồi”
Chị này, cái đêm chị qua Phát Diệm, chị ngủ
với anh Nam hả chị? Mất trinh hôm ấy hả? như
vậy chị em mình cùng mất trinh cả rồi còn
gì ( Hiên cười khúc khích) em vẫn tưởng trinh
tiết là cái gì phải kiên cố lắm, khó khăn
lắm, dư luận lắm chứ đâu có nhẹ nhàng, mỏng
tanh, mất còn không biết ( cả hai chị em cười
khúc khích)
Hậu lại hỏi:
- Kháng chiến là gì? Cách mạng là gì hả
chị?
Hiên trầm ngâm giây lát, cô nhớ ngay đến Hải
Ninh:
- Thì cứ như chơi đồ hàng ấy thôi, nhưng nhân
rộng ra, lớn ra, cái gì cũng thật, cái gì
cũng giả: Đánh nhau thật, căm thù thật, đấu
đá thật, hạ tầng công tác thật, chết thật.
Nhưng khen thì giả. . .
Hiên lại nhớ đến Nam, đến cái bẽ bàng của
Hải Ninh. cô nhớ đến lời chị Bổng:
- Còn Cách mạng ư? Trong lý thuyết thì lãng
mạn. Ngoài thực tế thì trần truồng. Trông
xa thì như một cô gái trinh trắng đài các.
Chạm vào thì mới biết đó là một con đĩ
toang hoác.
Hậu hỏi: Người trong giáo xứ đồn rằng, trong
trận đánh đồn Yên Thổ, có tin tức chị lấy
của Tổng bộ qua anh Nam phải không?
Hiên bừng lên: Không, em biết bên đạo mình có
câu thề nào nặng nhất không? Nghe chị đây,
chị mà làm thế, chị bị trọng tội đấy!
Có tiếng súng nổ chát tai, cả thân thể Hiên
bật tung lên. Một tay chới với như muốn tìm
chỗ dựa nào đó ở khoảng không. Một tay chống
xuống đất, rồi ngã nghiêng. . .
Hậu trân trân nhìn Hiên quằn quại , cô lấy
hai tay ôm lấy mặt rồi rú lên:
- Chúa ơi! Chị ơi! Ai bắn chị tôi thế này.
Tiếng khóc, tiếng gào, tiếng gió theo nước
sông loang loáng về phía hạ du. . .
SÀI GÒN 1954.
Sư đoàn khinh binh số 10 của tôi vào Nam. Đóng
ở Long Khánh.
Đây là lúc ông Nhu thanh toán xong các lực
lượng thân Pháp và các lực lượng giáo phái,
ông quay sang “ Làm thịt” nốt Tổng bộ tự vệ.
Lực lượng chống Cộng có đến hàng vạn người
này dần dần tan tác.
Đức cha Lê Hữu Từ vẫn ngạo nghễ làm lễ ở
nhà thờ di cư Phát Diệm. Đức cha đang suy nghĩ
gì thì chỉ có Chúa mới biết, nhưng những
người thân cận nhìn bóng cha nghiêng nghiêng
mỗi chiều tắt nắng, không nén được tiếng
thở dài cho tình đời đen bạc.
Còn cha Quỳnh, hình như ông Cố vấn quên hẳn
cái việc cha đã tổ chức cho ông trốn qua Lào
bằng cách ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt giam
cha. Sau đó đầy cha đến cái xứ đồng khô cỏ
cháy Bình An này.
. . .Nhờ bộ đồ lính còn vương đất đỏ. Tôi
lẻn được vào thăm cha.
Cha ôm đầu tôi, hôn tôi. Tay cha sờ sờ cái lon
Thượng sĩ nhất của tôi:
- Bây giờ mà còn như thế này à! Đám sĩ quan
Bùi-Phát , tướng tá hết cả rồi. Thằng Phạm
Xuân Chiểu trở cờ biết chưa?
Tôi đau đớn nhìn cha. Cha già hẳn đi. Tôi móc
trong cái “ Túi bắt gà” một gói bên ngoài
là lá chuối.
- Con ghé Gò Vấp, biết cha mê món này.
Cha nhìn trân trân ( một thoáng suy nghĩ: không
biết đôi mắt này có giống lúc bố và cha
nhìn xuống dưới cầu áo nhà bà Đông không
nhỉ? ) rồi cười lên ha hả, khiến bọn mật
vụ bên ngoài ngơ ngác.
- Bố anh! Trước khi anh tới đây, tôi nghĩ có
thể bắt tay ông Diệm chứ có bao giờ dám mơ
tưởng đến món này đâu. Ôi! Tranh bá đồ vương.
Ôi ! Công hầu khanh tướng! Làm sao bằng cái
gói thịt chó này cơ chứ ! Ủa mà sao lại
khóc? Yên tâm đi! Chúa sắp xếp hết, Chúa rất
công bằng. Rồi cũng êm thôi.
“ Rồi cũng êm thôi”. Cái đầu của cha một lần
nữa xác định được cái nhanh nhạy ấy
:Nhà Ngô càng ngày càng bị sức ép của Mỹ.
Sau những lần dằn mặt từ những Nguyễn Chánh
Thi, Vương Văn Đông, rồi đến Nguyễn Văn Cừ,
Phạm Phú Quốc. Đến sự chống đối ngấm ngầm
của các sĩ quan thân Pháp. Đến ngay sự lạnh
nhạt của tòa thánh Vatican. Đến lúc phải
tìm một mô hình giáo khu Bùi Phát cho Quốc
sách Ấp chiến lược, Ông Nhu dần dần thấy
cái quá đà của ông trong việc đánh phá Tổng
bộ tự vệ Phát Diệm với cả triệu giáo dân
và những người gốc miền Bắc sau lưng nó.
Nó đâu giống Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo
đâu?
Giáng Sinh năm 1960 tôi trở lại Bình An. Lần
này thì khôngcòn hoang vắng như lần trước
nữa. Những chiếc xe hơi, xe Jeep nối đuôi nhau.
Chủ nhân của chúng là những chính trị gia
đối lập, cần sự hậu thuẫn của Công giáo.
Cớ cả những sĩ quan, viên chức cần lên lon,
thăng ngạch, cần đi làm tỉnh trưởng, tư lệnh.
. .
Thấy tôi lấp ló. Cha đuổi khéo hai người
khách đang ngồi trong phòng, ra tận cửa lôi
tôi xềnh xệch.
- Lần trước nhờ món thịt cầy của cậu mà
tớ thoát chết hai lần. Lại trò bắn lén kiểu
bắn Trịnh Minh Thế. Hoàng Quỳnh đâu có ngờ
nghệch như Trịnh Minh Thế đâu chớ. Về với
tớ đi. Hai tay vừa rồi là chuyên viên trong
văn phòng ông Cố Vấn đấy. Ông Nhu muốn tìm
thêm kinh nghiệm của Giáo khu ngày trước .
Ông ta quên là mỗi thời mỗi khác. Ngày ấy,
lòng dân còn toàn tòng. Bây giờ thì ly tán
hết rồi! Chưa qua sông đã đấm buồi vào sóng,
ai còn tin được. . .
. . .Người ta vẫn bảo Lê Hữu Từ và Hoàng
Quỳnh thân Pháp. Thì đã sao nào? Pháp già
rồi nhưng có thủy có chung. Chơi với tụi Mỹ
như chơi với dao vậy. Vừa thực dụng lại vừa
tráo trở. Đụng tới quyền lợi của họ, thì
bạn hay thù cũng a lê hấp !
. . . Sao về với tớ không? Ngày còn ở Ninh
Bình, cậu thua đếch gì thằng Chiểu, thằng
Đổng. .
Thấy số người chờ càng lúc càng đông. tôi
hỏi:
- Cha còn nhớ chị em cô Hiên không?
- A ha ! cái rắc rối của đời cậu ấy mà,
tớ làm sao quên được, nhưng “ Giai nhân nan tái
đắc” Bóng chim tăm cá phải không? Sao nhất
định không lấy vợ à?
- Thưa cha, quả là mọi việc đều do Chúa an
bài cả cha ạ. Con mới được tin hai con yêu
cái này cũng di cư vào đây, đang ở vùng Bình
Long Bến Cát gì đó. Con về đây chỉ để nhờ
cha, xin cho con đổi về sư đoàn nào ở gần
đó. Nếu bố con có linh thiêng , xin dẫn đường
chỉ nẻo cho con. Đời con thua chúng, thua bạn
chỉ vì còn đeo đuổi mối thâm thù này. Xin
cha cầu nguyện cho con. . .
Cha Quỳnh bỗng ho xù xụ, tóc cha đã bạc
quá nửa. Cha nhìn tôi :
- Mình còn nhiều dang dở, những sở nguyện
chưa đạt được một phần ba. Cậu xem ra còn
bết bát hơn mình, tụi mình không còn bắt
đầu từ số không được đâu, thật là lực bất
tòng tâm. Nghĩ cho cùng: Chỉ có tha thứ và
sự bình yên ở nước Chúa mới là yên phần
hồn rỗi phần xác !
Bỗng cha cười ha hả:
- Ngày xưa, nói chuyện đàn bà với cậu, tớ
cũng thầm mong Cộng đồng Vatino cho phép linh
mục lấy vợ, bây giờ mà có được phép, tớ
cũng đếch thèm
Cha đứng lên lấy phích nước, cái dáng gù
của cha làm tăng vẻ chậm chạp
- Cậu ở với mình một thời gian. Cậu thấy
mình thế nào? Mình có cuồng tín quá hay
không? Có trọng đời khinh đạo quá hay không?
Tớ biết tính cậu hay nói thẳng tớ mới hỏi,
cần cứ việc khuyên. Bố cậu lúc sinh thời
vẫn cho tớ những lời bộc trực thấm thía.
Cha chỉ tay ra ngoài phòng chờ, lố nhố những
khách. Môi dưới của cha trề ra
- Họ gồm hai loại: Con chiên chân chính và
những người đến nhờ vả. Con chiên thì cha
nào chả là ông thánh. Lúc nào họ cũng thấy
thấp thoáng nơi vị chăn dắt của mình ánh
hào quang của Đức Chúa Trời!
Còn những người đến cầu cạnh mình ư? Họ
đời nào dám nói cái sở đoản của mình ra
kia chứ . Có lần mình giả vờ nóng giận,
mình hỏi me xừ Ngô Trọng Hiếu: “ Có phải
với cương vị Bộ trưởng Công dân vụ ông tuyên
bố trước các Tỉnh đoàn trưởng là phải xem
xét tôn giáo như một hiện tượng văn hóa không?
Đó là quan điểm của chính phủ hay của cá
nhân ông?” Ông ta sợ hãi ra mặt. . .
Cha vừa pha trà vừa nói:
- Họ đến với mình bằng những câu: “Nhờ cha
sinh phúc, nhờ cha gia ân cho”. Mình làm chó
gì có quyền mà làm ngay cho họ được, mà
phải làm trung gian. Ôi! đã là trung gian bên
Đạo, lại còn phải làm trung gian bên Đời!
Cha cười thiểu não:
- Có đứa còn phong cho mình là thiên tài nữa
kia đấy.
Cha đổi giọng cười ha hả :
- Thiên tài đếch gì tớ. Thiên tài đớp thịt
chó thì có!
Ánh sáng của cửa sổ phía tây xuyên qua tầu
dừa chênh chếch, chiếu vào chỗ cha ngồi. Tôi
thấy rõ mái tóc điểm sương khô khốc, những
nếp nhăn men mét, hai túi lệ chẩy xệ dưới
đôi mắt trũng sâu khắc khoải.
Tôi nói:
- Thưa cha cứ theo định nghĩa “ Cái không học
ở đâu cả, cái không thể học nổi, cái không
thể bắt chước được. Đó là thiên tài!” Thì
người ta bảo cha là thiên tài đúng quá rồi
còn gì! Hồi còn ở với cha, con may mắn được
cha mặc khải khá nhiều. đoán biết và nắm
bắt được chút ít tư tưởng của cha, nhìn cách
cha giải quyết vấn đề, xem cách cha khu xử
sao cho hợp đạo đẹp đời. Con vẫn tiếc giá
như cha đừng đi tu, những điều sở tồn của
cha mà làm sở dụng thì hay biết mấy, thì
giúp ích cho nước nhà biết mấy.
Con xin nói thật, giới tăng lữ bây giờ. Đạo
nào cũng vậy, có làm chính trị giỏi cách
mấy thiên hạ cũng gán cho cái tội khuynh loát
lợi dụng đấy cha ạ. Cha không nghe giới kẻ
chợ bây giờ họ sắp xếp thang bậc trong xã
hội bằng vỏn vẹn có tám chữ: Nhất cố, nhì
sư, tam xi, tứ tướng.
Cha cười buồn:
- Cố là gì? Xi là gì?
Tôi nói:
- Cố là cố đạo, là các linh mục, Còn xi
là taxi, là những tên ma cô chở đĩ điếm cho
ngoại kiều.
Cha giật mình: “ đến thế cơ à?” Rồi cha ho
khung khúc.
Tôi nói:
- Ngày ở với cha, con có đọc trong một tờ
báo cũ của thư viện giáo xứ, tờ Phụ Nữ
Thời Đàm, một bài thơ của một nữ sĩ, vịnh
Hai Bà Trưng, con sửa lại mấy chữ có ý để
tặng cha, xin cho con đọc trình cha nghe, coi
như nhận xét của con về cha kính yêu.
Bùi Phát quân thù kinh vó giặc.
Giáp vàng, áo chùng lạnh đầu voi
Chúa ơi, Tòa giảng bơ vơ quá.
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi.
Cha bắt tôi đọc lại lần nữa, cha buông bút
ngồi ôm đầu
- Ôi bơ vơ, lẻ loi thật!
MẶT TRẬN BÌNH LONG 1972
Tôi hỏi người phụ nữ “ Điên”
- Cô bị bắt trong trường hợp nào?
- Tôi đang giặt giũ ở bờ sông, các ông bắt
tôi
- Tình hình này, ai dám ra sông để giặt? Quê
cô ở đâu?
- Hải Hậu, Ninh Bình
- Trước năm 1953 cô ở đâu?
- Tôi ở Kim Sơn, Phát Diệm
- Rồi sau đó
- Tôi lên Nho Quan!
( Bố mẹ ơi, quả nhiên lưới trời lồng lộng,
rất thưa nhưng không sao lọt được! Kẻ thù hình
như đang ngồi ngay trước mặt con đây, cũng khuôn
mặt trái xoan, cái mũi dọc dừa, cũng đôi
mắt bồ câu trong sáng và phản trắc ấy. Bố
ơi, còn văng vẳng đâu đây tiếng bố gọi mẹ
lúc lâm chung: “ Xoan ơi, nhục quá!” Rồi bố
chết, bố đem những uất nghẹn cùng những điều
không làm được về thế giới bên kia, bố để
lại thế giới này cái hận thù dai dẳng cho
con đeo mãi vào người trong niềm ân hận bất
lực.)
Tôi rung lên như lên cơn sốt:
- Cô còn có một người chị?
Ôi! một câu hỏi hớ hênh, rất không nghiệp vụ
và đầy tính định mệnh đã cứu người phụ
nữ. Tôi đã tự lột bỏ lốt áo người thẩm
vấn để lộ rõ cái nóng vội của một kẻ tử
thù, đang muốn ăn tươi nuốt sống đối phương.
( Còn người phụ nữ, tuy cô không có cái
bản lĩnh của Hiên, nhưng tính nhậy cảm và
nhanh nhạy của một người đàn bà đã thấy
rất rõ trong đôi mắt của người trưởng ban
tình báo kia loang loáng vẻ kỳ bí của một
thế giới đầy u uẩn. Vầng trán tái tím kia
như đang toát ra những làn tử khí hừng hực,
có bóng tử thần lấp ló.)
Cô lạnh toát người, Có một lực siêu nhiên
gì mách bảo cô phải nói to như một lời khẳng
định:
- Không, tôi không có một người chị nào cả!
Thiếu tá Mãng bước vào, chẳng biết ất giáp
gì, quát tôi:
- Lại đánh tù binh hả? Việt Cộng gì con dở
dở ương ương này, làm lệnh tha, tôi ký.
Ông vừa bước ra khỏi hầm vừa lầu bầu:
- Việc ngập đầu, đéo lo, lo ba cái con mẹ
điên điên khùng khùng.
Tôi tức uất người, tức vì cái nông cạn võ
biền của đồng đội mình, chống Cộng kiểu
ông ta chỉ là đánh võ vườn, Ông ta đánh giặc
bằng tâm tính của một nhà tu, với tính khí
của một cao bồi miền viễn tây nước Mỹ, và
lối hành sử mệnh lệnh của một công chức
HOUSTON 1978,
Tiếng súng ở bến đò Vệ, Hòa Bình ngày
ấy không giết chết Hiên, nhưng giết chết tâm
hồn của Hiên và Hậu. Đặc biệt với Hậu, do
sợ quá mà sau này có lúc cô không làm chủ
chính cô.
Xin tóm tắt, từ năm 1972. . .
Sau khi thả Hiên ra, sau khi An Lộc được giải
tỏa. Trung úy Nguyễn Văn Nam tiếp tục theo
dõi Hiên
. . .Quả đúng Hiên là em Hậu, giấy thế vì
khai sinh cho những người tản cư làm tại Tòa
hòa giải rộng quyền Hà Nội của Hiên với
tên mới là Thoa, Nguyễn Thị Kim Thoa. . .
. . .Thoa và Hậu di cư vào Nam cùng với lòng
căm thù Cộng Sản ngun ngút. Cô đi học tiếp
rồi ra trường thành giáo sư trường trung học
Hưng Đạo. Người chồng thứ nhất của Thoa, một
sĩ quan Đà Lạt chết trận Mậu Thân năm 1968,
để lại cho cô một bé trai kháu khỉnh. Lúc
hạ huyệt Thuận, cô ôm con khóc lặng trong mưa
phùn hiếm hoi của mùa xuân miền Nam. nét sầu
bi cô phụ ấy, đánh thức tâm hồn của người
đồng nghiệp kém cô 5 tuổi, vốn tu xuất
Cô và Thuấn lấy nhau, tình yêu chưa làm ấm
chăn gối vợ chồng thì Thuấn tử trận tại
chiến trường An lộc.
Tôi ( Người viết lại chuyện này), nghe tiếng
Nam bên kia đầu giây, giọng vui vẻ:
- Anh sẽ qua thăm chú?
- Sao anh bảo đến mùa hè sang năm anh chị mới
qua, gấp vậy?
- Không, anh cần qua. Anh đem cho chú thêm một
vài chi tiết và đoạn kết của câu chuyện chú
đang viết.
Tôi háo hức chờ Nam
Hôm gập Nam tại phi trường Houston sau bao nhiêu
năm xa cách. Tôi ôm Nam còn vợ tôi và vợ Nam
vồn vã hỏi thăm về nhau. Nam giới thiệu vợ:
- Đây là bà xã anh, chú có đoán được là
ai không nhỉ?
Người đàn bà có đôi mắt buồn rười rượi,
có giông bão còn đọng ở ánh mắt, đưa tay
ra:
- Nghe anh Nam nói nhiều về anh, tôi là Hiên,
là Thoa, là cừu thù một thời của nhà tôi
đấy.
Mùa đông Houston lạnh kinh người nhưng người
tôi cứ nóng bừng.
Đêm hôm ấy, Nam kể cho tôi nghe quãng đường
anh chị tìm nhau, anh tìm chị để trả thù,
còn Chúa lại dẫn chị tìm anh để nối lại
mối tình đầu.
- Còn Hậu bây giờ ra sao?
- “Cô tù binh” của anh năm xưa bây giờ gia thất
đề huề . Cũng tính sang thăm chú một chuyến
này, nhưng cuối cùng cô chú ấy lại đổi ý.
Nam kết luận:
- Quả nhiên có Chúa thật chú ạ. Không tin
không được. Cha Quỳnh dậy chí phải.
- Chú có nghe gì về cha?
Giọng Nam u uất:
- Ngay sau khi chiếm miền Nam, Việt Cộng tìm
ngay đến giáo xứ Bình An. Họ bắt cha giam
vào khám Chí Hòa. Tại phòng số 8, khu ED,
nơi chặng chót của bước đường thánh giá.
Cha đã uống xong chén đắng cuối cùng. . .
Nguyễn Trọng Hoàn
( Viết tại Phòng giam 8, khu ED 1991. Hoàn tất tại Mỹ 1997)