Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại

Sinh Vi Tướng, Tử vi Thần - Tình Hoài Hương

Ôi! Họ đã lưu danh thơm lẫy lừng thiên cổ. Qúy ông ấy đã anh dũng, hiên ngang đứng vững giữa non sông gấm vóc trong quê cha đất tổ. Họ vĩnh viễn nằm lại trên dãi đất hình chữ S cong cong. Máu của họ đã chan hòa chảy ra nhào trộn với đất phù sa đẫm ướt cả lòng quê.


Sinh Vi Tướng Tử Vi Thần
Anh hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

(Bài viết: Tình HOÀI HƯƠNG)
***

Lòng tôi bỗng nhói buốt lên từng cơn rúng động đau điếng, xót xa, bàng hoàng run rẩy khôn tả xiết. Tôi rụng rời bi phẩn đến cực điểm, điếng lặng, dại khờ, đắng cay, nghẹn ngào, không thể thốt lên tiếng thở dài hoặc nói câu nào. Chúng tôi: trên bước đường ly tán là những lữ hành đơn độc mệt lã, nay xa lạ từ lãnh thổ của chính quê hương mình, đã ôm mặt khóc ròng, hai hàng nước mắt tôi và các bạn đều tuôn chảy. Tôi khóc vì vong gia thất thổ, khóc thân phận con người đớn hèn bọt bèo trôi nổi. Và; bởi chúng tôi ra đi về Miền Tây là: Quá hy vọng tin tưởng vào các vị tướng, tá, sĩ quan, các vị quân nhân binh lính oai dũng: vẫn còn đóng chốt kiên cố ở miền Tây, còn giữ vững non sông và dân tộc trong giờ thứ 25.
Tôi đã mất đất dung thân trên quê hương, nào ngờ… Nỗi đau đớn ấy nén dưới chiều sâu tâm hồn, đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi theo dòng thời gian chảy về. Bây chừ chúng tôi đã quá tuyệt vọng... vì… máu, nước mắt, và tóc của những vị Anh hùng đã vắt xỏa lơ lửng ngang lưng trời mãi hoài không tan biến. Từ đó bầu trời vần vũ mây xám và tạo thành những cơn mưa triền miên… đẫm ướt sông hồ sơn khê Việt Nam!!!
Ngờ đâu nay càng thương sầu nuối tiếc những vị anh hùng tuấn kiệt bất hủ đã oanh liệt tuẫn tiết. Chúng tôi thương họ hơn cả sự đau khổ cơ cực, đọa đày, biệt xứ vào những ngày ly tán trong tháng 4: Chúng tôi đã sửng sốt, rụng rời, vì nhiều lần trên đường loạn lạc nghe tin khủng khiếp rõ mồn một từ miệng rất nhiều người tất tả xuôi ngược chạy về nơi nầy, chạy đi nơi khác: Tin tức sốt dẽo nhất là do người dân ngang nhiên xôn xao bàn tán ở hai bến phà: Cần Thơ, và Mỹ Thuận. Người ta nói như một lời khẳng định về vấn nạn miền Nam Việt Nam Cộng Hoà rằng:
- Không còn “Tướng, Tá” gì ráo.
- Đừng hòng mà có ý định “mưu đồ” chiếm lại Sài Gòn. Nghe.
- Các vị tướng, tá, úy, thậm chí cả hạ sĩ quan, binh lính, đã hy sinh. Họ cương quyết không chịu khuất phục vô tay bọn cướp nước, nên họ đã tuẫn tiết tự sát kìa. Chết thật rồi...
Khi từ Rạch Giá tìm đường trở lại thủ đô Sài Gòn, chúng tôi lật đật đến thăm những người bạn thân, (họ đang làm lớn trong chính phủ miền Nam Sài Gòn). Các anh bạn của gia đình tôi đã xác nhận rõ ràng: Những vị anh hùng trung liệt bất khuất lừng danh rất đáng kính trọng, đáng ngợi ca ngàn đời, lưu danh thơm thiên cổ ấy: là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử. Sinh vi tướng tử vi thần mà sử sách đã vĩnh viễn ghi sau:

*1.- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1929) Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, Quân Khu 2. Tướng Phạm Văn Phú tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
1953.- Ông tốt nghiệp khóa 8 - Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.
1954.- Đại úy Phạm Văn Phú Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.
7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, đại úy Phú bị bắt giam. Sau Hiệp định Genève, ông được thả ra; tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. - 1962 Thiếu Tá Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn Quan-Sát 77 Lực-Lượng Đặc Biệt.
1963 Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ-binh Quảng Ngãi.
5/1964.- Trung Tá Tham Mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. - 1966.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1968.- Chuẩn-tướng Biệt Khu 44 Đồng Tháp Mười, miền Tây.
1969.- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt.
1970.- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh - Tư Lệnh Quân Đoàn 4.
1973.- 10/1974 - Chỉ-huy-trưởng Trung-Tâm Huấn-luyện Quang Trung.
1974.- Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 - Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng Cao Nguyên miền Trung.
29/4/1975.- Thiếu tướng Trần Văn Phú uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.

*2.- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.- (23-09-1927) Tư-lệnh Quân Ðoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
1953.- ông Nguyễn Khoa Nam nhập ngũ Khóa III Thủ Đức - gia nhập binh chủng Nhảy Dù. - 1965.- Thiếu tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.
1967.- Trung Tá Lữ-đoàn-trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. - 1969.- Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ-binh kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. - 1974.- Th/Tg Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân-đoàn IV & Vùng IV Chiến thuật.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam dùng súng browning tự sát 01-5-1975.

*3.- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.- (27-3-1933 Hốc Môn) Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4.
Ông Lê Văn Hưng: khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức.
Tướng Lê Văn Hưng tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: Ra trường sau đó chỉ huy từ cấp Đại-đội. Tiểu-đoàn. Trung-đoàn thuộc Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
1966.- Thiếu-tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 2/Trung-đoàn 31 Bộ-binh.
1968.- Trung tá Lê Văn Hưng Trung-đoàn-trưởng Trung-đoàn 31 Bộ Binh tại Hậu Giang & thăng Đại-tá Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh.
6/1971.- Tư lệnh Sư đoàn 5.
1972.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh-phó Quân-khu 3.
1973.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
1974.- Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4.
Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng đã tự sát bằng súng lục vào lúc 20g 45’, ngày 30.04.75.

*4.- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ - (22-8-1933 Sơn Tây). Tư-lệnh Sư- đoàn 5 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
1951.- Ông học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ Bị Địa phương Huế. Tốt nghiệp Ðại Học Chỉ Huy Cao Cấp & Tham Mưu tại Mỹ.
Đại úy Quận-trưởng Bến Cát (Bình Dương). - Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5.
1965.- Thiếu tá Vỹ tham gia trong chiến trường An Lộc.
Thiếu-tá Tư-lệnh-Phó Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
1972.- Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại An Lộc.
1973.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ-binh.
1974.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh căn cứ Lai Khê (Bình Dương)
30-4-1975.- Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư Lệnh Lai Khê.

*5.- Chuẩn-tướng Trần Văn Hai.- (1929 Cần Thơ). Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Trần Văn Hai đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy:
1951.- Sinh viên Sĩ quan Trường Võ Bị Đà Lạt.
1960.- Thụ Huấn Khóa Chỉ-huy Tham-mưu tại Hoa Kỳ.
1963.- Thiếu-tá Chỉ-huy-trưởng TT Huấn-luyện Dục-Mỹ.
1965.- Trung tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Phú Yên, Chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính. - Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 2; Quân-khu 2.
1968.- Tổng-giám-đốc Cảnh-sát Quốc-gia. Tết Mậu Thân, đại tá Hai có mặt ở Liên đoàn 5 Biệt Động Quân trong những giờ giao tranh đầu tiên tại Thị Nghè - Hàng Xanh, phụ trách mặt trận Chợ Lớn, Phú Thọ.
1970.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Biệt Khu 44.
1971.- Chuẩn-tướng Chỉ-huy-trưởng Binh-chủng Biệt-Động-quân.
1972.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh-Phó Quân-đoàn 2 & Quân-khu 2 Đặc Trách Biên-phòng. - Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam-Sơn, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục-Mỹ.
1974.- Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh, căn cứ Đồng Tâm Tỉnh Định Tường.
Chiều 30.04.1975.- Chuẩn-tướng Hai đã uống thuốc độc tự tử tại văn phòng Tư-lệnh, Ðồng Tâm. Mỹ Tho. Nơi Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh.

*6.- Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn .- (24-3–1938 Vĩnh Thanh Vân. Rạch Giá). Đại Tá Tỉnh Trưởng Chương Thiện. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy:
1947.- Ông gia nhập vào trường Thiếu Sinh Quân.
1957.- Liên trường Võ Khoa Thủ Đức. Học chuyên môn: CC1 & CC2 Vũ Khí. Sau 9 tháng thụ huấn ưu hạng, ông làm huấn luyện viên tại trường VKTĐ.
1962.- TSQ Hồ Ngọc Cẩn vào trường sĩ quan hiện dịch, Đồng Đế. & thuyên chuyển về Biệt Động Quân vùng 4 Chiến Thuật: Trung-đội-trưởng Tiểu-đoàn 42 Biệt Động Quân. Ông tuần tự phục vụ tại các binh chủng: Dù. Thủy-quân Lục-chiến. Biệt-động-quân. Quân-báo. An-ninh Quân-đội. Lực-lượng Đặc-biệt: Tại các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh). Chương-Thiện. Sóc-Trăng (Ba-Xuyên). Bạc-Liêu. Cà-Mau (An-Xuyên).
- Tiểu-đoàn số 42, Tiểu-đoàn Cọp Ba-đầu-Rằn.
Tiểu-đoàn số 44 Cọp Xám U-Minh Hạ). 1973.
- Đại Tá Tỉnh trưởng Tỉnh Chương Thiện.
30-4-1975.- Trong BCH hết đạn dược, ông đã bị bắt tại nơi đồn trú. - 14-8-1975.- Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã bị kết án, xử bắn ở sân vận động tỉnh Cần Thơ, trước sự chứng kiến của đồng bào.

*7.- Ðại-tá Ðặng Sĩ Vinh.- Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Lúc 2 giờ ngày 30.04.75, Ðại-tá Vinh, cùng gia đình gồm: Vợ và Bảy người con, đã tự tử bằng súng lục!!! (1chồng + 1Vợ + 7người con = 9 nhân mạng, xin vui lòng xem phụ trang sau).

*8.- Đại-tá Nguyễn Hữu Thông.- Trung-đoàn-trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22Bộ Binh - Khóa 16 sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. 31/3/1975, tự sát tại Quy Nhơn.

*9.- Đại-tá Lê Câu.- Trung-đoàn-trưởng 47 Bộ Binh – Sư Đoàn 22 BB. Tự sát 10-3-1975.

*10.- Trung-tá Vũ Đình Duy.- Trưởng-đoàn 66 Đà Lạt. Tự sát 30-4-75.

*11.- Trung-tá Nguyễn Văn Hoàn.- Trưởng đoàn 67 phòng 2 Bộ TTM. Tự sát 30-4-75.

*12.- Trung Tá Đường, Đại úy Bé... Chỉ huy lực lượng Thám-báo, chết ở chân cầu Vị Thanh 30-4-75.

*13.- Trung-tá Nguyễn Đình Chi.- Cục An Ninh Quân-đội. Tự sát 30-4-75.

*14.- Trung-tá Hà Ngọc Lương.- TT Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát 30-4-75 (cùng vợ, 2 con, 1 cháu).

*15.- Trung-tá Phạm Đức Lợi.- Khóa 5, Thủ Đức. Phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM; là học giả, văn, thơ, soạn kịch… (bút danh: Phạm Việt Châu), cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH Hiệp Định Paris tại Hà Nội. Tự sát tại tư gia ngày 5/5/1975.

*16.- Trung-tá Nguyễn Văn Long.- Sanh năm 1919 tại Gia Hội. Huế.
Chánh Sở Ty Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng.
Ông đã tuần tự giữ các chức vụ: Chỉ-huy Trưởng Phòng. - Chủ Sự. - Ty Cảnh Sát. - Ty Công An. - Khu 1 Đà Nẵng.
Ngày 28-3-1975.- Trung-Tá Nguyễn Văn Long được lệnh phải rời Đà Nẵng vào Sài Gòn. Tính tình ông trầm lặng, ít nói, cương trực, mẫu mực, tận tụy, thanh liêm; nên gia đình ông sống rất thanh bạch. Trung tá Long có biệt danh là “Long lý” ; có nghĩa là không thiên vị ai, cứ công lý minh bạch lẽ phải mà thi hành. Khi nghe "tân tổng thống 3 ngày không dân cử", Dương Văn Minh ra lệnh tất cả quân đội: "ở đâu phải ở đó, buông súng, không được kháng cự", để ông Minh bàn giao chính phủ cho ban tiếp quản miền Nam.
30-4-1975.- Trung Tá Nguyễn Văn Long đã rút súng tự bắn vào đầu, tuẩn tiết dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến. Trước trụ sở Quốc Hội. Sài Gòn.

*17.- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân.- Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2/Bộ TTM. Tự tử ngày 1/5/75.

*18.- Trung-tá Phạm Thế Phiệt.- 30-4-75.

*19.- Thiếu-tá Trịnh Tấn Tiếp.- Quận-trưởng Kiến Thiện là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ngày 14-8-1975, Ông đã bị VC xử bắn tại sân vận động Cần Thơ.

*20.- Thiếu-tá Không-quân Nguyễn Gia Tập.- (25-12-1943). Phi-đoàn 514-518, Khu-trục Biên-Hoà.
Ông thụ huấn khoá 64D, năm 1964.
- Tốt nghiệp T 28 - ở Randolph AFB – TX. Hoa Kỳ.
- Tốt nghiệp TopGun – Khóa A 1e - tại Hurburt Field, Florida.
- Sĩ quan Liên-lạc trường Huấn-luyện Keesler Hoa Kỳ.
- Làm việc tại: Phi-đoàn Khu-trục 514 - 518 – Biên Hoà.
- Làm việc tại phòng Đặc-trách Khu-trục, Bộ Tư-lệnh Không-quân.
Thiếu tá Nguyễn Gia Tập tự sát bằng súng lục trước sân cờ, trong căn cứ Bộ Tư-lệnh Không-quân.
Thân nhân của Th/tá Nguyễn Gia Tập, đã đem thi thể Th/tá Tập về chôn cất tại Long Khánh. Thiếu tá Nguyễn Gia Tập là vị anh hùng phi công Khu-trục A 1 Skyraider.

*21.- Thiếu-tá Lương Bông.- Phó Ty An Ninh Cần Thơ. Tự sát 30-4-75.

*22.- Thiếu-tá Mã Thành Liên (Nghiã).- Tiểu-đoàn-trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu - khoá 10 Đà Lạt. Tự sát cùng vợ ngày 30-4-75.

*23.- Thiếu-tá Nguyễn Văn Phúc.- Tiểu-đoàn-trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Tự sát 29/4/1975.

*24.- Thiếu-tá Hải Quân Lê Anh Tuấn.- (1943 – 1975). Xuất thân Khóa 14 Sĩ Quan Hải Quân.
Ông là Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 phục vụ trên chiến hạm của Hạm Ðội.
Duyên Ðoàn 27.
Duyên Ðoàn 23.
Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Khi nghe lệnh từ ông Dương Văn Minh bắt buộc quân nhân buông vũ khí, giao đất nước Việt Nam vào tay giặc, thì Thiếu-tá Tuấn đứng trên chiếc soái đỉnh dùng súng colt bắn vào đầu tự sát, ông gục ngay trên tấm bản đồ hành quân.

*25.- Thiếu-tá Đỗ văn Phát: Quận Trưởng (kiêm Chi Khu Thạnh Trị Ba Xuyên. Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 21 Bộ Binh), đã tuẫn tiết ngày 1/5/1975.

*26.- Thiếu-tá Trần Thế Anh.- Đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75

*27.- Thiếu tá Trần Đình Tự.- Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975.- tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung-tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ, để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”- Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng, ông nói: "Tôi sẽ ở lại đánh nữa, tôi không đầu hàng. Tôi không thể nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa"... Nhưng anh Tự không còn nữa, đã tử trận. Tên giặc Cộng rút con dao găm của anh Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng anh Tự. Anh Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu đỏ. (xin xem phụ trang ở dưới).

*28.- Đại-úy Vũ Khắc Cẩn.- Ban 3 Tiểu-khu Quảng Ngãi. Tự sát 30-4-75.

*29.- Đại-úy Tạ Hữu Di.- Tiểu Đoàn Phó 211 Tỉnh Chương Thiện. Tự sát 30-4-75.

*30.- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, Trưởng ban văn khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM.

*31.- Đại-úy Nguyễn Hòa Dương.- Trường Quân-Cảnh Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại trường.

*32.- Trung-úy Đặng Trần Vinh.- Phòng 2, Bộ TTM. (con của Thiếu-tá Đặng Sĩ Vinh). Tự sát cùng vợ con 30/4/1975.

*33.- Trung-úy Nghiêm Viết Thảo.- Khóa 1/70 Thủ Đức. An Ninh Quân đội. Tự tử tại Kiến Hòa.

*34.- Trung-úy Nguyễn Văn Cảnh.- CSQG Trưởng-cuộc Vân Đồn. Quận 8. Tự sát 30-4075.

*35.- Thiếu-úy Không-quân Nguyễn Thanh Quan.- Khóa 1/70. PĐ 110 Quan-sát. Tự tử 30-4-75 tại Kiến Hòa.

*36.- Thiếu-úy Nguyễn Phụng.- Cảnh Sát ĐB. Tự sát 30-4-75 , tại Thanh Đa.

*37.- Thiếu-úy Nhảy Dù Hoàng Văn Thái.- Khóa 5/69 Thủ Đức. Tại một bùng binh ở ngã 6 Chợ Lớn, Thiếu uý Thái và một nhóm 7 người bạn, mỗi người một quả lựu đạn, họ cùng mở chốt, để tự kết liễu đời mình vào ngày 30-4-1975.
Họ là một toán Nhảy Dù về bảo vệ Đài-phát-thanh. Đài Truyền-hình Việt Nam.

*38.- Chuẩn-úy Đỗ Công Chính.- TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát tại cầu Phan Thanh Giản.

*39.- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh.- Trường Truyền-tin Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại sân trường.

*40.- Thượng-sĩ Bùi Quang Bộ.- Trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.

*41.- Trung-sĩ I Trần Minh.- Quân Cảnh, ông gác ở Bộ TTM. Tự sát 30.4-75.

*42.- Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang.- (10-9-1956 Kiên Hưng, Tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969.- Vũ Tiến Quang vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
1972.- Ông Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh. Phục vụ tại Trung-đội Trinh-sát của Trung-đoàn 31 (Cà Mau).
Trung-sĩ Vũ Tiến Quang làm thông dịch viên (cho cố vấn thiếu úy Hummer).
1972.- Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh.
1974.- Sau khi có chứng chỉ 2 Bộ Binh, Trung-sĩ Quang về sư đoàn 21 Bộ Binh Tiểu-đoàn Ngạc Thần (tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. (xin xem phụ trang sau)

*43.- Nguyễn Xuân Trân.- Khóa 5 Thủ Đức. Tự sát 01-5-75.

*44.- Binh Nhì Hồ Chí Tâm.- TĐ 490. ĐP. (Mãnh Sư) Tiểu Khu Ba Xuyên. Cà Mau. Dùng súng M 16 tự sát ngày 30-4-75 tại Đầm Cùn, Cà Mau.

*45.- Luật sư Trần Chánh Thành.- Cựu Bộ-trưởng Thông-tin Đệ Nhất Cộng Hòa- Nguyên Thượng-nghị-sĩ đệ II Cộng Hòa. Tự sát ngày 3/5/75.

*46.- 6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC. (xin xem phụ trang sau)

*47.- Qúy Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & ... vô danh ẩn tích. Và còn nhiều!... Rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác.

*

Tình Hoài Hương

* * *

Phần phụ chú:

Thiếu tướng Phạm Văn Phú.- 10-3-1975.-
Trận chiến Ban Mê Thuột bùng nổ. Ngày 14/3/1975, có cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 ra khỏi Cao nguyên.
1 giờ 45’ – 2/4/1975, Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Bấy giờ Thiếu tướng Phú đã có ý định tự tử, nhưng bất thành.
15/4/1975: Tướng Phú lâm bệnh, phải điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Sau đó về tư gia. 29/4/1975. Thiếu tướng Trần Văn Phú đã uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long. Thân nhân đưa ông vào bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, nhưng không cứu kịp. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.

Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: là một quân nhân đức độ, hiền hòa giản dị; không hề bị tai tiếng tham nhũng, ông thương yêu thuộc quyền như em cháu, được hầu hết binh sĩ kính trọng yêu mến. Khi nghe tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh tất cả quân đội buông súng, Thiếu Tướng Nam đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản, ở Cần Thơ, thăm chiến hữu thương binh an ủi họ lần cuối cùng. Ông trở về dinh Tư Lệnh ở Cái Khế, Thiếu Tướng Nam đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang lúc 7:00 giờ sáng ngày 1-5-1975’. Các sĩ quan tự lo chôn cất ông, họ trân trọng kính cẩn nghiêm chào thi thể ông trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ.
Lúc đó VC đã tiến vào Cần Thơ. Nhưng anh em tham mưu đã cố gắng lo chôn cất tử tế... Rồi anh em chạy về dấu hết súng, và xoi một cái lỗ nhỏ, để nhìn vào phòng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Nhưng không ngờ... trong ngăn kéo của Tướng Nam còn cây súng nhỏ. Anh Phong cũng kể sự nhân đức của Tướng Nam: Lúc Tướng Trương Dành Oai, đem mấy người ở Cần Thơ xuống tàu, chạy ra biển. Thì Tướng Nam ra lệnh:
- Phải quay trở lại. Nếu không sẽ bị pháo dập.
Tất cả chờ lệnh của Tướng Nam. Khi con tàu sắp vượt ra biển. Tướng Nam buồn bã nói:
- Để họ đi...
... Và Tướng Nam buông điện thoại xuống.

Tôi; (đại úy Không-Quân Trần Văn Phúc) có một kỷ niệm khó quên với Tướng Nguyễn Khoa Nam:
Năm giờ sáng ngày 11/4/75 tôi nhấc điện thoại, nghe từ đầu dây:
Tôi, Tướng Nam Tư lệnh Quân Đoàn 4, cho tôi gặp phi tuần trưởng phi vụ Phi Long 71.
Đang mớ ngủ, nhưng hồn phi phách tán, tôi vội trả lời.
Dạ thưa Thiếu Tướng, là tôi…
- Anh cho tôi biết tên tuổi, cấp bậc, số quân?
Tôi thầm nghĩ: (bụng làm dạ chịu, phen nầy chắc chắn là mình "ngồi trong hộp" ít nhất 30 ngày (như trong số tử vi đã nói). Chả lẽ đêm hôm ấy tôi thả bom lầm vào quân bạn sao đây ha!? Lạy trời đừng chết ai nha). Ngừng giây lát, ông Tư Lệnh QĐ4 hỏi thêm tên phi hành đoàn của tôi, và phi hành đoàn bay trước đó. Tôi vừa đánh thức anh em dậy, vừa suy nghĩ: “Ui ! Có đại sự gì đây? Không lẽ cả 2 phi tuần đều ném bom lầm vào quân bạn hay sao? Chắc là có to chuyện gì rồi!!! Không. Không... không đâu”.
Cuối cùng Tướng Nam nhân danh Tư lệnh QĐ4 tuyên dương công trạng 5 anh em chúng tôi trước Quân Đoàn với ngôi sao vàng; và thay mặt đồng bào Thị xã Cần Thơ, Tướng Tư Lệnh cảm tạ chúng tôi đã lấy lại 2 khẩu đại bác 105 ly (bị mất ở quận Bình Minh), và dân chúng Cần Thơ đã tránh được một cuộc đổ máu kinh dị. Nghe xong cả người tôi nhẹ lâng lâng như muốn bay lên Trời, may quá, suýt chút xíu nữa thì tôi vọt miệng thưa:
- Dạ thưa Thiếu Tướng "rượu đậu nành" thả bom, chớ không phải do tôi ạ!!!
Có thể ông Tư Lệnh QĐ4 đã biết vận mệnh Miền Nam Việt Nam sẽ đi về đâu; nên ông tướng khả kính mới phá lệ gắn huy chương qua điện thoại chăng??
- *Anh Ó Đen: Lúc còn ở tù, tôi, (Oden03) nằm sát bên Trung Tá Trưởng-phòng 2/ Q.Đ.4, là anh Nguyễn Đạt Phong có kể:
Lúc nghe phu nhân của Tướng Lê Hưng gọi, anh em tham mưu QĐ chạy qua, thì thấy 2 người nằm dưới nền nhà đầy máu, nên anh em đều tưởng cả 2 người chết. Nhưng phu nhân chỉ ôm Tướng Hưng, và yêu cầu cho chôn cất theo lễ nghi quân cách.
* Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ.- Bao lần Cộng-quân phía ở Đông Bắc không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù lực lượng họ đông gấp bội. Ông tận tâm làm việc, lo xây dựng tu bổ hệ thống phòng thủ kiên cố, và nhiệt tâm huấn luyện binh sĩ. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ là một sĩ quan mẫn cán, quả cảm, có tài tham mưu. Một cấp chỉ huy thanh liêm, nổi tiếng về tinh thần dũng cảm, cương quyết chống cộng, bài trừ tham nhũng. Ông có cá tính trung trực và nóng như lửa.
30-4-1975 khi nghe Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh ra lệnh: "quân đội VNCH buông súng đầu hàng".
Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ cho binh sĩ treo cờ trắng trên hành dinh. Chuẩn tướng Vỹ liền triệu tập sĩ quan và binh sĩ dưới quyền, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ dõng dạc tuyên bố:
“Tôi không thể thi hành lệnh này. Tôi cần chọn riêng cho tôi con đường phải đi".
Ông oai dũng bình tĩnh nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ rút khẩu súng beretta 6.35 giơ lên tự bắn vào đầu, để tuẫn tiết vì quê hương. Ông tự sát lúc 11 giờ, ngày 30.04.75, tại Tổng-hành-dinh Lai Khê. Thi thể Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ an táng trong rừng cao su, (gần doanh trại Bộ Tư Lệnh). Sau đó thân nhân cải táng về ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.

* Chuẩn tướng Trần Văn Hai là một sĩ quan trong sạch, dũng cảm, đúng tư cách của một quân nhân. Trước khi đi Pleiku, làm Tư Lịnh Phó Quân Đoàn 2, (tháng 5/72) Ch/tg Trần Văn Hai đặt điều kiện với Tổng Thống Thiệu:
- "Khi nào giải toả núi Chupao, và 3 Quận phía Bắc Bình Định xong. Tôi sẽ rời chức vụ".
Khoảng 3 tháng sau, ông hoàn thành nhiệm vụ, & về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bô-binh. Vì ông không thể làm việc được với Tướng Toàn. Sau khi nhậm chức, ông không ở Pleiku, mà đặt Bộ-Chỉ-Huy Tham Mưu Tiền Phương tại Plei Mrong. Xa khoảng 10 dặm Tây Bắc Pleiku, cùng với Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân.
1969, Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên. Trong thời gian làm tỉnh trưởng Phú Yên, tướng Hai đã đối xử với dân khá tốt, nên được dân vô cùng quí trọng. Đại tá Hai tuy giữ chức vụ cao cấp nhứt trong ngành cảnh sát, tướng Hai vẫn thường xuyên ghé thăm các thuộc cấp cũ trong Biệt Động Quân. Một điều mà những ai ở vào địa vị của ông, rất ít khi làm. Năm 1965 thì được bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên. Trong thời gian tại chức, ông đã chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính trong Tỉnh, bẻ gẫy những cuộc tấn công của Việt Cộng xuất phát từ mật khu Vũng Rô. Quân đội ta nhiều khi còn tổ chức những cuộc hành quân vào tận sào huyệt này. (trích dẫn từ Wikipedia).
Đầu năm 1966, phu nhơn của Thiếu tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Quân Đoàn II và Quân khu 2 - là nữ ca sĩ Minh Hiếu tới Phú Yên có việc riêng, và lệnh của tướng Vĩnh Lộc là: "phải đón tiếp chu đáo". Thiếu tá Hai lúc đó đã được thăng cấp Trung tá quyết định: dùng tiền riêng thuê xe dân sự đưa đón, thay vì dùng công xa.
Vì chuyện này mà Trung-tá Hai mất chức Tỉnh-trưởng, với lý do: "không hoàn tất chu đáo nhiệm vụ". Ngày ông ra phi trường đi đáo nhậm đơn vị mới, quân dân cán chính ra tiễn đưa rất đông. Không ít người đã nhỏ lệ tiễn đưa.
Năm 1969, Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên, để xem xét việc thực thi một số kế hoạch trong Chiến dịch Phượng Hoàng, đã đem theo rất nhiều quà để tặng dân chúng. Ông được quân dân tiếp đón như một người ruột thịt - khiến cho một trong những người tháp tùng ông lúc đó là Trung-tá Lê Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt Khu 2 đã ngạc nhiên. Và sau này có thuật lại trong cuốn hồi ký 'Cảnh Sát Hoá, Quốc Sách Yểu Tử của Việt Nam Cộng Hoà' rằng: "chắc hẳn là trong thời gian làm Tỉnh- trưởng Phú Yên, Tướng Hai đã đối xử với dân chúng tốt hết mực, nên mới được quí trọng làm vậy". (trích nguyên văn trong QT.ĐĐ.THSQ.QLVNCH & trích dẫn từ Wikipedia).

Đại tá Hồ Ngọc Cẩn.- Trước ngày 30-4-1975, Đại tá Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn và một nhóm sĩ quan, binh sĩ... ở trong Tiểu Khu Chương Thiện, họ vẫn nhịn đói nhịn khát, chiến đấu quyết liệt, đến ngày 30-4-75 khi trong Tiểu khu không còn một viên đạn nào, và thức ăn nước uống không có một giọt! Ðại-tá Hồ Ngọc Cẩn & một tốp sĩ quan binh sĩ vẫn quyết tử thủ, để bảo vệ đồn bót. Sau cùng khi ông nghe tin muộn là tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng, Đại Tá Cẩn cho thuộc cấp tan hàng, chỉ còn một tướng, một binh, một chốt trong hầm. Họ đã bị Cộng-sản bắt tại hầm chỉ huy. 14-8-1975.- Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị lên án, Việt Cộng làm pháp trường đem ông ra xử bắn trước đồng bào.
Trước khi bị xử tử ông chính khí nói to: (“Tôi chỉ có một mình, trong tay tôi không có súng. Tôi không đầu hàng ai. Muốn bắn cứ bắn đi). “Ninh Thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chết không chịu nhục). Nhưng, trước khi bắn tôi, hãy cho tôi mặc bộ quân phục và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng như các anh không cần phải bịt mắt tôi, để cho tôi nhìn thấy rõ quê hương và đồng bào lần cuối cùng. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm. Đả đảo Cộng sản... (trích dẫn trong Wikipedia). Tất nhiên là người công giáo thì ông không được phép tự tử - (cho dù tuẫn tiết), nhưng chuyện xử bắn một vị anh hùng suốt đời thanh liêm, tận tụy vì quê hương và dân tộc, thì dường như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chết vì “đạo Tổ Quốc & Quê Hương” trên hết. Lời đề nghị của Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ được một phần: là “không bịt mắt”, để ông thân ái mở to đôi mắt nhìn rõ đời, trước lúc Đại tá Cẩn hiên ngang anh dũng đi thẳng vào họng súng... vĩnh biệt thế gian, ông cất cánh bay về thiên đàng, (nơi miền đất hứa trên chốn bồng lai tiên cảnh: bác ái, vị tha, yêu thương & tự do muôn năm...)

Major Dang Si Vinh.- He moved in our neighborhood sometime in early 1974. His family - wife and seven children - soon earned sympathy from people along the paved alley of a Saigon suburb where most inhabitants were in lower middle class. His eldest son was about thirty years old and a first lieutenant in the Army Medical branch after graduated pharmacist from the Medical School. The youngest was a 15-year-old pretty girl. It would have been a happy family if Saigon had not fallen to the hands of the Communist North Vietnam army. That was what people in the neighborhood said about the middle-aged RVN Army Major Dang Si Vinh, who was holding a job in the National Police Headquarters in Saigon. At about 2:00 PM on April 30, 1975, almost two hours after RVN President Duong Van Minh surrendered to the Communists, people near by heard several pistol reports from his home. After hesitating for safety, his neighbors got into his home to find Major Vinh, his wife and his seven children lying each on a single mattress, all dead, each by one .45 caliber bullet that gushed pools of blood from the horrible holes at their temples. On a long dining table, decent meals had been served and eaten as if in an usual and peaceful dinner. There were nine small glasses, all had traces of a pink powder left at their bottoms. Apparently, Maj. Vinh and his relatives had taken the drug - probably sleeping pills - before Vinh gave each a finishing stroke with his .45 pistol. In an open small safe he left some hundreds of thousands South Vietnam piasters, rated about 500 dollars at the time, an indication of his poor circumstances as an army major. On the note along with the money, Vinh wrote: "Dear neighbors," "Forgive us. Because our family would not live under the Communist regime, we have to end our lives this way that might be bothering you. Please inform my only sibling, a sister named ... at... and use this money to help her bury us anywhere. "
Thank you, Dang Si Vinh.

*anh Hoàng Hùng dịch (từ Major Dang Si Vinh) : Vào khoảng đầu năm 1974, Th/Tá Vinh, vợ và 7 người con dọn về sinh sống ở một khu bình dân, ngoài ngoại ô vùng Sài Gòn. Theo một người hàng xóm cho biết. Và sau một thời gian rất ngắn, gia đình của Th/Tá Vinh được sự thông cảm, và quí mến của bà con lối xóm. Người con trai đầu lòng của Th/Tá Vinh chừng 30 tuổi, Tr/Uy Quân Y, sau khi tốt nghiệp trường Dược (Pharmacist Of medical School), và người con gái út khoảng 15 tuổi. Gia Đình của Th/Tá Vinh là một gia đình sung sướng, hạnh phúc, nếu Sài Gòn đừng có rơi vào tay bọn Cộng-sản miền Bắc. Theo lời kể lại của hàng xóm về chuyện Th/Tá Vinh, người nắm một chức vụ trong Bộ Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn. Chừng 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng, thì bà con xung quanh kề cận với gia đình Th/Tá Vinh, nghe vài tiếng súng nổ, xuất phát từ trong nhà của Th/Tá Vinh. Sau khi thấy không còn nguy hiểm, thì những người lối xóm bước vô trong nhà của Th/Tá Vinh. Họ đã chứng kiến Th/Tá Vinh, vợ, và 7 người con nằm kế bên nhau, trên một chiếc giường, tất cả đều đã chết, do thương tích từ viên đạn xuyên qua thái dương. Kế bên là bàn ăn, là bữa ăn rất tươm tất. Kế đó là 9 cái ly uống nước trên bàn, mối cái ly đều có dấu vết tích để lại một chất bột màu hồng, đọng lại dưới đáy mỗi cái ly. Có lẽ đây là thuốc ngủ, mà trước đó Th/Tá Vinh đã cho mỗi người trong gia đình uống. Sau đó tử tự bằng súng lục Colt45. Một cái tủ sắt đã mở sẵn, Th/Tá Vinh đã để lại vài trăm ngàn đồng tiền mặt, tương đương chừng $500 US dollars, cùng với một bức thư ngắn, do chính tay Th/Tá Vinh viết: “Bà Con mến, Mong Bà Con niệm tình tha thứ cho gia đình chúng tôi, bởi vì chúng tôi không muốn sống dưới chế độ Cộng-sản này. Nên chúng tôi đã chọn cái chết, và chính cái chết đó, có thể đem lại sự buồn phiền đến với bà con. Xin nhờ bà con báo tin này đến người chị (em) của tôi tên là ..., ở ..., và dùng số tiền này, để lo chôn cất cho gia đình chúng tôi. Xin đa tạ Đặng Sĩ Vinh”.

Thiếu tá Trần Đình Tự Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 38 Biệt Động Quân. 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”
Trung tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Ông gượng dậy để lấy lại bản lãnh. Sau cú “Sốc”, trung tá Lê Bảo Toàn đã điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu-đoàn-Trưởng:
Tiểu-đoàn 30 thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan.
Tiểu đoàn 33 thiếu tá Đinh Trọng Cường.
Tiểu đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đình Tự.
Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung-tá Liên-đoàn-trưởng, anh quay qua Đại-úy Tiểu-đoàn-phó Xường:
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu anh và cũng là lệnh: Anh nói cho các đại đội trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho! Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa". Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội thám báo, nói với họ đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của đại úy tiểu đoàn phó, còn ai muốn ở lại hiến dầu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên.
Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đình Tự đưa tay chào Đại úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi anh dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp tục “Ăn thua đủ” với địch. Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu tá may dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu. Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự. Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu. Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn Tự rồi nói gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là thứ ác ôn cả đấy”!
Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường đễ chúng bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi. Sự đền nợ nước của Th/t Trần Đình Tự là do lời thuật lại của Đại-úy Xường, Tiểu đoàn-phó Tiểu-đoàn 38 BĐQ. (nay anh Xường đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979). Tôi gặp anh Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh Xường bị VC bóp cổ chết trong ngục thất, vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường xuất thân khóa 22 A Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của cố Thiếu-tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Th/t Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, chỉ có Đức Trọc (tên anh ta) bị thương giả chết, chờ VC đi xa rồi anh ráng bò vào nhà dân, được dân dấu diếm băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Saigòn. Đức ráng sống, ráng tìm cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của thiếu tá Tự và đồng đội cho mọi người nghe. (trích từ Cánh Thép do baotri sưu tầm & Reply ghi lại: May-02-11 22:40)

Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang.- (10-9-1956 Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969.-
1975.- Vũ Tiến Quang thăng Trung-sĩ-nhất. Ngày 1-2-1975.- Ông Quang nổi tiếng trong trận đánh tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trung sĩ Nhất Quang được tuyên dương trước quân đội, gắn huy chương Anh Dũng. Đơn vị Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31 (Cà Mau). 30 tháng 4 năm 1975.- Vì tất cả đạn dược, lựu đạn, đạn M79 đã hết. Cuối cùng chỉ còn một ổ súng trong hầm chiến đấu cũng hết đạn. Do có một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người:
Đó là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng kiêm tiểu khu trưởng; và Trung sĩ Nhất 19 tuổi: Vũ Tiến Quang. Họ đã anh dũng chiến đấu tới khi không còn một viên đạn cuối cùng, không chịu khuất phục đầu hàng. Ông Quang bị Cộng-sản bắn ngay tại chỗ. Trung sĩ Nhất Vũ Tiến Quang chết lúc 15 giờ, ngày 30-4-1975.

6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC. Toán nầy làm việc bằng máy PRC25, UHF-1, nên phải qua hệ thống trạm chuyển tiếp (Radio Relay Station) bằng phi cơ L-19, hoặc các đài tiếp vận truyền tin ở các núi cao.
Sau ngày 29 /4/75; họ đã hoàn toàn mất liên lạc bằng truyền tin với bộ chỉ huy LĐ81/BCND. Vì những đài yểm trợ tiếp vận truyền tin không còn, đã bỏ cửa trống không hoạt động. Các đài nầy cũng không hề thông báo cho những cộng tác viên thám sát biết tình trạng đất nước Việt Nam vào những ngày cuối cùng dầu sôi lửa bỏng ra sao!? Ôi! Đau khổ là các toán thám sát không hề hay biết lệnh buông súng đầu hàng ác ôn của T.T Dương văn Minh ngày 30/4/75. Nên Mười tám (18) anh em thám sát của LĐ.81/BCND của 3 toán thám sát nầy, khi đó lương khô 5 ngày đã cạn, họ đã phải nhịn đói, mưu sinh thoát hiểm, lặn lội từ rừng sâu về đến một làng thuộc quận Tân Uyên, cạnh sông Đồng Nai, gần thác Trị An. Thì bị Việt Cộng bắt giam, bị bỏ đói, bị bắn chết, rồi thả xác lềnh bềnh trôi sông. Những xác của anh em thám sát bị sình thối. Việt Cộng liền bắt dân vớt lên, đem chôn dọc theo bờ sông Đồng Nai.

* Xác anh em thám sát của LĐ.81/BCND khác đã chôn tập thể trong một cái giếng bỏ hoang. Phần mộ sĩ quan toán trưởng là anh Tuấn đã được gia đình đến bốc cốt từ năm 93. Toán viên tên Nguyễn Văn Một đã chết rất thảm thiết. Anh Nguyễn Văn Sơn và t/s Võ Văn Hiệp đã chết, do bị giam giữ tra tấn vô cùng kinh khiếp ở quận Tân Uyên. Do dân làng cho biết: có anh Đức còn ngáp ngáp chưa chết, được hai vợ chồng cụ già trong làng đem dấu anh Đức, và cứu sống. Hàng năm mỗi khi Tết đến, anh Đức đều trở lại chốn cũ ân cần chăm sóc hai cụ, để đền đáp ơn cao đức dày như cha mẹ tái sinh, tạ ơn cứu tử của ân nhân.
Các anh trong toán thám sát của LĐ.81/BCND ấy đã bị VC đánh đập, tra tấn rất dã man đến chết. Đó là những vị anh hùng của LĐ81/BCND âm thầm; sa cơ trong thảm cảnh tháng Tư ở Đại An, họ đã nhận lãnh những viên đạn oan nghiệt vào sau cái ngày 30-4-1975 kia! (Tâm 888 & trích dẫn trong Wikipedia ). Qúy Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & ... vô danh ẩn tích.

Và còn nhiều!... Rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác. Họ là những anh hùng vị quốc vong thân. Những bậc anh tài sinh vi tướng, tử vi thần. Là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử! Họ là những anh hùng kiện tướng, đầy nhiệt huyết, yêu đồng đội, hy sinh vì dân, vì đất nước quê hương. Nhất là vì danh dự của một quân nhân Vịêt Nam Cọng Hoà. Họ rất anh dũng tự quyết định mạng sống mình, không chịu khuất phục địch.
Giống như chí sĩ Trần Hữu Lực thời xưa đã có câu tuyệt mệnh:
“Non sông đã chết. Ta há lại sống thừa. Từ mười năm giũa kiếm, mài dao. Chí mạnh, những mong phò tổ quốc. Lông cánh chưa thành. Việc bỗng đâu hoá hỏng. Dưới chín suối điều binh khiển tướng, hồn nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên…”
Đó là sự trả giá tuyệt vời rất đáng kính trọng của một con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, qua nhân cách sống của một quân nhân đặt tổ quốc trách nhiệm danh dự lên hàng đầu. Một sự tuẫn tiết vô cùng quan trọng, rất đắt về sự: Vinh quang. Chiến thắng. Bi lụy. Can trường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; cho đến khi thủ đô Sài Gòn hòn ngọc viễn đông hùng tráng bi phẫn đã đớn đau vỡ vụn! Họ không hề đầu hàng thua cuộc! Vì lý tưởng tự do ưu trội thật cao vời. Và, vì sự bất tử cao cả, hiên ngang đầy oanh liệt. Kiên cường. Bất khuất của người lính Việt Nam Cộng Hoà quá dũng khí, oai phong lẫm liệt.
Ôi! Họ đã lưu danh thơm lẫy lừng thiên cổ. Qúy ông ấy đã anh dũng, hiên ngang đứng vững giữa non sông gấm vóc trong quê cha đất tổ. Họ vĩnh viễn nằm lại trên dãi đất hình chữ S cong cong. Máu của họ đã chan hòa chảy ra nhào trộn với đất phù sa đẫm ướt cả lòng quê. Hai tay họ thân ái ôm trọn quê hương ghì siết ở trong lòng. Họ đã bất khuất và vẻ vang sống mãi trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến. Lão Tử đã có câu:
“Để thân mình lại sau. Thế mà thân mình đứng trước. Gác thân mình ra ngoài. Thế mà thân mình vẫn còn".
Trân trọng lắm thay!

* * *

Tình Hoài Hương

Tôi trân trọng cám ơn qúy vị, qua:
Vài chi tiết do qúy anh Không Quân cho tin:
Đại-Úy KQ Trần Văn Phúc.
KQ thanbaokimnguu.
Anh KQ Vũ Ngô Khánh Truất.
Anh khongquan2
& GĐ81/BCND do anh Tâm1888.
Anh Ó Đen 3.
Anh Phạm Phong Dinh . . .
& . . . do Tình Hoài Hương sưu tầm lượm lặt trên Net & đã ghi thêm ở phụ trang phụ nầy.

Trân trọng

* * *

Tình Hoài Hương
hoiquanphidung.com
Tân Sơn Hòa chuyển

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Sinh Vi Tướng, Tử vi Thần - Tình Hoài Hương

Ôi! Họ đã lưu danh thơm lẫy lừng thiên cổ. Qúy ông ấy đã anh dũng, hiên ngang đứng vững giữa non sông gấm vóc trong quê cha đất tổ. Họ vĩnh viễn nằm lại trên dãi đất hình chữ S cong cong. Máu của họ đã chan hòa chảy ra nhào trộn với đất phù sa đẫm ướt cả lòng quê.


Sinh Vi Tướng Tử Vi Thần
Anh hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

(Bài viết: Tình HOÀI HƯƠNG)
***

Lòng tôi bỗng nhói buốt lên từng cơn rúng động đau điếng, xót xa, bàng hoàng run rẩy khôn tả xiết. Tôi rụng rời bi phẩn đến cực điểm, điếng lặng, dại khờ, đắng cay, nghẹn ngào, không thể thốt lên tiếng thở dài hoặc nói câu nào. Chúng tôi: trên bước đường ly tán là những lữ hành đơn độc mệt lã, nay xa lạ từ lãnh thổ của chính quê hương mình, đã ôm mặt khóc ròng, hai hàng nước mắt tôi và các bạn đều tuôn chảy. Tôi khóc vì vong gia thất thổ, khóc thân phận con người đớn hèn bọt bèo trôi nổi. Và; bởi chúng tôi ra đi về Miền Tây là: Quá hy vọng tin tưởng vào các vị tướng, tá, sĩ quan, các vị quân nhân binh lính oai dũng: vẫn còn đóng chốt kiên cố ở miền Tây, còn giữ vững non sông và dân tộc trong giờ thứ 25.
Tôi đã mất đất dung thân trên quê hương, nào ngờ… Nỗi đau đớn ấy nén dưới chiều sâu tâm hồn, đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi theo dòng thời gian chảy về. Bây chừ chúng tôi đã quá tuyệt vọng... vì… máu, nước mắt, và tóc của những vị Anh hùng đã vắt xỏa lơ lửng ngang lưng trời mãi hoài không tan biến. Từ đó bầu trời vần vũ mây xám và tạo thành những cơn mưa triền miên… đẫm ướt sông hồ sơn khê Việt Nam!!!
Ngờ đâu nay càng thương sầu nuối tiếc những vị anh hùng tuấn kiệt bất hủ đã oanh liệt tuẫn tiết. Chúng tôi thương họ hơn cả sự đau khổ cơ cực, đọa đày, biệt xứ vào những ngày ly tán trong tháng 4: Chúng tôi đã sửng sốt, rụng rời, vì nhiều lần trên đường loạn lạc nghe tin khủng khiếp rõ mồn một từ miệng rất nhiều người tất tả xuôi ngược chạy về nơi nầy, chạy đi nơi khác: Tin tức sốt dẽo nhất là do người dân ngang nhiên xôn xao bàn tán ở hai bến phà: Cần Thơ, và Mỹ Thuận. Người ta nói như một lời khẳng định về vấn nạn miền Nam Việt Nam Cộng Hoà rằng:
- Không còn “Tướng, Tá” gì ráo.
- Đừng hòng mà có ý định “mưu đồ” chiếm lại Sài Gòn. Nghe.
- Các vị tướng, tá, úy, thậm chí cả hạ sĩ quan, binh lính, đã hy sinh. Họ cương quyết không chịu khuất phục vô tay bọn cướp nước, nên họ đã tuẫn tiết tự sát kìa. Chết thật rồi...
Khi từ Rạch Giá tìm đường trở lại thủ đô Sài Gòn, chúng tôi lật đật đến thăm những người bạn thân, (họ đang làm lớn trong chính phủ miền Nam Sài Gòn). Các anh bạn của gia đình tôi đã xác nhận rõ ràng: Những vị anh hùng trung liệt bất khuất lừng danh rất đáng kính trọng, đáng ngợi ca ngàn đời, lưu danh thơm thiên cổ ấy: là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử. Sinh vi tướng tử vi thần mà sử sách đã vĩnh viễn ghi sau:

*1.- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1929) Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, Quân Khu 2. Tướng Phạm Văn Phú tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
1953.- Ông tốt nghiệp khóa 8 - Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.
1954.- Đại úy Phạm Văn Phú Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.
7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, đại úy Phú bị bắt giam. Sau Hiệp định Genève, ông được thả ra; tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. - 1962 Thiếu Tá Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn Quan-Sát 77 Lực-Lượng Đặc Biệt.
1963 Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ-binh Quảng Ngãi.
5/1964.- Trung Tá Tham Mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. - 1966.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1968.- Chuẩn-tướng Biệt Khu 44 Đồng Tháp Mười, miền Tây.
1969.- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt.
1970.- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh - Tư Lệnh Quân Đoàn 4.
1973.- 10/1974 - Chỉ-huy-trưởng Trung-Tâm Huấn-luyện Quang Trung.
1974.- Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 - Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng Cao Nguyên miền Trung.
29/4/1975.- Thiếu tướng Trần Văn Phú uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.

*2.- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.- (23-09-1927) Tư-lệnh Quân Ðoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
1953.- ông Nguyễn Khoa Nam nhập ngũ Khóa III Thủ Đức - gia nhập binh chủng Nhảy Dù. - 1965.- Thiếu tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.
1967.- Trung Tá Lữ-đoàn-trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. - 1969.- Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ-binh kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. - 1974.- Th/Tg Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân-đoàn IV & Vùng IV Chiến thuật.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam dùng súng browning tự sát 01-5-1975.

*3.- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.- (27-3-1933 Hốc Môn) Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4.
Ông Lê Văn Hưng: khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức.
Tướng Lê Văn Hưng tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: Ra trường sau đó chỉ huy từ cấp Đại-đội. Tiểu-đoàn. Trung-đoàn thuộc Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
1966.- Thiếu-tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 2/Trung-đoàn 31 Bộ-binh.
1968.- Trung tá Lê Văn Hưng Trung-đoàn-trưởng Trung-đoàn 31 Bộ Binh tại Hậu Giang & thăng Đại-tá Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh.
6/1971.- Tư lệnh Sư đoàn 5.
1972.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh-phó Quân-khu 3.
1973.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
1974.- Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4.
Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng đã tự sát bằng súng lục vào lúc 20g 45’, ngày 30.04.75.

*4.- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ - (22-8-1933 Sơn Tây). Tư-lệnh Sư- đoàn 5 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
1951.- Ông học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ Bị Địa phương Huế. Tốt nghiệp Ðại Học Chỉ Huy Cao Cấp & Tham Mưu tại Mỹ.
Đại úy Quận-trưởng Bến Cát (Bình Dương). - Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5.
1965.- Thiếu tá Vỹ tham gia trong chiến trường An Lộc.
Thiếu-tá Tư-lệnh-Phó Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
1972.- Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại An Lộc.
1973.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ-binh.
1974.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh căn cứ Lai Khê (Bình Dương)
30-4-1975.- Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư Lệnh Lai Khê.

*5.- Chuẩn-tướng Trần Văn Hai.- (1929 Cần Thơ). Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Trần Văn Hai đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy:
1951.- Sinh viên Sĩ quan Trường Võ Bị Đà Lạt.
1960.- Thụ Huấn Khóa Chỉ-huy Tham-mưu tại Hoa Kỳ.
1963.- Thiếu-tá Chỉ-huy-trưởng TT Huấn-luyện Dục-Mỹ.
1965.- Trung tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Phú Yên, Chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính. - Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 2; Quân-khu 2.
1968.- Tổng-giám-đốc Cảnh-sát Quốc-gia. Tết Mậu Thân, đại tá Hai có mặt ở Liên đoàn 5 Biệt Động Quân trong những giờ giao tranh đầu tiên tại Thị Nghè - Hàng Xanh, phụ trách mặt trận Chợ Lớn, Phú Thọ.
1970.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Biệt Khu 44.
1971.- Chuẩn-tướng Chỉ-huy-trưởng Binh-chủng Biệt-Động-quân.
1972.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh-Phó Quân-đoàn 2 & Quân-khu 2 Đặc Trách Biên-phòng. - Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam-Sơn, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục-Mỹ.
1974.- Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh, căn cứ Đồng Tâm Tỉnh Định Tường.
Chiều 30.04.1975.- Chuẩn-tướng Hai đã uống thuốc độc tự tử tại văn phòng Tư-lệnh, Ðồng Tâm. Mỹ Tho. Nơi Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh.

*6.- Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn .- (24-3–1938 Vĩnh Thanh Vân. Rạch Giá). Đại Tá Tỉnh Trưởng Chương Thiện. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy:
1947.- Ông gia nhập vào trường Thiếu Sinh Quân.
1957.- Liên trường Võ Khoa Thủ Đức. Học chuyên môn: CC1 & CC2 Vũ Khí. Sau 9 tháng thụ huấn ưu hạng, ông làm huấn luyện viên tại trường VKTĐ.
1962.- TSQ Hồ Ngọc Cẩn vào trường sĩ quan hiện dịch, Đồng Đế. & thuyên chuyển về Biệt Động Quân vùng 4 Chiến Thuật: Trung-đội-trưởng Tiểu-đoàn 42 Biệt Động Quân. Ông tuần tự phục vụ tại các binh chủng: Dù. Thủy-quân Lục-chiến. Biệt-động-quân. Quân-báo. An-ninh Quân-đội. Lực-lượng Đặc-biệt: Tại các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh). Chương-Thiện. Sóc-Trăng (Ba-Xuyên). Bạc-Liêu. Cà-Mau (An-Xuyên).
- Tiểu-đoàn số 42, Tiểu-đoàn Cọp Ba-đầu-Rằn.
Tiểu-đoàn số 44 Cọp Xám U-Minh Hạ). 1973.
- Đại Tá Tỉnh trưởng Tỉnh Chương Thiện.
30-4-1975.- Trong BCH hết đạn dược, ông đã bị bắt tại nơi đồn trú. - 14-8-1975.- Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã bị kết án, xử bắn ở sân vận động tỉnh Cần Thơ, trước sự chứng kiến của đồng bào.

*7.- Ðại-tá Ðặng Sĩ Vinh.- Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Lúc 2 giờ ngày 30.04.75, Ðại-tá Vinh, cùng gia đình gồm: Vợ và Bảy người con, đã tự tử bằng súng lục!!! (1chồng + 1Vợ + 7người con = 9 nhân mạng, xin vui lòng xem phụ trang sau).

*8.- Đại-tá Nguyễn Hữu Thông.- Trung-đoàn-trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22Bộ Binh - Khóa 16 sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. 31/3/1975, tự sát tại Quy Nhơn.

*9.- Đại-tá Lê Câu.- Trung-đoàn-trưởng 47 Bộ Binh – Sư Đoàn 22 BB. Tự sát 10-3-1975.

*10.- Trung-tá Vũ Đình Duy.- Trưởng-đoàn 66 Đà Lạt. Tự sát 30-4-75.

*11.- Trung-tá Nguyễn Văn Hoàn.- Trưởng đoàn 67 phòng 2 Bộ TTM. Tự sát 30-4-75.

*12.- Trung Tá Đường, Đại úy Bé... Chỉ huy lực lượng Thám-báo, chết ở chân cầu Vị Thanh 30-4-75.

*13.- Trung-tá Nguyễn Đình Chi.- Cục An Ninh Quân-đội. Tự sát 30-4-75.

*14.- Trung-tá Hà Ngọc Lương.- TT Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát 30-4-75 (cùng vợ, 2 con, 1 cháu).

*15.- Trung-tá Phạm Đức Lợi.- Khóa 5, Thủ Đức. Phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM; là học giả, văn, thơ, soạn kịch… (bút danh: Phạm Việt Châu), cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH Hiệp Định Paris tại Hà Nội. Tự sát tại tư gia ngày 5/5/1975.

*16.- Trung-tá Nguyễn Văn Long.- Sanh năm 1919 tại Gia Hội. Huế.
Chánh Sở Ty Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng.
Ông đã tuần tự giữ các chức vụ: Chỉ-huy Trưởng Phòng. - Chủ Sự. - Ty Cảnh Sát. - Ty Công An. - Khu 1 Đà Nẵng.
Ngày 28-3-1975.- Trung-Tá Nguyễn Văn Long được lệnh phải rời Đà Nẵng vào Sài Gòn. Tính tình ông trầm lặng, ít nói, cương trực, mẫu mực, tận tụy, thanh liêm; nên gia đình ông sống rất thanh bạch. Trung tá Long có biệt danh là “Long lý” ; có nghĩa là không thiên vị ai, cứ công lý minh bạch lẽ phải mà thi hành. Khi nghe "tân tổng thống 3 ngày không dân cử", Dương Văn Minh ra lệnh tất cả quân đội: "ở đâu phải ở đó, buông súng, không được kháng cự", để ông Minh bàn giao chính phủ cho ban tiếp quản miền Nam.
30-4-1975.- Trung Tá Nguyễn Văn Long đã rút súng tự bắn vào đầu, tuẩn tiết dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến. Trước trụ sở Quốc Hội. Sài Gòn.

*17.- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân.- Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2/Bộ TTM. Tự tử ngày 1/5/75.

*18.- Trung-tá Phạm Thế Phiệt.- 30-4-75.

*19.- Thiếu-tá Trịnh Tấn Tiếp.- Quận-trưởng Kiến Thiện là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ngày 14-8-1975, Ông đã bị VC xử bắn tại sân vận động Cần Thơ.

*20.- Thiếu-tá Không-quân Nguyễn Gia Tập.- (25-12-1943). Phi-đoàn 514-518, Khu-trục Biên-Hoà.
Ông thụ huấn khoá 64D, năm 1964.
- Tốt nghiệp T 28 - ở Randolph AFB – TX. Hoa Kỳ.
- Tốt nghiệp TopGun – Khóa A 1e - tại Hurburt Field, Florida.
- Sĩ quan Liên-lạc trường Huấn-luyện Keesler Hoa Kỳ.
- Làm việc tại: Phi-đoàn Khu-trục 514 - 518 – Biên Hoà.
- Làm việc tại phòng Đặc-trách Khu-trục, Bộ Tư-lệnh Không-quân.
Thiếu tá Nguyễn Gia Tập tự sát bằng súng lục trước sân cờ, trong căn cứ Bộ Tư-lệnh Không-quân.
Thân nhân của Th/tá Nguyễn Gia Tập, đã đem thi thể Th/tá Tập về chôn cất tại Long Khánh. Thiếu tá Nguyễn Gia Tập là vị anh hùng phi công Khu-trục A 1 Skyraider.

*21.- Thiếu-tá Lương Bông.- Phó Ty An Ninh Cần Thơ. Tự sát 30-4-75.

*22.- Thiếu-tá Mã Thành Liên (Nghiã).- Tiểu-đoàn-trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu - khoá 10 Đà Lạt. Tự sát cùng vợ ngày 30-4-75.

*23.- Thiếu-tá Nguyễn Văn Phúc.- Tiểu-đoàn-trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Tự sát 29/4/1975.

*24.- Thiếu-tá Hải Quân Lê Anh Tuấn.- (1943 – 1975). Xuất thân Khóa 14 Sĩ Quan Hải Quân.
Ông là Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 phục vụ trên chiến hạm của Hạm Ðội.
Duyên Ðoàn 27.
Duyên Ðoàn 23.
Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Khi nghe lệnh từ ông Dương Văn Minh bắt buộc quân nhân buông vũ khí, giao đất nước Việt Nam vào tay giặc, thì Thiếu-tá Tuấn đứng trên chiếc soái đỉnh dùng súng colt bắn vào đầu tự sát, ông gục ngay trên tấm bản đồ hành quân.

*25.- Thiếu-tá Đỗ văn Phát: Quận Trưởng (kiêm Chi Khu Thạnh Trị Ba Xuyên. Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 21 Bộ Binh), đã tuẫn tiết ngày 1/5/1975.

*26.- Thiếu-tá Trần Thế Anh.- Đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75

*27.- Thiếu tá Trần Đình Tự.- Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975.- tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung-tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ, để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”- Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng, ông nói: "Tôi sẽ ở lại đánh nữa, tôi không đầu hàng. Tôi không thể nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa"... Nhưng anh Tự không còn nữa, đã tử trận. Tên giặc Cộng rút con dao găm của anh Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng anh Tự. Anh Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu đỏ. (xin xem phụ trang ở dưới).

*28.- Đại-úy Vũ Khắc Cẩn.- Ban 3 Tiểu-khu Quảng Ngãi. Tự sát 30-4-75.

*29.- Đại-úy Tạ Hữu Di.- Tiểu Đoàn Phó 211 Tỉnh Chương Thiện. Tự sát 30-4-75.

*30.- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, Trưởng ban văn khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM.

*31.- Đại-úy Nguyễn Hòa Dương.- Trường Quân-Cảnh Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại trường.

*32.- Trung-úy Đặng Trần Vinh.- Phòng 2, Bộ TTM. (con của Thiếu-tá Đặng Sĩ Vinh). Tự sát cùng vợ con 30/4/1975.

*33.- Trung-úy Nghiêm Viết Thảo.- Khóa 1/70 Thủ Đức. An Ninh Quân đội. Tự tử tại Kiến Hòa.

*34.- Trung-úy Nguyễn Văn Cảnh.- CSQG Trưởng-cuộc Vân Đồn. Quận 8. Tự sát 30-4075.

*35.- Thiếu-úy Không-quân Nguyễn Thanh Quan.- Khóa 1/70. PĐ 110 Quan-sát. Tự tử 30-4-75 tại Kiến Hòa.

*36.- Thiếu-úy Nguyễn Phụng.- Cảnh Sát ĐB. Tự sát 30-4-75 , tại Thanh Đa.

*37.- Thiếu-úy Nhảy Dù Hoàng Văn Thái.- Khóa 5/69 Thủ Đức. Tại một bùng binh ở ngã 6 Chợ Lớn, Thiếu uý Thái và một nhóm 7 người bạn, mỗi người một quả lựu đạn, họ cùng mở chốt, để tự kết liễu đời mình vào ngày 30-4-1975.
Họ là một toán Nhảy Dù về bảo vệ Đài-phát-thanh. Đài Truyền-hình Việt Nam.

*38.- Chuẩn-úy Đỗ Công Chính.- TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát tại cầu Phan Thanh Giản.

*39.- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh.- Trường Truyền-tin Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại sân trường.

*40.- Thượng-sĩ Bùi Quang Bộ.- Trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.

*41.- Trung-sĩ I Trần Minh.- Quân Cảnh, ông gác ở Bộ TTM. Tự sát 30.4-75.

*42.- Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang.- (10-9-1956 Kiên Hưng, Tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969.- Vũ Tiến Quang vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
1972.- Ông Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh. Phục vụ tại Trung-đội Trinh-sát của Trung-đoàn 31 (Cà Mau).
Trung-sĩ Vũ Tiến Quang làm thông dịch viên (cho cố vấn thiếu úy Hummer).
1972.- Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh.
1974.- Sau khi có chứng chỉ 2 Bộ Binh, Trung-sĩ Quang về sư đoàn 21 Bộ Binh Tiểu-đoàn Ngạc Thần (tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. (xin xem phụ trang sau)

*43.- Nguyễn Xuân Trân.- Khóa 5 Thủ Đức. Tự sát 01-5-75.

*44.- Binh Nhì Hồ Chí Tâm.- TĐ 490. ĐP. (Mãnh Sư) Tiểu Khu Ba Xuyên. Cà Mau. Dùng súng M 16 tự sát ngày 30-4-75 tại Đầm Cùn, Cà Mau.

*45.- Luật sư Trần Chánh Thành.- Cựu Bộ-trưởng Thông-tin Đệ Nhất Cộng Hòa- Nguyên Thượng-nghị-sĩ đệ II Cộng Hòa. Tự sát ngày 3/5/75.

*46.- 6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC. (xin xem phụ trang sau)

*47.- Qúy Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & ... vô danh ẩn tích. Và còn nhiều!... Rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác.

*

Tình Hoài Hương

* * *

Phần phụ chú:

Thiếu tướng Phạm Văn Phú.- 10-3-1975.-
Trận chiến Ban Mê Thuột bùng nổ. Ngày 14/3/1975, có cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 ra khỏi Cao nguyên.
1 giờ 45’ – 2/4/1975, Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Bấy giờ Thiếu tướng Phú đã có ý định tự tử, nhưng bất thành.
15/4/1975: Tướng Phú lâm bệnh, phải điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Sau đó về tư gia. 29/4/1975. Thiếu tướng Trần Văn Phú đã uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long. Thân nhân đưa ông vào bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, nhưng không cứu kịp. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.

Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: là một quân nhân đức độ, hiền hòa giản dị; không hề bị tai tiếng tham nhũng, ông thương yêu thuộc quyền như em cháu, được hầu hết binh sĩ kính trọng yêu mến. Khi nghe tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh tất cả quân đội buông súng, Thiếu Tướng Nam đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản, ở Cần Thơ, thăm chiến hữu thương binh an ủi họ lần cuối cùng. Ông trở về dinh Tư Lệnh ở Cái Khế, Thiếu Tướng Nam đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang lúc 7:00 giờ sáng ngày 1-5-1975’. Các sĩ quan tự lo chôn cất ông, họ trân trọng kính cẩn nghiêm chào thi thể ông trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ.
Lúc đó VC đã tiến vào Cần Thơ. Nhưng anh em tham mưu đã cố gắng lo chôn cất tử tế... Rồi anh em chạy về dấu hết súng, và xoi một cái lỗ nhỏ, để nhìn vào phòng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Nhưng không ngờ... trong ngăn kéo của Tướng Nam còn cây súng nhỏ. Anh Phong cũng kể sự nhân đức của Tướng Nam: Lúc Tướng Trương Dành Oai, đem mấy người ở Cần Thơ xuống tàu, chạy ra biển. Thì Tướng Nam ra lệnh:
- Phải quay trở lại. Nếu không sẽ bị pháo dập.
Tất cả chờ lệnh của Tướng Nam. Khi con tàu sắp vượt ra biển. Tướng Nam buồn bã nói:
- Để họ đi...
... Và Tướng Nam buông điện thoại xuống.

Tôi; (đại úy Không-Quân Trần Văn Phúc) có một kỷ niệm khó quên với Tướng Nguyễn Khoa Nam:
Năm giờ sáng ngày 11/4/75 tôi nhấc điện thoại, nghe từ đầu dây:
Tôi, Tướng Nam Tư lệnh Quân Đoàn 4, cho tôi gặp phi tuần trưởng phi vụ Phi Long 71.
Đang mớ ngủ, nhưng hồn phi phách tán, tôi vội trả lời.
Dạ thưa Thiếu Tướng, là tôi…
- Anh cho tôi biết tên tuổi, cấp bậc, số quân?
Tôi thầm nghĩ: (bụng làm dạ chịu, phen nầy chắc chắn là mình "ngồi trong hộp" ít nhất 30 ngày (như trong số tử vi đã nói). Chả lẽ đêm hôm ấy tôi thả bom lầm vào quân bạn sao đây ha!? Lạy trời đừng chết ai nha). Ngừng giây lát, ông Tư Lệnh QĐ4 hỏi thêm tên phi hành đoàn của tôi, và phi hành đoàn bay trước đó. Tôi vừa đánh thức anh em dậy, vừa suy nghĩ: “Ui ! Có đại sự gì đây? Không lẽ cả 2 phi tuần đều ném bom lầm vào quân bạn hay sao? Chắc là có to chuyện gì rồi!!! Không. Không... không đâu”.
Cuối cùng Tướng Nam nhân danh Tư lệnh QĐ4 tuyên dương công trạng 5 anh em chúng tôi trước Quân Đoàn với ngôi sao vàng; và thay mặt đồng bào Thị xã Cần Thơ, Tướng Tư Lệnh cảm tạ chúng tôi đã lấy lại 2 khẩu đại bác 105 ly (bị mất ở quận Bình Minh), và dân chúng Cần Thơ đã tránh được một cuộc đổ máu kinh dị. Nghe xong cả người tôi nhẹ lâng lâng như muốn bay lên Trời, may quá, suýt chút xíu nữa thì tôi vọt miệng thưa:
- Dạ thưa Thiếu Tướng "rượu đậu nành" thả bom, chớ không phải do tôi ạ!!!
Có thể ông Tư Lệnh QĐ4 đã biết vận mệnh Miền Nam Việt Nam sẽ đi về đâu; nên ông tướng khả kính mới phá lệ gắn huy chương qua điện thoại chăng??
- *Anh Ó Đen: Lúc còn ở tù, tôi, (Oden03) nằm sát bên Trung Tá Trưởng-phòng 2/ Q.Đ.4, là anh Nguyễn Đạt Phong có kể:
Lúc nghe phu nhân của Tướng Lê Hưng gọi, anh em tham mưu QĐ chạy qua, thì thấy 2 người nằm dưới nền nhà đầy máu, nên anh em đều tưởng cả 2 người chết. Nhưng phu nhân chỉ ôm Tướng Hưng, và yêu cầu cho chôn cất theo lễ nghi quân cách.
* Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ.- Bao lần Cộng-quân phía ở Đông Bắc không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù lực lượng họ đông gấp bội. Ông tận tâm làm việc, lo xây dựng tu bổ hệ thống phòng thủ kiên cố, và nhiệt tâm huấn luyện binh sĩ. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ là một sĩ quan mẫn cán, quả cảm, có tài tham mưu. Một cấp chỉ huy thanh liêm, nổi tiếng về tinh thần dũng cảm, cương quyết chống cộng, bài trừ tham nhũng. Ông có cá tính trung trực và nóng như lửa.
30-4-1975 khi nghe Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh ra lệnh: "quân đội VNCH buông súng đầu hàng".
Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ cho binh sĩ treo cờ trắng trên hành dinh. Chuẩn tướng Vỹ liền triệu tập sĩ quan và binh sĩ dưới quyền, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ dõng dạc tuyên bố:
“Tôi không thể thi hành lệnh này. Tôi cần chọn riêng cho tôi con đường phải đi".
Ông oai dũng bình tĩnh nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ rút khẩu súng beretta 6.35 giơ lên tự bắn vào đầu, để tuẫn tiết vì quê hương. Ông tự sát lúc 11 giờ, ngày 30.04.75, tại Tổng-hành-dinh Lai Khê. Thi thể Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ an táng trong rừng cao su, (gần doanh trại Bộ Tư Lệnh). Sau đó thân nhân cải táng về ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.

* Chuẩn tướng Trần Văn Hai là một sĩ quan trong sạch, dũng cảm, đúng tư cách của một quân nhân. Trước khi đi Pleiku, làm Tư Lịnh Phó Quân Đoàn 2, (tháng 5/72) Ch/tg Trần Văn Hai đặt điều kiện với Tổng Thống Thiệu:
- "Khi nào giải toả núi Chupao, và 3 Quận phía Bắc Bình Định xong. Tôi sẽ rời chức vụ".
Khoảng 3 tháng sau, ông hoàn thành nhiệm vụ, & về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bô-binh. Vì ông không thể làm việc được với Tướng Toàn. Sau khi nhậm chức, ông không ở Pleiku, mà đặt Bộ-Chỉ-Huy Tham Mưu Tiền Phương tại Plei Mrong. Xa khoảng 10 dặm Tây Bắc Pleiku, cùng với Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân.
1969, Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên. Trong thời gian làm tỉnh trưởng Phú Yên, tướng Hai đã đối xử với dân khá tốt, nên được dân vô cùng quí trọng. Đại tá Hai tuy giữ chức vụ cao cấp nhứt trong ngành cảnh sát, tướng Hai vẫn thường xuyên ghé thăm các thuộc cấp cũ trong Biệt Động Quân. Một điều mà những ai ở vào địa vị của ông, rất ít khi làm. Năm 1965 thì được bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên. Trong thời gian tại chức, ông đã chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính trong Tỉnh, bẻ gẫy những cuộc tấn công của Việt Cộng xuất phát từ mật khu Vũng Rô. Quân đội ta nhiều khi còn tổ chức những cuộc hành quân vào tận sào huyệt này. (trích dẫn từ Wikipedia).
Đầu năm 1966, phu nhơn của Thiếu tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Quân Đoàn II và Quân khu 2 - là nữ ca sĩ Minh Hiếu tới Phú Yên có việc riêng, và lệnh của tướng Vĩnh Lộc là: "phải đón tiếp chu đáo". Thiếu tá Hai lúc đó đã được thăng cấp Trung tá quyết định: dùng tiền riêng thuê xe dân sự đưa đón, thay vì dùng công xa.
Vì chuyện này mà Trung-tá Hai mất chức Tỉnh-trưởng, với lý do: "không hoàn tất chu đáo nhiệm vụ". Ngày ông ra phi trường đi đáo nhậm đơn vị mới, quân dân cán chính ra tiễn đưa rất đông. Không ít người đã nhỏ lệ tiễn đưa.
Năm 1969, Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên, để xem xét việc thực thi một số kế hoạch trong Chiến dịch Phượng Hoàng, đã đem theo rất nhiều quà để tặng dân chúng. Ông được quân dân tiếp đón như một người ruột thịt - khiến cho một trong những người tháp tùng ông lúc đó là Trung-tá Lê Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt Khu 2 đã ngạc nhiên. Và sau này có thuật lại trong cuốn hồi ký 'Cảnh Sát Hoá, Quốc Sách Yểu Tử của Việt Nam Cộng Hoà' rằng: "chắc hẳn là trong thời gian làm Tỉnh- trưởng Phú Yên, Tướng Hai đã đối xử với dân chúng tốt hết mực, nên mới được quí trọng làm vậy". (trích nguyên văn trong QT.ĐĐ.THSQ.QLVNCH & trích dẫn từ Wikipedia).

Đại tá Hồ Ngọc Cẩn.- Trước ngày 30-4-1975, Đại tá Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn và một nhóm sĩ quan, binh sĩ... ở trong Tiểu Khu Chương Thiện, họ vẫn nhịn đói nhịn khát, chiến đấu quyết liệt, đến ngày 30-4-75 khi trong Tiểu khu không còn một viên đạn nào, và thức ăn nước uống không có một giọt! Ðại-tá Hồ Ngọc Cẩn & một tốp sĩ quan binh sĩ vẫn quyết tử thủ, để bảo vệ đồn bót. Sau cùng khi ông nghe tin muộn là tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng, Đại Tá Cẩn cho thuộc cấp tan hàng, chỉ còn một tướng, một binh, một chốt trong hầm. Họ đã bị Cộng-sản bắt tại hầm chỉ huy. 14-8-1975.- Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị lên án, Việt Cộng làm pháp trường đem ông ra xử bắn trước đồng bào.
Trước khi bị xử tử ông chính khí nói to: (“Tôi chỉ có một mình, trong tay tôi không có súng. Tôi không đầu hàng ai. Muốn bắn cứ bắn đi). “Ninh Thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chết không chịu nhục). Nhưng, trước khi bắn tôi, hãy cho tôi mặc bộ quân phục và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng như các anh không cần phải bịt mắt tôi, để cho tôi nhìn thấy rõ quê hương và đồng bào lần cuối cùng. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm. Đả đảo Cộng sản... (trích dẫn trong Wikipedia). Tất nhiên là người công giáo thì ông không được phép tự tử - (cho dù tuẫn tiết), nhưng chuyện xử bắn một vị anh hùng suốt đời thanh liêm, tận tụy vì quê hương và dân tộc, thì dường như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chết vì “đạo Tổ Quốc & Quê Hương” trên hết. Lời đề nghị của Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ được một phần: là “không bịt mắt”, để ông thân ái mở to đôi mắt nhìn rõ đời, trước lúc Đại tá Cẩn hiên ngang anh dũng đi thẳng vào họng súng... vĩnh biệt thế gian, ông cất cánh bay về thiên đàng, (nơi miền đất hứa trên chốn bồng lai tiên cảnh: bác ái, vị tha, yêu thương & tự do muôn năm...)

Major Dang Si Vinh.- He moved in our neighborhood sometime in early 1974. His family - wife and seven children - soon earned sympathy from people along the paved alley of a Saigon suburb where most inhabitants were in lower middle class. His eldest son was about thirty years old and a first lieutenant in the Army Medical branch after graduated pharmacist from the Medical School. The youngest was a 15-year-old pretty girl. It would have been a happy family if Saigon had not fallen to the hands of the Communist North Vietnam army. That was what people in the neighborhood said about the middle-aged RVN Army Major Dang Si Vinh, who was holding a job in the National Police Headquarters in Saigon. At about 2:00 PM on April 30, 1975, almost two hours after RVN President Duong Van Minh surrendered to the Communists, people near by heard several pistol reports from his home. After hesitating for safety, his neighbors got into his home to find Major Vinh, his wife and his seven children lying each on a single mattress, all dead, each by one .45 caliber bullet that gushed pools of blood from the horrible holes at their temples. On a long dining table, decent meals had been served and eaten as if in an usual and peaceful dinner. There were nine small glasses, all had traces of a pink powder left at their bottoms. Apparently, Maj. Vinh and his relatives had taken the drug - probably sleeping pills - before Vinh gave each a finishing stroke with his .45 pistol. In an open small safe he left some hundreds of thousands South Vietnam piasters, rated about 500 dollars at the time, an indication of his poor circumstances as an army major. On the note along with the money, Vinh wrote: "Dear neighbors," "Forgive us. Because our family would not live under the Communist regime, we have to end our lives this way that might be bothering you. Please inform my only sibling, a sister named ... at... and use this money to help her bury us anywhere. "
Thank you, Dang Si Vinh.

*anh Hoàng Hùng dịch (từ Major Dang Si Vinh) : Vào khoảng đầu năm 1974, Th/Tá Vinh, vợ và 7 người con dọn về sinh sống ở một khu bình dân, ngoài ngoại ô vùng Sài Gòn. Theo một người hàng xóm cho biết. Và sau một thời gian rất ngắn, gia đình của Th/Tá Vinh được sự thông cảm, và quí mến của bà con lối xóm. Người con trai đầu lòng của Th/Tá Vinh chừng 30 tuổi, Tr/Uy Quân Y, sau khi tốt nghiệp trường Dược (Pharmacist Of medical School), và người con gái út khoảng 15 tuổi. Gia Đình của Th/Tá Vinh là một gia đình sung sướng, hạnh phúc, nếu Sài Gòn đừng có rơi vào tay bọn Cộng-sản miền Bắc. Theo lời kể lại của hàng xóm về chuyện Th/Tá Vinh, người nắm một chức vụ trong Bộ Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn. Chừng 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng, thì bà con xung quanh kề cận với gia đình Th/Tá Vinh, nghe vài tiếng súng nổ, xuất phát từ trong nhà của Th/Tá Vinh. Sau khi thấy không còn nguy hiểm, thì những người lối xóm bước vô trong nhà của Th/Tá Vinh. Họ đã chứng kiến Th/Tá Vinh, vợ, và 7 người con nằm kế bên nhau, trên một chiếc giường, tất cả đều đã chết, do thương tích từ viên đạn xuyên qua thái dương. Kế bên là bàn ăn, là bữa ăn rất tươm tất. Kế đó là 9 cái ly uống nước trên bàn, mối cái ly đều có dấu vết tích để lại một chất bột màu hồng, đọng lại dưới đáy mỗi cái ly. Có lẽ đây là thuốc ngủ, mà trước đó Th/Tá Vinh đã cho mỗi người trong gia đình uống. Sau đó tử tự bằng súng lục Colt45. Một cái tủ sắt đã mở sẵn, Th/Tá Vinh đã để lại vài trăm ngàn đồng tiền mặt, tương đương chừng $500 US dollars, cùng với một bức thư ngắn, do chính tay Th/Tá Vinh viết: “Bà Con mến, Mong Bà Con niệm tình tha thứ cho gia đình chúng tôi, bởi vì chúng tôi không muốn sống dưới chế độ Cộng-sản này. Nên chúng tôi đã chọn cái chết, và chính cái chết đó, có thể đem lại sự buồn phiền đến với bà con. Xin nhờ bà con báo tin này đến người chị (em) của tôi tên là ..., ở ..., và dùng số tiền này, để lo chôn cất cho gia đình chúng tôi. Xin đa tạ Đặng Sĩ Vinh”.

Thiếu tá Trần Đình Tự Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 38 Biệt Động Quân. 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”
Trung tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Ông gượng dậy để lấy lại bản lãnh. Sau cú “Sốc”, trung tá Lê Bảo Toàn đã điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu-đoàn-Trưởng:
Tiểu-đoàn 30 thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan.
Tiểu đoàn 33 thiếu tá Đinh Trọng Cường.
Tiểu đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đình Tự.
Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung-tá Liên-đoàn-trưởng, anh quay qua Đại-úy Tiểu-đoàn-phó Xường:
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu anh và cũng là lệnh: Anh nói cho các đại đội trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho! Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa". Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội thám báo, nói với họ đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của đại úy tiểu đoàn phó, còn ai muốn ở lại hiến dầu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên.
Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đình Tự đưa tay chào Đại úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi anh dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp tục “Ăn thua đủ” với địch. Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu tá may dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu. Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự. Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu. Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn Tự rồi nói gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là thứ ác ôn cả đấy”!
Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường đễ chúng bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi. Sự đền nợ nước của Th/t Trần Đình Tự là do lời thuật lại của Đại-úy Xường, Tiểu đoàn-phó Tiểu-đoàn 38 BĐQ. (nay anh Xường đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979). Tôi gặp anh Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh Xường bị VC bóp cổ chết trong ngục thất, vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường xuất thân khóa 22 A Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của cố Thiếu-tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Th/t Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, chỉ có Đức Trọc (tên anh ta) bị thương giả chết, chờ VC đi xa rồi anh ráng bò vào nhà dân, được dân dấu diếm băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Saigòn. Đức ráng sống, ráng tìm cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của thiếu tá Tự và đồng đội cho mọi người nghe. (trích từ Cánh Thép do baotri sưu tầm & Reply ghi lại: May-02-11 22:40)

Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang.- (10-9-1956 Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969.-
1975.- Vũ Tiến Quang thăng Trung-sĩ-nhất. Ngày 1-2-1975.- Ông Quang nổi tiếng trong trận đánh tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trung sĩ Nhất Quang được tuyên dương trước quân đội, gắn huy chương Anh Dũng. Đơn vị Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31 (Cà Mau). 30 tháng 4 năm 1975.- Vì tất cả đạn dược, lựu đạn, đạn M79 đã hết. Cuối cùng chỉ còn một ổ súng trong hầm chiến đấu cũng hết đạn. Do có một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người:
Đó là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng kiêm tiểu khu trưởng; và Trung sĩ Nhất 19 tuổi: Vũ Tiến Quang. Họ đã anh dũng chiến đấu tới khi không còn một viên đạn cuối cùng, không chịu khuất phục đầu hàng. Ông Quang bị Cộng-sản bắn ngay tại chỗ. Trung sĩ Nhất Vũ Tiến Quang chết lúc 15 giờ, ngày 30-4-1975.

6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC. Toán nầy làm việc bằng máy PRC25, UHF-1, nên phải qua hệ thống trạm chuyển tiếp (Radio Relay Station) bằng phi cơ L-19, hoặc các đài tiếp vận truyền tin ở các núi cao.
Sau ngày 29 /4/75; họ đã hoàn toàn mất liên lạc bằng truyền tin với bộ chỉ huy LĐ81/BCND. Vì những đài yểm trợ tiếp vận truyền tin không còn, đã bỏ cửa trống không hoạt động. Các đài nầy cũng không hề thông báo cho những cộng tác viên thám sát biết tình trạng đất nước Việt Nam vào những ngày cuối cùng dầu sôi lửa bỏng ra sao!? Ôi! Đau khổ là các toán thám sát không hề hay biết lệnh buông súng đầu hàng ác ôn của T.T Dương văn Minh ngày 30/4/75. Nên Mười tám (18) anh em thám sát của LĐ.81/BCND của 3 toán thám sát nầy, khi đó lương khô 5 ngày đã cạn, họ đã phải nhịn đói, mưu sinh thoát hiểm, lặn lội từ rừng sâu về đến một làng thuộc quận Tân Uyên, cạnh sông Đồng Nai, gần thác Trị An. Thì bị Việt Cộng bắt giam, bị bỏ đói, bị bắn chết, rồi thả xác lềnh bềnh trôi sông. Những xác của anh em thám sát bị sình thối. Việt Cộng liền bắt dân vớt lên, đem chôn dọc theo bờ sông Đồng Nai.

* Xác anh em thám sát của LĐ.81/BCND khác đã chôn tập thể trong một cái giếng bỏ hoang. Phần mộ sĩ quan toán trưởng là anh Tuấn đã được gia đình đến bốc cốt từ năm 93. Toán viên tên Nguyễn Văn Một đã chết rất thảm thiết. Anh Nguyễn Văn Sơn và t/s Võ Văn Hiệp đã chết, do bị giam giữ tra tấn vô cùng kinh khiếp ở quận Tân Uyên. Do dân làng cho biết: có anh Đức còn ngáp ngáp chưa chết, được hai vợ chồng cụ già trong làng đem dấu anh Đức, và cứu sống. Hàng năm mỗi khi Tết đến, anh Đức đều trở lại chốn cũ ân cần chăm sóc hai cụ, để đền đáp ơn cao đức dày như cha mẹ tái sinh, tạ ơn cứu tử của ân nhân.
Các anh trong toán thám sát của LĐ.81/BCND ấy đã bị VC đánh đập, tra tấn rất dã man đến chết. Đó là những vị anh hùng của LĐ81/BCND âm thầm; sa cơ trong thảm cảnh tháng Tư ở Đại An, họ đã nhận lãnh những viên đạn oan nghiệt vào sau cái ngày 30-4-1975 kia! (Tâm 888 & trích dẫn trong Wikipedia ). Qúy Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & ... vô danh ẩn tích.

Và còn nhiều!... Rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác. Họ là những anh hùng vị quốc vong thân. Những bậc anh tài sinh vi tướng, tử vi thần. Là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử! Họ là những anh hùng kiện tướng, đầy nhiệt huyết, yêu đồng đội, hy sinh vì dân, vì đất nước quê hương. Nhất là vì danh dự của một quân nhân Vịêt Nam Cọng Hoà. Họ rất anh dũng tự quyết định mạng sống mình, không chịu khuất phục địch.
Giống như chí sĩ Trần Hữu Lực thời xưa đã có câu tuyệt mệnh:
“Non sông đã chết. Ta há lại sống thừa. Từ mười năm giũa kiếm, mài dao. Chí mạnh, những mong phò tổ quốc. Lông cánh chưa thành. Việc bỗng đâu hoá hỏng. Dưới chín suối điều binh khiển tướng, hồn nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên…”
Đó là sự trả giá tuyệt vời rất đáng kính trọng của một con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, qua nhân cách sống của một quân nhân đặt tổ quốc trách nhiệm danh dự lên hàng đầu. Một sự tuẫn tiết vô cùng quan trọng, rất đắt về sự: Vinh quang. Chiến thắng. Bi lụy. Can trường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; cho đến khi thủ đô Sài Gòn hòn ngọc viễn đông hùng tráng bi phẫn đã đớn đau vỡ vụn! Họ không hề đầu hàng thua cuộc! Vì lý tưởng tự do ưu trội thật cao vời. Và, vì sự bất tử cao cả, hiên ngang đầy oanh liệt. Kiên cường. Bất khuất của người lính Việt Nam Cộng Hoà quá dũng khí, oai phong lẫm liệt.
Ôi! Họ đã lưu danh thơm lẫy lừng thiên cổ. Qúy ông ấy đã anh dũng, hiên ngang đứng vững giữa non sông gấm vóc trong quê cha đất tổ. Họ vĩnh viễn nằm lại trên dãi đất hình chữ S cong cong. Máu của họ đã chan hòa chảy ra nhào trộn với đất phù sa đẫm ướt cả lòng quê. Hai tay họ thân ái ôm trọn quê hương ghì siết ở trong lòng. Họ đã bất khuất và vẻ vang sống mãi trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến. Lão Tử đã có câu:
“Để thân mình lại sau. Thế mà thân mình đứng trước. Gác thân mình ra ngoài. Thế mà thân mình vẫn còn".
Trân trọng lắm thay!

* * *

Tình Hoài Hương

Tôi trân trọng cám ơn qúy vị, qua:
Vài chi tiết do qúy anh Không Quân cho tin:
Đại-Úy KQ Trần Văn Phúc.
KQ thanbaokimnguu.
Anh KQ Vũ Ngô Khánh Truất.
Anh khongquan2
& GĐ81/BCND do anh Tâm1888.
Anh Ó Đen 3.
Anh Phạm Phong Dinh . . .
& . . . do Tình Hoài Hương sưu tầm lượm lặt trên Net & đã ghi thêm ở phụ trang phụ nầy.

Trân trọng

* * *

Tình Hoài Hương
hoiquanphidung.com
Tân Sơn Hòa chuyển

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm