Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
TĐ9 - Trận chiến sau cùng
MX Đoàn Văn Tịnh
Lời tác giả:
Sau gần 20 năm ngày tàn chiến cuộc, tôi mới có dịp viết về Tiểu đoàn
để tưởng nhớ nhũng người bạn và em út cùng đơn vị đã nằm xuống...
Sự đóng góp xương máu cùng sự sống của các bạn cho một vùng quê
hương qúa đỗi bất hạnh, có lẽ là niềm đau xót trong suốt cuộc đời
còn lại của tôi.
Thực tế, những câu đàm thoại giữa các đơn vị đều ngụy hóa. Nhưng tại
đây đã đưoơc chuyển sang bạch văn với mục đích để đọc giả có thể đọc
và hiểu dễ dàng.
Chiều ngày 27 tháng 3 năm 1975,
Thiếu tá Lâm-tài-Thạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9/TQLC và tôi
Trưởng ban 3 Tiểu đoàn được gọi về dự buổi họp bất thường tại BCH-Lữ
Đoàn 369, bản doanh đặt tại huyện Đại Lộc, Quảng-Nam.
Vẫn như thường lệ mỗi khi về BCH/LĐ để họp hành quân, chúng tôi chào
hỏi, tay bắt mặt mừng với Trung tá Nguyễn xuân Phúc, Lữ Đoàn trưởng
và Trung tá Đỗ Hữu Tùng, Lữ Đoàn phó.
Từ ngày 16 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 9 TQLC được lệnh của Lữ đoàn
369 từ giã chiến trường Quảng-Trị, bàn giao nhiệm vụ và tuyến đóng
quân cho các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân, theo Lữ đoàn di
chuyển vào Quảng-Nam. Tới Quảng-Nam, Tiểu đoàn 9 TQLC chia làm hai
cánh. Cánh A gồm Đại đội 4, Đại đội 2 phòng thủ dài trên dãy núi Sơn
Gà do Tiểu Đoàn trưởng chỉ huy.
Cánh B gồm Đại đội 3, Đại đội 1 phân tán trên những dãy núi chạy dài
xuống núi Đất và bên kia bờ sông Vu-Gia cách Tiểu đoàn chừng cây số,
thay thế vị trí cho những đơn vị Nhảy Dù đã di chuyển vào Nam.
Lữ Đoàn có nhiệm vụ chính là đánh chiếm lại đỉnh núi 1062 mà trước
đó các đơn vị Biệt Động Quân, Nhảy Dù đã thay nhau giao tranh ác
liệt, đẩm máu với quân Bắc Việt.
***
Ngày 16 tháng 3 năm 1975.
Trong suốt cuộc đời chiến trận, đơn vị di chuyển từ nơi này đến nơi
khác vẫn là những chuyện bình thường. Tuy nhiên lần này nhìn vào sự
chuẩn bị quá vội vàng của Bộ Chỉ huy Lữ Đoàn 369/TQLC, từ việc bàn
giao lại nhiệm vụ hành quân, phòng thủ cho đơn vị bạn nơi vùng tuyến
đầu Quảng-Trị, cũng như lệnh cho các Tiểu Đoàn tác chiến, Pháo binh
TQLC, cùng các đơn vị yểm trợ khiến chúng tôi có nhiều suy nghĩ và
cảm nhận ra một điều gì đó vô cùng bất ổn và nguy hiểm:
Lúc 12 giờ khuya hôm qua, đêm 15 rạng ngày16 tháng 3 năm 1975, chúng
tôi nhận lệnh từ Lữ Đoàn, cho đơn vị chuẩn bị và sẵn sàng di chuyển
lúc 7 giờ sáng, nếu những đơn vị bạn không đến kịp để bàn giao thì
cũng bỏ vị trí cho binh sĩ lên xe nhanh chóng đến điểm tập trung
trên Quốc lộ 1 trước làng Cọp Biển, gần cầu Bến Đá.
Từ giã bãi biển Gia Đẳng nơi Tiểu Đoàn nghỉ ngơi gần một tháng trong dịp tết về, thực sự có chút chi đó vướng víu trong lòng chúng tôi. Trên bãi cát trắng trải dài và phẵng phiu vào một sáng mùa Xuân, có chút sóng vỗ và ánh nắng tươi mát ban mai chiếu lên những con Nuốt trong vắt bị sóng xô mằm phơi trên bãi cát, tỏa ra đủ sắc màu long lanh như những viên ngọc quí hoàn hảo, cảnh vật thực bình yên, xinh đẹp. Song cũng chính nơi vùng biển trời xinh đẹp này lại là vùng chiến trường đẩm máu với nhiều trận đánh khủng khiếp của Tiểu đoàn 9 TQLC vào những ngày tháng cuối 1972 và đầu năm 1973, vùng chiến trận kéo dài từ Gia Đẳng qua Chợ Cạn, đập Linh Quang đến tận Cửa Việt.
Có lẽ đây là điểm mốc thời gian cực thịnh sau hết
của TĐ9/TQLC dưới thời Trung tá Nguyễn Kim Đễ với hệ thống SQ, Cán
bộ cũ kể từ ngày thành lập đơn vị vào tháng 4 năm 1970 cho tới trước
khi anh được bổ nhiệm về đảm trách chức vụ Trưởng Phòng 3/SĐ/TQLC.
***
Rời Vùng I chiến tuyến địa đầu đất nước về Quảng-Nam.
Vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975, đoàn xe theo thứ tự
gồm TĐ6/TQLC, TĐ2/TQLC, BCH/LĐ369, Pháo binh TQLC trên xe đầy cả các
loại vật dụng, vợ con, gia đình, sau hết là TĐ9/TQLC. Rồi thêm một
cái đuôi dài lòng thòng lôi thôi lếch thếch tội nghiệp đằng sau là
dân chúng bồng bế chạy theo với hàng chục chiếc xe dân dụng, tiếng
trẻ con khóc la, tiếng kêu réo gọi nhau ơi ới thất lạc, với dáng mặt
thất sắc kinh hoàng.
Ra đi với nhiều âu lo thắc mắc trong lòng mọi người. SQ và binh sĩ thuộc cấp trong đơn vị đã nhiều lần hỏi tôi điều này, nhưng tôi đã không thể trả lời họ một cách rõ ràng như mọi khi. Trong tôi chỉ có linh cảm sẽ mất đất, mất tất cả Vùng I.
Vào Đại Lộc vài ngày sau đó tôi còn nhớ rõ, chiều 26 tháng 3 chúng tôi theo lệnh Lữ Đoàn tiếp nhận thêm một số đơn vị Đia Phương Quân và Bộ Binh di tản từ chiến trường Quảng-Trị về. Anh Thạnh bảo tôi giao những đơn vị này cho Thiếu tá Lộc phối trí phòng thủ ở núi Đất.
Trong suốt ngày 26, 27 tháng 3 năm 1975, chúng tôi đã nhận được rất nhiều tin tức đáng buồn về các đơn vị bạn Tiểu Đoàn 3, 4, 5, 7 /TQLC, TĐ2/PB và ĐĐ Viễn Thám, bị cắt đứt ở Thuận An.
Cố Thiếu tá Nguyễn Tri Nam, người bạn đồng khóa
22 Võ Bị đã tử trận trên đường lui quân tại bờ biển Thuận An, Thiếu
tá Đinh Long Thành, K19, TĐT/TĐ4/ TQLC mất tích và một số bạn bè,
thuộc cấp trong những đơn vị cũng đã vĩnh viễn từ giã chiến trường.
Một số đơn vị khác đang cố gắng tránh lưới đạn pháo trong khi triệt
thoái để xuống tàu trước sự tấn công dồn dập của quân Bắc Việt.
Tôi hình dung ra một vùng chiến trận tơi bời, thê thảm của những
“Hùm thiêng sa cơ, thất thế”.
Một thời nào đó, chúng tôi đã tự nguyện hiến dâng tuổi trẻ và đời
mình cho đất nước, nhiệt tình hăng hái nung nấu cùng nhau tìm vào
nơi gió cát với ý chí “quyết chiến, quyết thắng”, nhưng trước những
mất mát quá đỗi to lớn và bất ngờ trên quê hương hôm nay, tôi không
sao ngăn được tiếng thở dài chua xót, cố nén giòng nước mắt đau
thương đang chảy xuống với nỗi uất hận cuả một người lính trận.
“Như vậy Quảng-Trị và Huế đã mất!”
Trong buổi họp, vị Trưởng ban 3 Lữ Đoàn và Trung
tá Lữ Đoàn trưởng thuyết trình về tình hình địch và bạn trong vùng
trách nhiệm của Lữ Đoàn, cùng một số tình hình của các đơn vị TQLC ở
Huế, bãi biển Thuận An.
Ra khỏi phòng họp, tôi hỏi anh Tùng :
- Số đạn dược mà tôi xin Lữ Đoàn thì bao giờ có?
Anh Tùng trả lời:
- Chiều nay hay ngày mai, yên tâm. Còn bây giờ thì uống tí rượu, ông
Tướng vừa mới xuống thăm có cho mấy chai Napoléon đây. Mỗi người một
vài ly nhỏ rồi sau đó chia tay.
Từ giã các anh, trên đường về chúng tôi ghé lại
cái quán nhỏ bên đường ăn tô mì Quảng và uống ly cà phê, nhân tiện
nhìn sơ tình hình sinh hoạt của dân chúng chung quanh.
Nơi đây cũng như ở Quảng-Trị, đời sống của dân chúng nghèo nàn,
thiếu thốn quá nhiều.
Trong căn nhà lá nho nhỏ tạm đặt BCH/TĐ, cạnh con đường đất đỏ trên
sườn núi Sơn Gà, từ đó chúng tôi có thể nhìn bao quát quận Đại Lộc
và con sông Vu-Gia.
Lữ Đoàn cho lệnh tiếp nhận đạn dược. Tôi gọi cho Thiếu tá Lộc chuẩn bị đón nhận và phân phối cho các Đại đội, báo cho biết khi xong xuôi.
Anh Lộc trả lời trên máy và hỏi:
- Chúng ta sắp làm gì Tân an?
- Có lẽ chiếm lại ngọn đồi 1062.
Anh Lộc vui vẻ tâm sự: “Ông Thiếu úy Hùng mới ra trường mà anh đưa lên cho tôi, trông tướng tá ngon lành và đẹp trai quá. Anh là người Huế, gia đình ở ngay trên đường phố Phan bội Châu, Hùng nói rằng từ ngày ra trường chưa kịp đi phép đã phải ra trình diện đơn vị ngay, bây giờ cũng không biết gia đình ra sao...”
Phải, sáng nay có một Sĩ quan về bổ sung cho Tiểu đoàn, anh tốt nghiệp khóa 27 Trường VBQGVN. Tôi bận rộn quá chỉ giữ Hùng lại ở BCH/ Tiểu đoàn có 1 tiếng đồng hồ, hỏi thăm người đàn em vài điều về trường cũ, nhờ người lính nấu cho Hùng một tô mì gói, rồi vội vàng đưa Hùng về Đại đội 3 thuộc cánh B. Tôi nghĩ sau này có thì giờ sẽ nói chuyện và hỏi thăm Hùng về gia đình và anh em nhậu với nhau vài chai bõ nhớ.
Nhưng có ai biết những bất ngờ đến với một người lính trận: gặp mặt, chia tay để rồi sau đó tôi không bao giờ có dịp gặp lại người đàn em tội nghiệp đó nữa.
Anh chưa hề biết chiến trường nơi đâu, chiến trận là gì, địch quân như thế nào, cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Hùng tử trận vào lúc 5 giờ chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975 trên bờ biển Mỹ-Khê .
***
4 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975
Người Sĩ quan phụ tá bảo tôi vào máy gặp Đại Bàng Thái Dương (danh hiệu của Trung tá Đỗ hữu Tùng), anh Thạnh theo tôi tới phòng máy.
- Thái Dương đây Tân An tôi nghe.
- Tân An đó hả, nghe tốt không ?
- Trình Đại Bàng, 5 trên.
- Lệnh cho Tiểu đoàn 9: Số đạn dược được tải đến hôm qua trang bị đầy đủ cho mỗi cá nhân, đạn XM16, đạn phóng lựu, đại liên ..., còn lại bao nhiêu chôn xuống tại chỗ; khi nào xong xuôi Tân An cho biết.
- Đáp nhận Đại Bàng.
Tôi bỏ ống liên hợp xuống và nhìn anh Thạnh, anh im lặng một lúc rồi cầm máy gọi anh Lộc:
- Lộc Ninh đây Tây Đô.
- Lộc Ninh nghe Đại Bàng.
Anh Thạnh cẩn thận dặn dò Thiếu tá Lộc những điều cần thiết, sau đó lệnh cho anh Lộc thực hiện lệnh của Đại Bàng Thái Dương.
Anh Thạnh bỏ máy xuống và hỏi tôi:
- Như vậy là sao Tân An?
Tôi cười một cách tự tin:
- Có lẽ chúng ta phải lui quân mấy cây số, chờ đánh bom xong là tái chiếm đồi 1062, Đại Bàng yên tâm, số đạn dược trang bị chúng ta đã dư dùng, đánh lên xong sau đó trở lại lấy để tái trang bị và phòng thủ, phải không?
Anh Thạnh nghe thì nghe vậy, cũng như tôi khi nói thì nói vậy, nhưng trong lòng chúng tôi có quá nhiều thắc mắc và nghi ngờ.
Anh Thạnh vô cùng lo lắng, mà tính anh ấy là như vậy.
Thiếu tá Lâm tài Thạnh nhận được lệnh chỉ định về đảm nhiệm chức Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 9 TQLC thay thế Trung tá Huỳnh văn Lượm, và tôi được thuyên chuyển về để đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban 3/TĐ.
Thoạt đầu tôi do dự không muốn, vì chức vụ này tôi đã qua từ lâu rồi. Tuy nhiên sau khi suy nghĩ về lại Tiểu Đoàn của chính mình đã thành lập từ ngày đầu, tôi lại có cảm giác thích thú và tự nghĩ rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi thì thế nào cũng sẽ phải có sự thay đổi.
Từ giã Lữ đoàn 258 để về lại Tiểu Đoàn 9/TQLC, lúc đó đang đóng quân ở Chợ Cạn, quận Mai Lĩnh, Quảng Trị., tuy nhiều bạn bè đã thuyên chuyển qua những đơn vị khác như Trí, Cự, Tuấn ... song tôi cũng còn tìm lại được những người đàn em dễ thương như: Phán mập, Công, Quang và Ba Gà...cùng những người thuộc cấp cũ của tôi.
Thiếu tá Thạnh còn trẻ lắm, anh xuất thân từ khóa 17 trường Bộ binh Thủ Đức, tính tình ít nói, hiền lành nhưng nghiêm-nghị.
Trong vấn đề chỉ huy đơn vị, tôi phụ giúp anh một cách hiệu quả, tâm đầu ý hợp. Thực ra đối với tôi thì các Đại đội trưởng là cấp dưới đồng thời cũng là những người đàn em rất thân thiết và dễ thương, nên vấn đề điều đông chỉ huy cũng dễ dàng êm đẹp.
Anh Thạnh thường giao cho tôi thu xếp hầu hết những công việc nội bộ của Tiểu Đoàn như điều động, hành quân hay tổ chức giải trí cho đơn vị.
Anh Thạnh không yên tâm, anh hỏi lại tôi :
- Tân An nghĩ có đúng không ?
Tôi cười :
- Không chắc, cả hai chúng tôi cùng cười vui vẻ thoải mái. Lo chi, tất cả chuyện gì rồi cũng OK thôi.
Mọi lệnh lạc của Lữ Đoàn, chúng tôi đã thi hành xong và báo cáo về Lữ Đoàn lúc 6 giờ chiều.
***
6 giờ 30 chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975
- Tân An đây Thái Dương,
- Tân An nghe Đại bàng.
- Tôi muốn gặp Tây-Đô.
Anh Thạnh đưa tay cầm máy và ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh.
- Tây Đô nghe Đại Bàng.
- OK, Tây Đô lật tấm bản đồ và nghe cho kỹ.
Tôi giở tấm bản đồ đẩy tới trước mặt anh Thạnh.
- Sẵn sàng rồi Đại Bàng.
- Khi có lệnh, cánh B từ chỗ đóng quân di chuyển xuống và theo chân dãy Sơn Gà tiến về sông Túy Loan, cánh A di chuyển xuống Đại Lộc gặp BCH/Lữ Đoàn và nhận lệnh tiếp. Tất cả sẵn sàng khi có lệnh sẽ thi hành. Tây Đô có gì cần hỏi không ?
- Tây Đô đáp nhận 5, không Đại Bàng.
- Tân An anh cho mời Thiếu tá Lộc xuống đây .
- Vâng. Sau đó tôi gọi anh Lộc tới họp gấp.
Tiếng nói của Trung tá Đỗ hữu Tùng lạnh lùng và sắc như dao cắt, mặt anh Thạnh thoáng vẻ lo âu vì cái lệnh hành quân kỳ lạ này. Lần đầu tiên trong đời lính tôi nghe một cái lệnh lạ lùng và khủng khiếp.
Ôi ! Sao lại rút lui, rút về đâu, không lẽ kéo xuống Đà Nẵng lập phòng tuyến ngay giữa thành phố như Tết Mậu Thân hay lại chạy ra biển vội vàng lên tàu như các Tiểu Đoàn TQLC ở Huế, lại tiếp tục bỏ Quảng Nam, Đà Nẵng?
Suốt thời gian đợi chờ thi hành lệnh chúng tôi có cảm tưởng đang chờ lên đoạn đầu đài.
Bữa cơm chiều đã sắp sẵn trên bàn gần chổ ngủ của anh Thạnh.
Các anh Thạnh, Lộc và tôi vừa ăn cơm, vừa nói chuyện, vừa ra lệnh vừa dặn dò kế hoạch chuyển quân, chúng tôi đã thu xếp xong mọi việc. Từ giã anh Thạnh và anh Lộc trở về phòng máy làm việc với Phán và Quang, hai anh này đã có mặt đang ngồi chờ tôi.
Chào nhau xong Phán hỏi :
- Có tin gì vui không anh Ba?
- Có, chuẩn bị dọt.
Phán thực dễ thương miệng luôn cười hề hề:
- Tấn công đồi 1062 phải không, anh Ba?
Tôi nhìn Phán rồi nhìn Quang, cảm thấy tội nghiệp hai người đàn em, tôi bảo họ ngồi xuống. Tôi chỉ những tấm bản đồ mà Trung úy Sơn đã dán lên tường từ mấy hôm trước, những nét bút màu xanh, đỏ, đen ...dấu hiệu cuả trục tiến quân, điểm kiểm soát, Đại đội, Trung đội, Tiểu đội, chi chít :
- Vẽ vào bản đồ cẩn thận như Sơn đã vẽ trên bảng, sau đó tôi sẽ nói chi tiết, OK.
Quang và Phán lật bản đồ vừa vẽ vừa thì thầm nho nhỏ với nhau:
- Xong rồi anh Ba!
Dặn dò xong mọi chuyện tôi thở dài nói với Phán và Quang:
- Không biết có phải vội vàng triệt thoái như những Tiểu đoàn kia không, sao tôi nghi quá.
- Sao anh Ba nói nghe thê thảm quá vậy?
- Phán và Quang nghe đây “hãy cẩn thận lo cho anh em trong đại đội, các chú phải nhớ rằng, khi họ ra lệnh lui quân theo kiểu này có nghĩa là nước đến cổ rồi. Cầu mong sao cho Tiểu Đoàn chúng ta may mắn, an toàn”.
Tôi bắt tay Quang, bắt tay Phán:
- Về đi, nhớ cẩn thận.
Cho xe đưa các anh về lại tuyến đóng quân đại đội, còn một mình tôi ngẩn ngơ nhìn lên dãy núi Sơn Ga, những dãy núi chập chùng nối tiếp nhau chạy về cuối chân trời xa, giữa bóng chiều quạnh hiu.
Tôi trở về lều nằm lên võng đu đưa và nghĩ ngợi.
Hình như có điều gì đó không ổn hay một thứ gì đó sắp mất mát, tôi mơ hồ cảm nhận như vậy và miên man trong giấc ngủ quên.
***
12 giờ 10 khuya 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975.
Cuối cùng lệnh cũng đã tới, lúc đó 0 giờ 10 phút đêm 28 rạng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Anh Thạnh đứng lên anh cố vươn vai hít một hơi dài để có thêm chút sức mạnh và thở dài nói với tôi:
-Tân An, anh điều động và lệnh cho Tiểu Đoàn Zulu, bảo Đại đội trưởng chỉ huy lên gặp tôi.
-OK!
Tôi gọi Thiếu tá Lộc:
- Lộc Ninh đây Tân An.
- Lộc Ninh nghe Tân An.
- Lộc Ninh cho con cái sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng rồi Tân An.
- Cho Zulu, và báo cáo, kế hoạch không thay đổi.
- Nhận Tân An 5.
- Sơn, cho gọi ĐĐT chỉ huy lên gặp Thiếu tá.
Cánh B dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Lê văn Lộc men theo chân của dãy núi Sơn Gà và vùng làng mạc bên trái của trục lộ tiến về sông Túy Loan.
Còn cánh A gồm Đại đội 4 của Trung úy Lưu minh Quang dẫn đầu, đoạn hậu có Đại đội 2 của Trung úy Lưu văn Phán, di chuyển xuống chợ Đại lộc để gặp Lữ Đoàn.
Đúng 1 giờ khuya, cánh A đến điểm hẹn. Trước mắt tôi là một bãi đất trống, trong đêm đen tôi vẫn nhìn thấy rõ lỗm ngỗm cây, dây, poncho, thùng đạn, thùng gỗ pháo binh.
Tại vị trí cũ của Lữ Đoàn không một bóng người, chỉ chừng nấy thôi tôi cũng đã hiểu ra tình cảnh của chúng tôi trong hiện tại.
Anh Thạnh hỏi tôi:
- Sao vậy Tân An ?
Tôi buồn bực:
- Tôi không hiểu.
- Thái Dương đây Tân An.
- Thái Dương nghe.
Trong suốt đoạn đường di chuyển, cũng như tôi, dường như anh Tùng luôn luôn cầm ống liên hợp để điều động các đơn vị để cho đơn vị trưởng rãnh rỗi giải quyết các tình huống cấp bách.
- Thái Dương ở đâu vậy, ở đây không còn ai hết?
- Đúng rồi, anh cho tiến về sông Túy Loan sẽ gặp tôi.
- Đáp nhận.
Trong những lần di chuyển quân, tôi vô cùng thận trọng, lệnh cho Trung úy Quang chia thành 3 cánh. Trung đội cánh phải tiến trong bìa làng, Trung đội cánh trái dàn rộng về phía núi để tránh những tổn thất do địch quân phục kích.
Phán gọi máy cho tôi biết:
- Trình anh Ba, sau lưng chúng ta là Bộ Binh, Địa Phương Quân tùm lum chúng ta phải làm sao?
Tôi dứt khoát:
-Cố gắng điều động Đại đội của anh vững vàng, tuyệt đối không cho bất cứ ai xen lấn vào hàng quân. Cho Trung đội đi sau giữ khoảng cách xa Đại đội hơn. Hãy tiếp tục di chuyển, để cho các đơn vị bạn theo sau mà thôi.
Dù không nhìn, chúng tôi cũng dư biết một cái đuôi vô cùng luộm thuộm của các đơn vị bạn và dân chúng bồng bế chạy theo. Song biết làm sao hơn là cố gắng giữ vững chủ lực để khi cần lâm trận.
Trong đêm tối, mũi tiến quân vẫn vững vàng.
Không biết mình tới sông Túy Loan để làm gì, nhưng trong lòng chúng tôi vẫn luôn tin tưởng vào sức mạnh tuyệt đối của một Tiểu Đoàn TQLC thiện chiến, cho nên trên đoạn đường tiến quân thỉnh thoảng gặp những ổ phục kích việt cộng, các Trung đội bên cánh dập tắt lẹ làng.
Cuối cùng chúng tôi đã tới bờ sông Túy Loan. Trời vừa sáng, có chút nắng hồng ở phương Đông, chung quanh vẫn yên tỉnh, cái yên tỉnh cần cảnh giác nguy hiểm. Tôi cho lệnh các Đại đội bố trí và cẩn thận cho các trung đội yểm trợ nhau vượt sông an toàn, chỉ có những tiếng súng nổ từ thật xa của địch, tận trong các thôn xóm với vài viên đạn bắn xẽ, chẳng nghĩa lý gì.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vượt qua cầu Túy Loan, tạm chiếm trường học bên trái đường lộ và bố trí quân. Nơi đây chúng tôi vẫn không thấy bóng dáng cuả Lữ Đoàn. Anh Thạnh bảo tôi gọi Lữ Đoàn, tôi bốc máy gọi Trung tá Tùng:
- Thái Dương đây Tân An.
- Thái Dương nghe.
- Chúng tôi đến sông Túy loan rồi, Thái Dương ở đâu?
- Yên tâm, bây giờ tôi và Lữ Đoàn đang ở bên bờ sông, phía trên cầu De Lattre. Tân An nói với Tây Đô chỉnh đốn lại đơn vị và kiếm bất cứ loại xe nào, đem Tiểu Đoàn đến bờ sông Hàn tại tọa độ X.
- Thái Dương, tôi muốn hỏi.
- Tân An cứ hỏi.
- Thái Dương, chúng ta đi đâu vậy, ra tới bờ sông ai đón chúng tôi?
- Tân An yên tâm, khi ra tới đó sẽ có người đón. Chúng ta sẽ lên tàu về Cam Ranh.
- Trời ơi! Như vậy là chúng ta bỏ Đà nẵng, là mất đất phải không?
- Tân An nghe đây, bình tỉnh và làm đúng lời tôi dặn.
- Nhận rõ Đại Bàng trên 5.
Tôi nhìn anh Thạnh, chúng tôi lặng thinh, trong phút chốc kinh dị đó, tôi thấy hình như đất trời sắp vỡ vụn, hết rồi tất cả .
***
7 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Người lính mệt mỏi tuột 2 cái dây đai khỏi vai và đặt chiếc Balô trên cái bàn nhỏ của học trò, móc ra mấy hộp thịt “ba lát”, mở nắp và một bịch nylon đựng cơm, sắp vội tất cả lên bàn thầy giáo, xong đưa cho anh Thạnh và tôi mỗi người một cái muỗng sắt:
- Mời Thiếu tá và Đại uý ăn sáng.
Chúng tôi mỗi người cầm một hộp thịt và dùng muỗng xúc cơm trong bọc nylon, nuốt vội vàng qua bữa. Anh mời tôi điếu thuốc.
Anh Thạnh và tôi hội ý, anh sẽ ra bờ sông Hàn trước để gặp Lữ Đoàn, còn tôi tìm xe và điều động các Đại Đội ra sau. Anh Thạnh bắt tay tôi với vài lời dặn dò rồi lên xe đi trước.
Trời càng sáng, cảnh vật chung quanh càng rộn ràng, và mọi sự di động của người cùng xe cộ càng vôi vàng, không biết đi đâu, về đâu nhưng người ta cứ đi, cứ chạy.
Tôi bảo Hạ sĩ Hoàng hiệu thính viên cho mời ĐĐT/ĐĐ 4 và 1 lên gặp tôi.
Trung úy Quang, Trung úy Công vừa lên tới, Công chào và hỏi tôi :
- Mình đi đâu đây anh Ba?
- Ra Đà Nẵng, bây giờ Công và Quang cho đặt hai trạm gác trên đường chận tất cả các loại xe cộ và giữ lại, sau đó cho tôi biết có bao nhiêu xe, còn dân chúng cứ để người ta đi tự nhiên luôn cả các đơn vị bạn. Nhưng kiểm sóat canh gác cẩn thận, coi chừng VC lẫn lộn.
Công và Quang chào và trở lại Đại đội.
Cùng lúc đó, một cánh quân hỗn loạn vừa Bộ Binh vừa Pháo Binh từ Duy Xuyên chạy xuống. Đại đội 4 chận lại ngoài tuyến, ĐĐT chỉ huy đưa vào gặp tôi là một vị Đại tá (Tôi không nhớ tên, nhưng ông là Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn BB đóng ở Duy Xuyên), Trung Đoàn phó là Trung tá Khai và một Thiếu tá Sĩ quan Tham mưu.
Trung tá Khai chào và hỏi:
- Anh là Đơn vị trưởng?
- Không, tôi là Trưởng ban 3.
- Tôi là Tr/tá Khai, Trung Đoàn phó, bây giờ các anh đi đâu, có thể cho chúng tôi tháp tùng được không?
Tôi nhìn các anh, gật đầu, tôi biết anh là niên trưởng của tôi:
- Vâng.
Ông Đại tá Trung Đoàn trưởng tỏ vẻ giận dữ:
- Xin lỗi anh nghe, “đ… mẹ” chúng nó bỏ hết chúng ta rồi.
- Đại tá không nhận được lệnh gì sao?
- Xin lỗi Đại uý, lũ khốn nạn chẳng có lệnh lạc gì cả.
Tôi trấn an các ông:
- Đại tá và các anh yên tâm, theo chúng tôi.
- Bằng tàu hay máy bay?
- Tôi không rõ lắm, nhưng chắc là tàu thủy.
- Cho chúng tôi tháp tùng với.
- Vâng.
Chúng tôi đã dùng đoàn xe của Trung đoàn Bộ Binh, gỡ súng PB, rờ mọt để lại bên đường, tận dụng tất cả mọi loại xe, điều động các đại đội lên xe thẳng tiến về bờ sông Hàn mang theo những người lính đơn vị bạn.
- Tây Đô đây Tân An.
- Tây Đô nghe Tân An.
- Trình Đại Bàng, tất cả Tiểu Đoàn đã sẵn sàng trên xe, cho zulu được chưa?
- Cánh B có đủ xe không?
- Trình Đại Bàng, đầy đủ tất cả.
- OK, Tân an cho lệnh di chuyển, cẩn thận vì ở ngoài này vô cùng lộn xộn và đông người cũng như xe cộ trên đường; tôi đang ở ngang ngã 3 Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm.
- Đáp nhận 5, Đại Bàng yên tâm, tôi sẽ đi trước dẫn đường.
- Lộc Ninh đây Tân An.
- Lộc Ninh nghe đây, Tân An cho qua.
- Tôi bắt đầu di chuyển, Lộc Ninh cứ để Ba Xuyên bố trí sau đó chừng nữa giờ cho lên xe và tiếp tục di chuyển. Khi bắt đầu khởi hành Lộc Ninh cho biết, OK.
- Nhận Tân An trên 5.
Đoàn xe di chuyển vô cùng khó khăn trước cảnh hỗn loạn của dân chúng, các đơn vị của Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, và Thương phế binh ở Bệnh viện Duy Tân.
Gần 11 giờ trưa Cánh A mới tới được bờ sông Hàn.
Tôi và anh Thạnh gặp nhau ở đây.
Anh Thạnh bảo:
- Chẳng gặp ai hết, không ai đón, chẳng ai đưa, Tân An hãy liên lạc với Lữ Đoàn xem.
Đến giờ này tôi đã hiểu ra mọi chuyện, chúng tôi cho lệnh các Đại đội bố trí rộng bên bờ sông để tránh đạn pháo kích của địch đổ xuống từ phía Ngũ Hành Sơn, cũng như ngăn chặn địch tấn công từ phía sau. Cường độ pháo kích của địch càng lúc càng gia tăng và tương đối chính xác.
Tôi dục anh Thạnh qua sông trước để điều động Đại đội 4 tiến lên bờ bên kia, vì ở đây quá sức nguy hiểm. Có một điều may mắn là chưa ai bị thương.
Một số anh em binh sĩ của Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thuỷ Bộ TQLC còn ở lại điều hành những chiếc xuồng máy đưa chúng tôi lần lượt qua sông. Chúng tôi tận dụng thêm tất cả thuyền máy, và luôn cả ghe thuyền trên sông để làm phương tiện vượt sông Hàn.
Tôi gọi Trung tá Tùng;
- Thái Dương đây Tân An.
- Nghe Tân An tốt, tới đâu rồi?
- Trình Đại Bàng chúng tôi tới được bên này sông Hàn.
- Tốt, anh có gặp một tiểu đội của Hà Nội (danh xưng của Thiếu tá Hợp) đón ở đó không?
- Không.
Tôi nghe tiếng nói của anh Tùng trong ống liên hợp và chiếc loa nhỏ gắn trên máy PRC25 không được rõ ràng, lẫn lộn với một loại âm thanh thực quen thuộc - hình như tiếng cánh quạt của trực thăng hay tiếng sóng biển vỗ vào mạn tàu.
- Thái Dương đang ở đâu, trên máy bay hay tàu thủy?
- Sao Tân An lại hỏi vậy?
- Vì tôi nghe có tiếng quạt đập gió hay tiếng oằm oặp của sóng.
- Không tàu cũng chẳng máy bay, đó là tiếng sóng vỗ bên bờ biển.
Tôi nghe tiếng la rất lớn cuả Trung tá Phúc:
- Cho Tân An ngay tần số của Hợp và Hợp có bổn phận đón Tiểu đoàn 9.
- OK, OK. Tân an đây Thái Dương - hảy ghi xuống tần số này và liên lạc với Hà Nội, để Hà Nội thu xếp đón Tiểu Đoàn 9 lên tàu..
- Đáp nhận Đại bàng 5.
- Chúc may mắn...
Ầm,.. bỗng tôi nghe trong máy một tiếng nổ rất lớn, cắt ngang tiếng nói của anh Tùng...và chấm dứt cuộc đối thoại.
Đó là lần nói chuyện sau hết của chúng tôi với Trung tá Đỗ hữu Tùng, (trên đọan đường di chuyển từ Đại Lộc đến bờ sông Hàn, thỉnh thoảng Trung tá Phúc cũng có lên tiếng, nhưng rất ít chắc anh qúa bận rộn).
Các anh là những cấp chỉ huy trực tiếp từ ngày đầu tôi về đơn vị (Tiểu Đoàn 5/TQLC với danh hiệu Hắc Long), và cũng là những người Niên trưởng khả kính cùng xuất thân từ trường Mẹ, Trường Võ Bị Đà lạt.
Trong suốt những năm tháng chiến trận, chúng tôi có nhiều thời gian sống gần gũi, tôi cũng đã nhiều lần là thuộc cấp của anh Tùng từ lúc làm Trung đội trưởng thì anh Tùng là Đại đội trưởng. Khi về làm Trưởng ban 3 /LĐ 258, anh Tùng là Lữ Đoàn phó.
Ngoài cuộc sống thứ tự cấp bậc, tôi và anh có nhiều dịp tâm sự về đời sống và gia đình. Nên tuy là Đơn vị trưởng, song anh xử sự với tôi như người anh, nhất là thời gian chúng tôi cùng ở LĐ-258 của Đại tá Ngô văn Định.
Tôi đã liên lạc được với Thiếu tá Trần văn Hợp danh hiệu Hà Nội, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2/TQLC, xuất thân từ khóa 19 Đà Lạt.
Anh cho biết hiện anh đang ở trên Đại hạm 810 của Hải quân, chỉ huy toàn bộ TQLC đang ở trên đó, còn người hạm trưởng thì tôi không biết tên nhưng anh Hợp cho biết tần số của máy và danh xưng là Nam Hổ, tôi ghi xuống cẩn thận những chi tiếc này.
Tôi báo cho Tây Đô biết điều này và hẹn với anh Hợp chúng tôi sẽ cố chiến đấu.
Anh Hợp hỏi chúng tôi:
- Liệu được bao lâu, Tân An?
- Có thể 2, 3 ngày hay lâu hơn. Tôi trả lời một cách tin tưởng.
Anh Hợp bảo:
- Cố chiến đấu, chừng 9 giờ tối Clear bãi và pick up.
- OK, cám ơn Hà nội.
Đó là một sự hẹn hò vô cùng quan trọng trong đời tôi, nhưng tiếc thay sự hẹn hò này đã không đến và chẳng bao giờ đến cả.
Chúng tôi đã mất hẳn liên lạc với anh Hợp từ lúc 3 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Sau đó tôi qua tần số của Nam Hổ, nhưng cũng không nhận được một tín hiệu nào cả.
Sự thật, mọi chuyện đã và đang xẩy ra trước mắt, nỗi hy vọng đưa đơn vị lên được con tàu để ra khơi hay tìm một lối thoát nào đó, để đơn vị được vẹn toàn là điều vô tưởng, không thể làm được.
Tôi linh cảm rằng trong tình cảnh này, không còn ai muốn bị ràng buộc bởi cái quyền chỉ huy, lãnh đạo nữa mà có lẽ người ta đang chọn việc đào thoát cho bản thân là chính.
Tôi nghĩ vậy và lấy lại sự bình tỉnh.
Sự bình tỉnh bây giờ là một yếu tố rất cần thiết cho đơn vị. Những nóng giận, lo lắng, căm hờn trong lòng đã chìm xuống bởi vì trước sau rồi cũng chỉ một lần. Tôi đã lựa chọn con đường cho tôi, suốt hơn 7 năm quay cuồng trong chiến trận, từng phút từng giây giữa hiểm nguy chết chóc vây quanh, giờ đây chẳng cần phải nghĩ vẫn vơ cho mất thì giờ.
***
12 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975
Đại đội 4 qua sông trước, Trung úy Quang báo cáo:
- Trình anh Ba không có một đơn vị nào đón Tiểu Đoàn mình hết.
Thực ra đến giờ phút này chúng tôi đã cảm thấy thấm thía mọi vấn đề. Tôi bảo Quang cứ tiến quân lên khỏi bờ sông chừng 500 mét và bố trí, chờ chúng tôi qua sông. Trong lúc đó, pháo của Việt cộng điều chỉnh vào vị trí bờ sông tương đối chính xác, những quả đạn pháo kích từ hướng Non Nước rót xuống liên tục. Giữa khoảng trống mênh mông này, có tránh cũng vậy mà không tránh cũng rứa thôi, chỉ làm rối loạn thêm hàng ngũ.
Anh Thạnh qua sông trước và ngồi chờ chúng tôi.
Tôi vừa lên bờ, anh nói :
- Tân An, không có ai ở đây hết. Anh hãy gọi Lộc cho biết đã tới đâu và tình hình như thế nào?
- Vâng.
Anh Lộc gọi cho biết:
- Vừa tới bờ sông với Đại đội 3 đang cho bố trí, địch quân lợi dụng vào dân chúng để tấn công vào đằng sau, chúng tôi không thể qua sông được.
- Thẩm quyền cho củng cố vị trí và phản công, không cần qua sông vội, bên này chúng đang pháo kích.
- Đáp nhận Tân An.
Lần lượt Đại đội 4, 1, 2 và BCH Tiểu Đoàn đã qua sông.
Từ bến sông vừa lên tới lộ nhựa, chúng tôi thấy ngay cảnh hỗn loạn của một số binh sĩ của Đại đội 4 đang chạy ngược trở lại, trên đầu không nón sắt, vai không balô.
Trung úy Quang cho biết phía trước địch quân pháo kích dữ dội, dân chúng cùng một số đơn vị khác đang chạy hỗn loạn.
Tôi bảo Quang :
- Chấn chỉnh ngay hàng ngũ, không được tán loạn, cho dàn phòng tuyến rộng về bên kia đường, bố trí mặt Đông và Nam.
Anh Thạnh và tôi hội ý:
1- Kể từ giờ phút này không còn trông chờ vào một sự tiếp ứng nào khác.
2- Tìm một vị trí tốt phòng ngự để bảo toàn đơn vị.
3- Thiếu tá Lộc và Trung úy Ba, lo điều động Đại đội 3.
Thực sự, trên khắp đất nước từ biển đến núi và những vùng quê xa xôi hẽo lánh, cho đến miền đầm lầy tận cùng Cà Mâu, Năm Căn … gần như bước chân chúng tôi không thiếu nơi nào, nhìn vào tấm bản đồ thành phố, chúng tôi cảm thấy xa lạ bởi chiến trận thực hiếm khi xảy ra tại nơi thành thị như lần này.
Sau khi định hướng và xác định điểm đứng, chúng tôi đồng ý kéo quân lên phía Bắc của phi trường Non Nước, ở đó có nhiều khu nhà đồ sộ, cạnh bờ biển.
- Phương Dung đây Tân An.
- Phương Dung nghe anh Ba.
- Phương Dung kiểm điểm con cái xong, cho di chuyển tới điểm X, bố trí, mặt quay ra biển hướng Đông. Hãy báo cáo cho biết khi bắt đầu di chuyển.
- Đáp nhận.
Sau khi chấn chỉnh đội hình một cách nhanh chóng, Đại đội của Phán bắt đầu di chuyển, kế tiếp tới Đại đội 1 của Trung úy Công, BCH/TĐ và Đại đội 4 của Trung uý Quang bao chót. Khi tới nơi, chúng tôi mới biết đây là khu Chủng viện Thiên Chúa và những nhà nuôi trẻ em rộng lớn.
Chủng viện Sơn Trà là 1 khu kiến trúc đồ sộ, có khoảng 4, 5 dãy nhà lầu liên tục, nằm thành hình chữ nhật chung quanh có hàng rào cao, cột đúc kiên cố, căng lưới chống B40. Trong thế trận cấp bách như hiện tại, không thể nào tìm được một vị trí tốt hơn được. Phía Đông quay ra bãi biển, cách bờ nước chừng 200 mét, phía Nam là khoảng trống mênh mông tiếp giáp với phi trường Non Nước, phía Bắc là khu dân cư chài lưới, công sở đằng xa về phía Tây.
Toàn bộ khu vực là đất pha cát, việc đào hầm hố và giao thông hào tương đối dễ dàng mau lẹ với xạ trường rất lý tưởng.
Thiếu tá Thạnh đồng ý tổ chức phòng ngự trên vị trí này.
Hệ thống phòng thủ như sau :
1- Đại đội 2: Phòng thủ phía bãi tắm, quay mặt về biển Đông, quan sát tàu bè.
2- Đại đội 1 và 4 lập thành hình chữ L quay về phía Nam và Tây.
Chúng tôi dự tính: phía Nam và Tây sẽ phải đối đầu chính diện với địch.
- Chúng tôi vừa tiếp nhận một số quân nhân của Tiểu Đoàn 6/TQLC do Đại úy Hồ ngọc Hoàng dẫn đầu. Tôi sắp xếp để toán quân của anh Hoàng tạm phòng thủ về mặt Bắc.
Riêng Đại đội 3 của Trung úy Trương văn Ba (chúng tôi gọi đùa là Ba Gà) và Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Lê văn Lộc bị kẹt bên kia sông Hàn, không thể qua được.
Trong những giây phút sau cùng anh Lộc và Ba đã cho chúng tôi biết rằng Đại đội 3 đang phòng thủ bên bờ sông thì địch tấn công và pháo kích dữ dội.
Anh Lộc bảo:
- Nằm ở đây chỉ làm bia cho chúng bắn và pháo, lưng dựa vào bờ sông kẹt qúa ...
Anh Thạnh cho lệnh:
- Lộc và Ba tự lo liệu lấy, cố gắng chiếm vị trí tốt để giảm thiểu thiệt hại cho đơn vị.
Chừng nữa giờ sau, anh Lộc đã gọi tôi:
- Tân An đây Lộc Ninh.
- Nghe thẩm quyền.
- Chúng tôi đang lui dần về phía cầu De Lattre, không thể tiến được nữa vì bị những con sông nhỏ, không qua được.
- Tân An, Tân an ...
Tôi nghe những tiếng kêu la vội vàng trên máy và từ đó mất liên lạc với cánh quân này.
(Sau này, khi các anh được địch thả ra từ Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, tôi gặp lại anh Lộc và Ba. Các anh đã kể lại cho tôi nghe những biến cố xảy ra trong ngày hôm đó như sau: Đại đội 3 không thể chịu nổi sức tấn công của địch vì tuyến phòng thủ tạm thời của Đại đội quá chênh vênh không thế dựa, lại nữa pháo của địch rót xuống liên tục trong khi đó binh sĩ không nơi trú ẩn tránh pháo kích, các anh đã cho lệnh rút dọc theo bờ sông về hướng Đông, phía cầu De Lattre, nhưng kẹt phải mấy con sông, một số binh sĩ đã chết đuối. Cuối cùng, Đại đội 3 đã tan hàng).
Tại Chủng viện Sơn Trà, các Đại đội đã thiết lập xong hệ thống phòng thủ. Chúng tôi cảm thấy rất vừa ý sau khi đi kiểm soát một vòng chung quanh.
Có lẽ đây là một vị trí chiến đấu lý tưởng.
Chúng tôi đã chọn sẵn sàng cho mình một trận địa để sửa soạn cho một cuộc chiến đấu cuối cùng của những người lính trận.
Là cấp chỉ huy, chúng tôi thừa biết rằng từ giây phút này tứ bề là địch, cuộc chiến đấu của chúng tôi sẽ là đơn độc, tuyến phòng thủ không đường triệt thoái, không có bất cứ một sự tiếp ứng hoặc yểm trợ hỏa lực nào của các lực lượng bạn. Chúng tôi sẽ phải chiến đấu cho đến khi bị tiêu diệt.
Có một điều chắc chắn rằng địch cũng sẽ phải trả một giá rất đắt khi chúng tôi còn hơi thở và ý chí chiến đấu.
Ban Chỉ Huy ngồi rải rác chung quanh, tôi ngồi trên bậc cấp cuối của Chủng viện, còn anh Thạnh tựa lưng vào chiếc cột đúc nghỉ ngơi.
Thói quen trong những giây phút gay go chỉ có khói thuốc làm cho tâm trí tỉnh táo và sáng suốt ra; hai chúng tôi ngồi hút thuốc liên tục.
- Thưa Đại úy, có Bác sĩ Túy xin trình diện.
Tôi quay lại nhìn người lính truyền tin, Hoàng quay mặt về phía cổng vào, tôi nhìn theo thấy BS Túy đang đứng ở đó, tôi đưa tay ra hiệu cho anh tiến về phía chúng tôi:
- Thiếu tá, có BS Túy muốn xin trình diện.
Anh Thạnh gật đầu, tôi chỉ BS Túy lại trình diện Thiếu tá Tiểu Đoàn trưởng.
Bác sĩ Túy, người Bác sĩ quân y mới thuyên chuyển về Tiểu đoàn được hơn 1 tháng, dáng anh nhỏ và hiền lành, ít nói. Anh có vẻ khép nép, chậm chạp tới trước mặt anh Thạnh đưa tay chào và trình bày hoàn cảnh của anh:
"Quê anh ở quận Duy Xuyên. Anh có người mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ, không biết bây giờ gia đình ra sao và lưu lạc về đâu. Anh vô cùng lo lắng và muốn xin phép chúng tôi được trở về quê tìm me, vợ và các con".
Nhìn cảnh hỗn loạn của dân chúng từ những ngày trước còn ở Đại Lộc, cũng như trên trục tiến quân cho đến hôm nay chúng tôi đã hiểu rất rõ tâm trạng vô cùng hoang mang, đau khổ của thuộc cấp. Chúng tôi rất thông cảm hoàn cảnh của họ, nhất là dối với những người có gia đình, cha mẹ, vợ con, anh chị em ở vùng này.
Không, chúng tôi không trách gì BS Túy, không trách anh thiếu tinh thần trách nhiệm, bởi vì những người đáng lẽ có trách nhiệm hơn anh, trách nhiệm to lớn hơn anh cũng đã im hơi lặng tiếng trốn chạy, bỏ lại những đại đơn vị to lớn cấp Quân đoàn, Sư đoàn, không chút tiếc thương, không xấu hổ, ngại ngùng, huống gì anh.
Tuy nhiên chúng tôi cũng không muốn hình ảnh của anh có thể gây nguy hiểm cho đơn vị trong giờ phút hiện tại, nên tôi nói với anh Thạnh:
- Chấp nhận đi Thiếu tá,
Anh Thạnh bảo với BS Túy :
- Tùy anh.
Nhưng BS Túy lộ vẻ sợ hải, vì có thể anh đang mang mặc cảm phạm tội qúa lớn, tội này có thể bị bắn bỏ ngay ngoài mặt trận. BS Túy cúi nhìn xuống đất.
Tôi biết rất rõ về người Tiểu Đoàn trưởng của chúng tôi. Sau dáng mặt lạnh lùng đó, anh rất hiền lành và nhân đạo, đôi khi vì giầu tình cảm khiến anh trở nên yếu đuối.
Tôi biết trong phút giây này anh Thạnh đang có quá nhiều âu lo, buồn phiền.
Tôi quay lại nói với BS Túy :
- Anh Túy cứ yên tâm đi đi, hãy cẩn thận khi ra khỏi hàng rào, ngoài đó là chỗ loạn quân, hỗn quan. Chúng tôi mong anh tìm lại được gia đình.
BS Túy chào anh Thạnh và tôi cùng giã từ những người đồng đội quân y và anh đi về phía khu làng chài lưới. Từ đó chúng tôi không bao giờ còn gặp lại người đồng đội đó nữa.
Anh Thạnh ngồi xuống bậc cấp và đưa tay nắm dây 3 chạc của tôi kéo xuống ngồi bên cạnh anh và móc gói thuốc mời tôi và nói nhỏ:
- Bây giờ trong đơn vị mình đa số là người miền Nam, họ có gia đình ở trong Nam, còn một số anh em miền Trung cũng tội nghiệp như BS Túy. Chúng ta có nên gọi họ lên đây để nói như đã nói với BS Túy không Tân An?
- Thiếu tá nói cũng đúng. Trận đánh sắp tới đây đương nhiên là một mất một còn, có thêm một số anh em hy sinh nữa cũng vậy thôi. Theo tôi cho tập họp tất cả Đại đội trưởng, Trung đội trưởng, Tiểu đội trưởng, chúng ta ra lệnh và các anh ấy về phổ biến lại.
- Đồng ý. Anh Thạnh gật đầu.
Tôi gọi Trung úy Sơn, người Sĩ quan phụ tá :
- Sơn cho gọi toàn thể các cấp từ Tiểu đội trưởng đến Đại đội trưởng lên họp khẩn cấp; giao tuyến phòng thủ cho các cấp phó, hãy cẩn thận.
Trung úy Phán tập họp các cấp cán bộ, trình diện lên tôi.
Sau khi kiểm soát lại xong xuôi tôi trình diện cho anh Thạnh.
Anh Thạnh đứng trên bậc cấp của Chủng viện, anh cúi đầu thực lâu, hai vai anh rung lên.
Cuối cùng anh ngẫng lên nhưng anh không nói được.
Sự tủi nhục và đau đớn làm anh uất nghẹn, anh cố nuốt xuống, nhưng trên đôi mắt đã tràn đầy nước mắt, anh bước thật nhanh về phía cột trụ và úp mặt lên hai bàn tay, anh lắc đầu, giọng nói đầy nước mắt :
- Tân An, tôi không nói được.
Toàn thân tôi rung động, những cảm giác chai lì của chiến trận bổng phút chốc tan biến. Đầu óc tôi thực mơ hồ và bồng bềnh, tôi nghiến chặt hàm răng, cố nuốt những giọt nước thật mặn chạy xuôi về sâu trong lòng. Tôi bước tới trước hàng hiên, ngẫng đầu lên thật cao, vì tôi biết rằng khi tôi cúi thấp xuống, tôi sẽ không dấu được những giòng nước mắt đau đớn như anh Thạnh. Hơn nữa Tiểu đoàn này là đứa con do chính chúng tôi đã cưu mang từ ngày 20 tháng 4 năm 1970, từ ngày thành lập cho đến hôm nay vừa đúng 5 năm.
Tôi hít một hơi dài và nói lớn :
- Tất cả anh em Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ nghe đây, chúng tôi không còn dấu diếm bất cứ một điều gì nữa. Từ Đà Nẵng đến Quảng Trị tất cả mọi đơn vị đã tan hàng, Tiểu Đoàn 9 TQLC chúng ta là đơn vị duy nhất còn lại, và trận đánh sắp tới đây là trận tử chiến, chẳng thể lùi bước để về đâu được nữa. Do đó, nhờ các bạn về thông báo lại cho tất cả anh em binh sĩ, ai muốn tình nguyện chiến đấu hãy ở lại, còn ai muốn về với gia đình, không chiến đấu cứ yên tâm rời khỏi nơi này chúng tôi không ép buộc. Riêng bản thân chúng tôi quyết ở lại chiến đấu, sống chết với Tiểu Đoàn 9 TQLC đến phút cuối cùng.
Tôi cố nói tiếp để khỏi bị xúc động khi ngừng lại:
- Bảo anh em trung đội quân y chia riêng cho mỗi cá nhân một bịch nylon trong đó gồm thuốc đau đầu, đau bụng, thuốc sốt rét, băng cá nhân, băng keo …cùng những thứ nào các bạn thấy cần thiết cho anh em binh sĩ trong khi thoát hiểm mưu sinh.
Cuối cùng tôi hét lên:
- Hết!
Tôi định quay mặt đi nhưng Phán mập đã tiến tới trước tôi, anh đưa tay gỡ chiếc kính cận, cũng như tôi, nước mắt anh đã đong đầy trên mắt kiếng, anh chỉ nói được vài tiếng nho nhỏ:
- Anh Ba, anh Ba! và anh quay lại hàng quân đưa cao tay hô lớn:
- Tiểu đoàn 9 quyết tử thủ!
Và tất cả anh em la lớn:
- Chúng tôi quyết tâm ở lại chiến đấu.
- Thôi cho anh em trở về lo tuyến phòng thủ và sửa soạn tất cả mọi chuyện chúng tôi đã căn dặn.
BCH/Tiểu đoàn di chuyển lên lầu 1 để dễ quan sát và điều động các đơn vị chiến đấu. Ban lệnh cho mọi người ăn cơm, nước cho mau để còn sẵn sàng đối phó với đợt tấn công của địch.
***
2giờ 40 ngày 29 tháng 3 năm 1975
Từ Đại đội 1, Trung úy Công báo cáo về Tiểu Đoàn :
- Xa xa về hướng phi trường chiến xa địch xuất hiện cùng với cờ mặt trận giải phóng.
Từ Đại đội 4 Trung úy Quang cũng cho biết:
- Thiết giáp địch đang tiến về phía chúng ta.
Anh Thạnh cầm máy nghe và bảo tôi:
- Tân An lên lầu quan sát thử coi.
Tôi nắm cây XM.16 và dẫn theo một người lính truyền tin đi thẳng lên sân thượng của chủng viện rộng lớn để quan sát rõ hơn.
Đưa ống nhòm về hướng phi trường những cuộn bụi và khói kẻ thành từng hàng bốc lên cao, đoàn thiết giáp địch chừng 5, 6 chiếc giăng hàng ngang chậm chạp tiến về phía chúng tôi. Tôi cười thầm trong bụng: “Cuối cùng thì chúng mày cũng tới”.
Chưa bao giờ tôi thấy vui và tỉnh táo như lúc này.
Nhìn vòng tuyến phòng thủ từ trên cao thật vững vàng, tôi yên tâm xuống gặp anh Thạnh, anh Thạnh hỏi:
- Tân An thấy sao?
- Trình Đại Bàng chiến xa địch có treo cờ mặt trận đang tiến về phía chúng ta, không còn xa .
Anh Thạnh gọi cho các Đại đội sẵn sàng chiến đấu.
Tôi vui vẻ thấy dáng mặt nghiêm trang của anh có chút ít xúc động.
Có lẽ từ ngày về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9/TQLC đây là trận đánh đầu tiên của anh. Nhưng chúng tôi không ngờ đó cũng là trận chiến sau cùng của anh Thạnh trong chiến trận. Anh đứng lên, tay nắm cây súng phóng lựu M.79 đi tới đi lui trong phòng; các đại đội 4, và 1 báo cáo về tới tấp.
Tôi bảo:
- Vững tâm, thấy VC thì nhắm bắn từng đứa cho chính xác. Còn thiết giáp tới gần dưới 50 mét ống phóng hỏa tiển và đại bác lo liệu. Chúng khó có thể xông vào đây được.
Thực ra, tôi cũng như anh Thạnh, chúng tôi có cùng cảm giác và sự nghĩ ngợi. Trong những giây phút ngắn ngủi đó, biết bao ý niệm phức tạp dấy lên trong đầu về đơn vị, gia đình, người thân và người yêu, nhưng rồi cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì.
Cuộc chơi nào rồi cũng đến lúc kết thúc, kết thúc bất cứ bằng cách nào. Có lúc tôi và anh Thạnh nhìn nhau cùng cười, cái cười thú vị của những con người đã chai lì đang tìm ra được một lối đi, một cái cười chấp nhận.
***
3 giờ 15 ngày 29 tháng 3 năm 1975
Những loạt đạn nổ đầu tiên khai mào trận đánh, những loạt đạn địch bay qua lưới sắt đục lỗ lên tường, kẽ những vạch vô hình trong không khí, những quả đại bác phóng đi từ thiết giáp nổ ầm ầm chung quanh, như pháo tết. Ngoài tuyến phòng thủ bắt đầu chống trả.
Chung quanh tôi vang dội những tiếng reo hò trên trận tuyến, tiếng reo hò qua những chiếc loa máy truyền tin PRC-25, cùng với tiếng la hét của những người dân vô tội với vô số trẻ con đang kẹt trong chủng viện vì những trái đạn lớn rơi và nổ ngay giữa sân chủng viện.
Chính những tiếng khóc, tiếng réo gọi nhau thất thanh, chính những âm thanh này đã khiến chúng tôi nao núng.
Trên trận tuyến với khả năng chiến đấu của đơn vị, tôi nghĩ có thể giữ nổi, dù rằng không thể được lâu dài, nhưng ít ra cũng được vài ba ngày.
Từ lúc đó, đạn pháo cỡ lớn, đổ xuống sân Chủng viện dày đặc hơn. Sau những tiếng nổ long trời lở đất là tiếng la hét và khóc thét của đàn bà và trẻ con, tôi vội phóng lên sân thượng, nhìn tình hình chung quanh thầm nhủ: “không sao hết, chúng mày còn lâu mới chiếm được”.
Thỉnh thoảng hai Đại đội trưởng Công và Quang báo cáo. Cuộc chiến đấu vẫn tốt đẹp. Những đợt tấn công của bộ binh địch bị đẩy lui dễ dàng, trên bãi cát mênh mông, những xác người gục ngã và chưa có một chiến xa nào của địch xông vào được ngoại trừ vài chiếc đã bốc cháy, bốc khói đen mù mịt vì đạn M72 và đại bác của ta.
Trận đánh tiếp tục, đạn pháo binh và đạn đại bác từ chiến xa dập vào càng lúc càng dày đặc hơn, tiếng la khóc vang trời từ dưới những căn nhà đồ sộ của Chủng viện.
Người truyền tin đưa máy cho tôi và bảo:
- Anh Ba, Trung úy Phán muốn gặp.
- Phương Dung, Tân An nghe đây .
- Trình anh Ba, có 2 chiếc tàu lớn xuất hiện ngoài khơi, anh Ba có thấy không?
Tôi bảo Phán chờ, tôi đi về cuối hành lang của dãy lầu, qua khoảng trống nhìn ra biển đông mênh mông tận chân trời, trên cái mặt thảm phẳng mà xanh đó, tôi thấy có 2 chấm đen xuất hiện tận chân trời, tôi bảo người lính cho tôi cái ống nhòm, tôi nói nhỏ: “Đúng 2 chiếc tàu có lẽ đang di chuyển về hướng chúng tôi.”
- Phương Dung đây Tân An, đúng là 2 chiếc tàu lớn.
- Anh Ba có cho lệnh gì không ?
- Chờ đó!
Tôi trở lại căn phòng chỉ huy, hỏi ý kiến anh Thạnh, anh Thạnh xúc động mạnh, anh nói với tôi:
- Anh cứ nói với Phán quan sát và theo dõi kỹ lưỡng và báo cáo.
- Vâng.
Tôi lập lại với Phán ý kiến của anh Thạnh, sau đó gọi Đại đội 1, 4 cho biết tình hình, Công và Quang đều cười và trả lời dứt khoát:
- Anh Ba yên tâm lớn, mấy con chuột này chưa làm gì được đâu.
Tôi thở dài! Không biết trong giây phút này Công và Quang có hiểu gì về thế trận này không? Ôi thực buồn lòng, những người chiến hữu thuộc cấp cũng là những thằng em thân thương như ruột thịt, họ đã sống với tôi trong chiến trận từ ngày đầu mới ra trường về lập đơn vị cho đến những cuộc vui chơi thâu đêm suốt sáng sau ngày hành quân trở lại phố thị, kéo nhau đi nhảy đầm, nghe nhạc, nhậu nhẹt, chúng tôi quây quần sống với nhau qua hết buồn vui cuộc đời lính trận. Giờ này đây là sự sống và cái chết - niềm mơ ước hay nỗi tuyệt vọng, tất cả đang quay cuồng trước mắt.
Chung quanh đây chẳng còn ai, chẳng còn ai liên lạc với chúng tôi, và có lẽ cũng chẳng còn ai biết được tận miền trung xa xôi này còn có một đơn vị đang cố chiến đấu, dĩ nhiên là tìm cái sống song cũng là cuộc chiến đấu để “định nghĩa” cho người ta hiểu thế nào là trách nhiệm của người lãnh đạo chỉ huy, thế nào là trách nhiệm đối với đất nước và đối với thuộc cấp.
Tôi không hề bi quan, tôi không được bi quan, vì chẳng còn gì nữa để mà bi quan? Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng. Nhưng trong tình cảnh này mưa sẽ chẳng bao giờ dứt, khi mà sự chiến đấu của chúng tôi còn tiếp tục - nó chỉ dứt khi con Mãnh Hổ chịu nằm yên, không còn hơi thở.
Thứ chiến đấu của người lính chiến đang làm tròn sứ mạng đối với đất nước. Họ biết một cách chắc chắn rằng không bao giờ và chẳng bao giờ có bổng lộc nào cho cá nhân họ như cấp bậc, chức vụ, thăng thưởng. Họ đang chiến đấu lần cuối cùng với đầy ý nghĩa của một đời làm lính trận....
Tôi cầm ống liên hợp gọi trên tần số mà anh Hợp đã cho:
- Nam Hổ, Nam Hổ đây Tân An.
- Hà Nội đây Tân An.
Chẳng có ai trên tần số này nữa, tại sao? Họ đã đi đâu? Về đâu? Trên mặt biển xanh, hai chiếc tàu lớn dần, cho đến lúc chúng tôi có thể nhìn thấy buồng lái và cột cờ.
Phán mập dồn dập xin lệnh, tình hình trở nên căng thẳng.
Liên tiếp mấy tiếng đồng hồ súng nổ, pháo dập, chiến xa địch tấn công, không làm cho chúng tôi lúng túng. Nhưng bây giờ nhìn thấy hai chiếc tàu này xuất hiện một cách lạ lung mà mình vẫn không bắt liên lạc được trên máy truyền tin đã khiến đầu óc chúng tôi rối tung.
Anh Thạnh và tôi bàn tính:
- Không lẽ hai chiếc tàu đã bị địch chiếm chạy vào đây dẫn dụ mình?
- Còn nếu sự thực tàu vào đón tại sao lại không liên lạc được?
- Mà lỡ tàu vào đón thiệt và chúng tôi bỏ qua cơ hội này thì tai hại biết chừng nào!
Tôi kiên nhẩn gọi Hà Nội và Nam Hổ thêm mấy lần nữa, nhưng tuyệt nhiên không một tiếng trả lời. Càng về chiều địch quân càng tấn công dữ dội.
Anh Thạnh hỏi tôi:
- Tân An coi được chưa, ra lệnh cho Phán!
Tôi nhìn anh Thạnh và thầm nói với mình:
- “Có bao nhiêu lần như thế này trong cuộc đời chúng ta?”
Tôi nhìn ra hành lang, hai chiếc tàu lớn chỉ còn cách bờ nước chừng gần cây số, tôi nghiến chặc răng và gật đầu đồng ý với anh Thạnh:
- Phương Dung đây Tân An.
- Phương Dung nghe anh Ba.
- Cho con cái chuẩn bị, khi có lệnh sẽ rời Chủng viện và phóng nhanh ra tàu.
- Nhưng còn cái hàng rào vững chắc này thì làm sao?
- Phương Dung cho tất cả binh sĩ leo lên dằn nó xuống. Nghe rõ không?
- Đáp nhận anh Ba !
Và chiếc tàu chỉ còn cách bờ khoảng vài trăm mét, tôi gọi Phương Dung:
- Hạ ngay hàng rào và phóng ra tàu.
- Đáp nhận anh Ba, thi hành ngay.
Từ trên tầng lầu hai của Chủng viện, giữa tiếng đạn pháo của địch, lẫn tiếng reo hò của quân ta, chúng tôi còn nghe một tiếng Ầm...thực lớn, hàng rào của Chủng viện đã bị Đại đội 2 đạp sập. Sự điều động của Phán không còn hiệu quả, binh sĩ di chuyển không còn hàng ngũ, chẳng yểm trợ, thi nhau chạy nhanh về bãi nước.
- Hồng Hà đây Tân An .
- Hồng Hà nghe thẩm quyền.
- Hồng Hà, anh cho con cái xuống tàu.
- Đáp nhận thẩm quyền.
Đại úy Hồ ngọc Hoàng, người niên trưởng khóa 19 Đà lạt - Anh nhanh nhẹn đáp nhận và xua quân về biển nước. (Riêng Hồ ngọc Hoàng thời gian trước khi mất nước anh được thuyên chuyển về Tiểu đoàn 6 với chức vụ Trưởng ban 3. Nhưng tôi không có dịp để hỏi anh tại sao trong những giờ phút sau cùng này anh lại dẫn một toán quân khoảng một Đại đội của TĐ 6 đi về phía phi trường Non Nước. Bất ngờ khi đứng trên sân thượng của Chủng viện Sơn Trà để quan sát, nhìn ra xa tôi thấy một đoàn quân TQLC đang di chuyển, cố liên lạc thì được biết đây là một đon vị của TĐ6/TQLC và người chỉ huy là anh Hoàng, nên tôi gọi anh vào trám vào phòng tuyến phía Bắc, chịu sự chỉ huy của chúng tôi. Chúng tôi cũng không có dịp nói chuyện với nhau, cho đến gần 6 giờ chiều là lệnh cuối cùng mà chúng tôi cho anh. Và cũng từ đây chúng tôi không còn biết anh đã lưu lạc về đâu nữa.
Theo sự nói lại của một số binh sĩ của TĐ 6 thì Anh Hoàng đã chết trên biển khơi khi lội ra tàu. Xin cho tôi có một phút giây tưởng niệm về người Niên trưởng không may mắn này và xin lỗi Niên trưởng).
Đại đội 1, đại đội 4 liên tục gọi về Tiểu đoàn xin lệnh, tôi gọi Công và Quan nghe đầu máy :
- Cho giữ vững phòng tuyến, chờ Đại đội 2 lên tàu xong các anh sẽ có lệnh.
Vì tôi nghĩ cứ cho chạy bừa ra bãi biển thì có thể cuối cùng sự thiệt hại sẽ lớn lao vô cùng:
Thứ 1: Chắc gì những chiếc tàu này đến đón chúng tôi, có thể do địch đánh lừa.
Thứ 2: Khi mà Đại đội 1, 4 đang lâm trận nặng nề; thực vô cùng nguy hiểm khi bỏ tuyến lúc này.
Cùng lúc đó 3, 4 quả đạn lớn bay qua khoảng trống nổ ngay giữa chủng viện, anh Thạnh la lớn:
- Tân An, ra lệnh cho các Đại đội rời khỏi phòng tuyến và chúng ta đi ngay.
Chẳng còn suy nghĩ gì được nữa, tôi ra lệnh:
- Đại đội 1, 4,và Đại đội Chỉ huy bỏ tuyến, phóng nhanh về hướng con tầu.
Trong tình cảnh bối rối đó thực quá sức nguy hiểm, thực tình tôi không hề nghĩ ra có ngày hôm nay: “Chúng ta bỏ tuyến trận ngay giữa thành phố để bỏ chạy”.
Theo anh Thạnh xuống tầng dưới, ngang qua cửa sổ cuối hành lang, tôi nhìn thấy các đại đội vô cùng hỗn lọan phóng nhanh về phía 2 chiếc tàu lớn.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi chiếc tàu đầu chỉ còn cách bờ chừng hơn 100 mét , tự dưng họ dừng lại và bỏ số de, trong khi trên bờ những binh sĩ TQLC đang chuẩn bị để xuống tàu, thật lạ lùng, tàu càng lúc càng rời ra xa.
Trời chiều đang xuống thấp, giữa cảnh hỗn loạn đó, tôi thấy những người lính TQLC vứt bỏ Balô, súng đạn, lội ra biển, càng lội càng xa tàu vì nó đang rời xa khỏi bờ biển.
Khi xuống tới sân Chủng Viện, tôi và anh Thạnh lạc nhau.
Trên tay tôi còn cây súng XM.16, tôi cũng chạy ra phía biển, những chiếc tàu chỉ còn là những bóng mờ trên mặt biển sẫm tối.
Tôi la lớn:
- Đừng, đừng lội theo tàu nữa. Trời ơi, chúng ta đã bị lừa.
Những người lính chạy gần tôi đứng lại ngạc nhiên hỏi:
- Đại úy nói gì? Chúng ta đã bị đánh lừa, tôi đưa tay chỉ về phía Bắc, nơi đó có khoảng 6, 7 chiếc tàu nhỏ mà chúng tôi gọi là Alpha đang đậu cách bờ nước chừng 50 mét. Tôi chỉ cho tất cả anh em còn lại tiến nhanh về bãi biển Mỹ Khê.
Nhưng khi sắp tới vị trí của mấy chiếc Alpha, thì một đơn vị Việt cộng đã phục sẵn ở đó, chúng từ dưới cát đứng lên và chỉa súng vào chúng tôi. Những toán quân phía trước dừng lại vừa nổ súng vừa la lớn: “Việt cộng, Việt cộng!”
Tôi vội vàng quay hướng về phía làng mạc cùng với toán quân còn lại phóng nhanh, vượt qua một khu làng và tiến đến một nghĩa trang (sau này chúng tôi mới biết đây là Nghĩa trang An Hải) rộng mênh mông, nhiều bụi xương rồng, gai góc và nhiều mồ mã xây, nơi đây có thể tổ chức để phòng thủ. Chúng tôi ẩn nấp trong đó, tiếp tục bố trí chiến đấu với số súng đạn còn lại ít ỏi của mình.
Đêm tối phủ xuống thực nhanh trên nghĩa trang, chẳng còn nhìn thấy nhau nữa. Hỏa châu của địch lơ lững trên cao, và những quả đạn súng cối rớt xuống nghĩa trang, chưa có dấu hiệu địch tấn công.
Thất trận, đói khát, mệt mõi và nhất là đau xót ê chề về sự tan rã của đơn vị đã làm tê liệt ý chí trong tôi...
Tôi đã ngủ quên bên một bia mộ.
Thời gian qua không biết bao lâu, tôi nghe bên tai tiếng rì rào nói chuyện, giật mình tôi la lên:
- Chưa đủ hay sao mà còn lớn tiếng dẫn đường cho Việt cộng?
Một người lính bò lại bên tôi thì thầm:
- Đại úy, Đại úy.
- Hoàng hả, chi vậy ?
- Dạ em đây, VC bò vào hỏi bọn em: ”cấp chỉ huy đâu?”, chứ không phải bọn em nói chuyện.
Tôi tỉnh hẳn người sau câu nói của Hoàng, giờ thì tôi đã hiểu rằng tôi đã mất tất cả. Chúng tôi âm thầm vượt qua hàng kẻm gai, lợi dụng những vồng rau lan cao lớn, bò về phía ánh đèn xa xa. Sự trốn chạy kỳ lạ này giống như trò chơi cút bắt của những ngày thơ ấu. Chúng tôi còn lại bốn thầy trò, mò mẫm trong đêm tối trở lại bờ sông Hàn, tới bờ sông nhìn qua bên kia thấy có ánh điện đường, tôi với hai người lính tuột áo quần lội qua sông, còn một người không biết lội ngồi lại bên bờ này giữ quần áo.
Đồng hồ trên tay chỉ 1 giờ sáng, tôi quyết định vượt sông. Khi tới gần bờ bên kia tôi lặn một hơi dài và âm thầm nhú đầu lên mặt nước, bỗng nghe tiếng la lớn của tên VC gác trên cầu:
- Ai đó? Và hắn nổ súng.
Hoàng vội vàng quá nên đã bị lộ, tôi la lớn:
- Trở lại bên kia bờ! Tôi lặn một hơi dài ra tới giữa giòng sông và lội trở lại bờ bên kia.
May mắn không ai bị gì và cũng không thất lạc nhau. Mặc áo quần xong chúng tôi rời khỏi bờ nước tìm đến một căn nhà có đèn còn sáng và gõ cửa xin vào.
Người đàn bà mở cửa, thấy chúng tôi trong quân phục TQLC, bà ta có vẻ sợ hải, tôi hiểu và trình bày ngắn gọn, người đàn bà mời vào, đóng cửa cẩn thận.
Trong nhà có thêm một cô gái chừng 16, 17 tuổi. Họ cho chúng tôi ăn uống, sau đó chúng tôi nhắm mắt trong giấc ngủ chập chờn...
***
9 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1975
Từ trong căn nhà qua đêm ngủ đỡ ở An Hải, chúng tôi đi về hướng cầu De Lattre, với ý định trở lại vùng chiến trận hôm qua coi có ai còn nằm ở đó nữa không để yên tâm trước khi từ giã nơi này. Nhưng khi ra khỏi nhà chừng nữa cây số thì một nhóm người khoảng năm sáu đứa trên chiếc xe jeep, dừng lại vội vã trước mặt tôi và những người thuộc cấp. Chúng chỉa súng ngay vào người tôi và bảo đưa tay lên đầu.
Thực lạ lùng, tôi không còn môt chút ý niệm về cái sống và sự chết. Đầu óc tôi như đang vẩn vơ trong giấc mơ, hai chân bước đi nhẹ nhàng như trên sương khói, tôi cứ tiếp tục đi, bên tai hình như tôi còn nghe tiếng la hét:
- Đứng lại, đứng lại, anh có phải đơn vị trưởng không?
Tôi mơ hồ:
- Phải rồi.
Chúng vội vàng có đứa nắm tay định làm dữ.
Những người lính của tôi chận lại và xô họ ra:
- Các ông muốn gì cứ nói, đừng đụng tới ông thầy tôi ...
Cuối cùng chúng mời tôi lên xe ...
Lúc đó vào khoảng 9 giờ hơn. Tôi bị bắt.
***
Tôi muốn đi về phía bãi cát dài, nơi cuộc chiến vừa xảy ra hôm qua để một lần được nhìn lại dấu vết sau cùng của một đời chiến trận - và được nhìn ra biển Đông - nơi mà những chiến hữu của tôi đã chọn lựa để gởi gấm thân xác - và nói với Biển rằng :
“Xin cảm ơn, Biển là nơi chốn trong sạch nhất để tiếp nhận các bạn vào cõi Vĩnh Hằng - Hởi những người con thân yêu đáng trân trọng của Tổ Quốc.”
Sacramento , ngày 30 tháng 12 năm 1995
Tân An Đoàn Văn Tịnh
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
TĐ9 - Trận chiến sau cùng
MX Đoàn Văn Tịnh
Lời tác giả:
Sau gần 20 năm ngày tàn chiến cuộc, tôi mới có dịp viết về Tiểu đoàn
để tưởng nhớ nhũng người bạn và em út cùng đơn vị đã nằm xuống...
Sự đóng góp xương máu cùng sự sống của các bạn cho một vùng quê
hương qúa đỗi bất hạnh, có lẽ là niềm đau xót trong suốt cuộc đời
còn lại của tôi.
Thực tế, những câu đàm thoại giữa các đơn vị đều ngụy hóa. Nhưng tại
đây đã đưoơc chuyển sang bạch văn với mục đích để đọc giả có thể đọc
và hiểu dễ dàng.
Chiều ngày 27 tháng 3 năm 1975,
Thiếu tá Lâm-tài-Thạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9/TQLC và tôi
Trưởng ban 3 Tiểu đoàn được gọi về dự buổi họp bất thường tại BCH-Lữ
Đoàn 369, bản doanh đặt tại huyện Đại Lộc, Quảng-Nam.
Vẫn như thường lệ mỗi khi về BCH/LĐ để họp hành quân, chúng tôi chào
hỏi, tay bắt mặt mừng với Trung tá Nguyễn xuân Phúc, Lữ Đoàn trưởng
và Trung tá Đỗ Hữu Tùng, Lữ Đoàn phó.
Từ ngày 16 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 9 TQLC được lệnh của Lữ đoàn
369 từ giã chiến trường Quảng-Trị, bàn giao nhiệm vụ và tuyến đóng
quân cho các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân, theo Lữ đoàn di
chuyển vào Quảng-Nam. Tới Quảng-Nam, Tiểu đoàn 9 TQLC chia làm hai
cánh. Cánh A gồm Đại đội 4, Đại đội 2 phòng thủ dài trên dãy núi Sơn
Gà do Tiểu Đoàn trưởng chỉ huy.
Cánh B gồm Đại đội 3, Đại đội 1 phân tán trên những dãy núi chạy dài
xuống núi Đất và bên kia bờ sông Vu-Gia cách Tiểu đoàn chừng cây số,
thay thế vị trí cho những đơn vị Nhảy Dù đã di chuyển vào Nam.
Lữ Đoàn có nhiệm vụ chính là đánh chiếm lại đỉnh núi 1062 mà trước
đó các đơn vị Biệt Động Quân, Nhảy Dù đã thay nhau giao tranh ác
liệt, đẩm máu với quân Bắc Việt.
***
Ngày 16 tháng 3 năm 1975.
Trong suốt cuộc đời chiến trận, đơn vị di chuyển từ nơi này đến nơi
khác vẫn là những chuyện bình thường. Tuy nhiên lần này nhìn vào sự
chuẩn bị quá vội vàng của Bộ Chỉ huy Lữ Đoàn 369/TQLC, từ việc bàn
giao lại nhiệm vụ hành quân, phòng thủ cho đơn vị bạn nơi vùng tuyến
đầu Quảng-Trị, cũng như lệnh cho các Tiểu Đoàn tác chiến, Pháo binh
TQLC, cùng các đơn vị yểm trợ khiến chúng tôi có nhiều suy nghĩ và
cảm nhận ra một điều gì đó vô cùng bất ổn và nguy hiểm:
Lúc 12 giờ khuya hôm qua, đêm 15 rạng ngày16 tháng 3 năm 1975, chúng
tôi nhận lệnh từ Lữ Đoàn, cho đơn vị chuẩn bị và sẵn sàng di chuyển
lúc 7 giờ sáng, nếu những đơn vị bạn không đến kịp để bàn giao thì
cũng bỏ vị trí cho binh sĩ lên xe nhanh chóng đến điểm tập trung
trên Quốc lộ 1 trước làng Cọp Biển, gần cầu Bến Đá.
Từ giã bãi biển Gia Đẳng nơi Tiểu Đoàn nghỉ ngơi gần một tháng trong dịp tết về, thực sự có chút chi đó vướng víu trong lòng chúng tôi. Trên bãi cát trắng trải dài và phẵng phiu vào một sáng mùa Xuân, có chút sóng vỗ và ánh nắng tươi mát ban mai chiếu lên những con Nuốt trong vắt bị sóng xô mằm phơi trên bãi cát, tỏa ra đủ sắc màu long lanh như những viên ngọc quí hoàn hảo, cảnh vật thực bình yên, xinh đẹp. Song cũng chính nơi vùng biển trời xinh đẹp này lại là vùng chiến trường đẩm máu với nhiều trận đánh khủng khiếp của Tiểu đoàn 9 TQLC vào những ngày tháng cuối 1972 và đầu năm 1973, vùng chiến trận kéo dài từ Gia Đẳng qua Chợ Cạn, đập Linh Quang đến tận Cửa Việt.
Có lẽ đây là điểm mốc thời gian cực thịnh sau hết
của TĐ9/TQLC dưới thời Trung tá Nguyễn Kim Đễ với hệ thống SQ, Cán
bộ cũ kể từ ngày thành lập đơn vị vào tháng 4 năm 1970 cho tới trước
khi anh được bổ nhiệm về đảm trách chức vụ Trưởng Phòng 3/SĐ/TQLC.
***
Rời Vùng I chiến tuyến địa đầu đất nước về Quảng-Nam.
Vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975, đoàn xe theo thứ tự
gồm TĐ6/TQLC, TĐ2/TQLC, BCH/LĐ369, Pháo binh TQLC trên xe đầy cả các
loại vật dụng, vợ con, gia đình, sau hết là TĐ9/TQLC. Rồi thêm một
cái đuôi dài lòng thòng lôi thôi lếch thếch tội nghiệp đằng sau là
dân chúng bồng bế chạy theo với hàng chục chiếc xe dân dụng, tiếng
trẻ con khóc la, tiếng kêu réo gọi nhau ơi ới thất lạc, với dáng mặt
thất sắc kinh hoàng.
Ra đi với nhiều âu lo thắc mắc trong lòng mọi người. SQ và binh sĩ thuộc cấp trong đơn vị đã nhiều lần hỏi tôi điều này, nhưng tôi đã không thể trả lời họ một cách rõ ràng như mọi khi. Trong tôi chỉ có linh cảm sẽ mất đất, mất tất cả Vùng I.
Vào Đại Lộc vài ngày sau đó tôi còn nhớ rõ, chiều 26 tháng 3 chúng tôi theo lệnh Lữ Đoàn tiếp nhận thêm một số đơn vị Đia Phương Quân và Bộ Binh di tản từ chiến trường Quảng-Trị về. Anh Thạnh bảo tôi giao những đơn vị này cho Thiếu tá Lộc phối trí phòng thủ ở núi Đất.
Trong suốt ngày 26, 27 tháng 3 năm 1975, chúng tôi đã nhận được rất nhiều tin tức đáng buồn về các đơn vị bạn Tiểu Đoàn 3, 4, 5, 7 /TQLC, TĐ2/PB và ĐĐ Viễn Thám, bị cắt đứt ở Thuận An.
Cố Thiếu tá Nguyễn Tri Nam, người bạn đồng khóa
22 Võ Bị đã tử trận trên đường lui quân tại bờ biển Thuận An, Thiếu
tá Đinh Long Thành, K19, TĐT/TĐ4/ TQLC mất tích và một số bạn bè,
thuộc cấp trong những đơn vị cũng đã vĩnh viễn từ giã chiến trường.
Một số đơn vị khác đang cố gắng tránh lưới đạn pháo trong khi triệt
thoái để xuống tàu trước sự tấn công dồn dập của quân Bắc Việt.
Tôi hình dung ra một vùng chiến trận tơi bời, thê thảm của những
“Hùm thiêng sa cơ, thất thế”.
Một thời nào đó, chúng tôi đã tự nguyện hiến dâng tuổi trẻ và đời
mình cho đất nước, nhiệt tình hăng hái nung nấu cùng nhau tìm vào
nơi gió cát với ý chí “quyết chiến, quyết thắng”, nhưng trước những
mất mát quá đỗi to lớn và bất ngờ trên quê hương hôm nay, tôi không
sao ngăn được tiếng thở dài chua xót, cố nén giòng nước mắt đau
thương đang chảy xuống với nỗi uất hận cuả một người lính trận.
“Như vậy Quảng-Trị và Huế đã mất!”
Trong buổi họp, vị Trưởng ban 3 Lữ Đoàn và Trung
tá Lữ Đoàn trưởng thuyết trình về tình hình địch và bạn trong vùng
trách nhiệm của Lữ Đoàn, cùng một số tình hình của các đơn vị TQLC ở
Huế, bãi biển Thuận An.
Ra khỏi phòng họp, tôi hỏi anh Tùng :
- Số đạn dược mà tôi xin Lữ Đoàn thì bao giờ có?
Anh Tùng trả lời:
- Chiều nay hay ngày mai, yên tâm. Còn bây giờ thì uống tí rượu, ông
Tướng vừa mới xuống thăm có cho mấy chai Napoléon đây. Mỗi người một
vài ly nhỏ rồi sau đó chia tay.
Từ giã các anh, trên đường về chúng tôi ghé lại
cái quán nhỏ bên đường ăn tô mì Quảng và uống ly cà phê, nhân tiện
nhìn sơ tình hình sinh hoạt của dân chúng chung quanh.
Nơi đây cũng như ở Quảng-Trị, đời sống của dân chúng nghèo nàn,
thiếu thốn quá nhiều.
Trong căn nhà lá nho nhỏ tạm đặt BCH/TĐ, cạnh con đường đất đỏ trên
sườn núi Sơn Gà, từ đó chúng tôi có thể nhìn bao quát quận Đại Lộc
và con sông Vu-Gia.
Lữ Đoàn cho lệnh tiếp nhận đạn dược. Tôi gọi cho Thiếu tá Lộc chuẩn bị đón nhận và phân phối cho các Đại đội, báo cho biết khi xong xuôi.
Anh Lộc trả lời trên máy và hỏi:
- Chúng ta sắp làm gì Tân an?
- Có lẽ chiếm lại ngọn đồi 1062.
Anh Lộc vui vẻ tâm sự: “Ông Thiếu úy Hùng mới ra trường mà anh đưa lên cho tôi, trông tướng tá ngon lành và đẹp trai quá. Anh là người Huế, gia đình ở ngay trên đường phố Phan bội Châu, Hùng nói rằng từ ngày ra trường chưa kịp đi phép đã phải ra trình diện đơn vị ngay, bây giờ cũng không biết gia đình ra sao...”
Phải, sáng nay có một Sĩ quan về bổ sung cho Tiểu đoàn, anh tốt nghiệp khóa 27 Trường VBQGVN. Tôi bận rộn quá chỉ giữ Hùng lại ở BCH/ Tiểu đoàn có 1 tiếng đồng hồ, hỏi thăm người đàn em vài điều về trường cũ, nhờ người lính nấu cho Hùng một tô mì gói, rồi vội vàng đưa Hùng về Đại đội 3 thuộc cánh B. Tôi nghĩ sau này có thì giờ sẽ nói chuyện và hỏi thăm Hùng về gia đình và anh em nhậu với nhau vài chai bõ nhớ.
Nhưng có ai biết những bất ngờ đến với một người lính trận: gặp mặt, chia tay để rồi sau đó tôi không bao giờ có dịp gặp lại người đàn em tội nghiệp đó nữa.
Anh chưa hề biết chiến trường nơi đâu, chiến trận là gì, địch quân như thế nào, cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Hùng tử trận vào lúc 5 giờ chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975 trên bờ biển Mỹ-Khê .
***
4 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975
Người Sĩ quan phụ tá bảo tôi vào máy gặp Đại Bàng Thái Dương (danh hiệu của Trung tá Đỗ hữu Tùng), anh Thạnh theo tôi tới phòng máy.
- Thái Dương đây Tân An tôi nghe.
- Tân An đó hả, nghe tốt không ?
- Trình Đại Bàng, 5 trên.
- Lệnh cho Tiểu đoàn 9: Số đạn dược được tải đến hôm qua trang bị đầy đủ cho mỗi cá nhân, đạn XM16, đạn phóng lựu, đại liên ..., còn lại bao nhiêu chôn xuống tại chỗ; khi nào xong xuôi Tân An cho biết.
- Đáp nhận Đại Bàng.
Tôi bỏ ống liên hợp xuống và nhìn anh Thạnh, anh im lặng một lúc rồi cầm máy gọi anh Lộc:
- Lộc Ninh đây Tây Đô.
- Lộc Ninh nghe Đại Bàng.
Anh Thạnh cẩn thận dặn dò Thiếu tá Lộc những điều cần thiết, sau đó lệnh cho anh Lộc thực hiện lệnh của Đại Bàng Thái Dương.
Anh Thạnh bỏ máy xuống và hỏi tôi:
- Như vậy là sao Tân An?
Tôi cười một cách tự tin:
- Có lẽ chúng ta phải lui quân mấy cây số, chờ đánh bom xong là tái chiếm đồi 1062, Đại Bàng yên tâm, số đạn dược trang bị chúng ta đã dư dùng, đánh lên xong sau đó trở lại lấy để tái trang bị và phòng thủ, phải không?
Anh Thạnh nghe thì nghe vậy, cũng như tôi khi nói thì nói vậy, nhưng trong lòng chúng tôi có quá nhiều thắc mắc và nghi ngờ.
Anh Thạnh vô cùng lo lắng, mà tính anh ấy là như vậy.
Thiếu tá Lâm tài Thạnh nhận được lệnh chỉ định về đảm nhiệm chức Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 9 TQLC thay thế Trung tá Huỳnh văn Lượm, và tôi được thuyên chuyển về để đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban 3/TĐ.
Thoạt đầu tôi do dự không muốn, vì chức vụ này tôi đã qua từ lâu rồi. Tuy nhiên sau khi suy nghĩ về lại Tiểu Đoàn của chính mình đã thành lập từ ngày đầu, tôi lại có cảm giác thích thú và tự nghĩ rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi thì thế nào cũng sẽ phải có sự thay đổi.
Từ giã Lữ đoàn 258 để về lại Tiểu Đoàn 9/TQLC, lúc đó đang đóng quân ở Chợ Cạn, quận Mai Lĩnh, Quảng Trị., tuy nhiều bạn bè đã thuyên chuyển qua những đơn vị khác như Trí, Cự, Tuấn ... song tôi cũng còn tìm lại được những người đàn em dễ thương như: Phán mập, Công, Quang và Ba Gà...cùng những người thuộc cấp cũ của tôi.
Thiếu tá Thạnh còn trẻ lắm, anh xuất thân từ khóa 17 trường Bộ binh Thủ Đức, tính tình ít nói, hiền lành nhưng nghiêm-nghị.
Trong vấn đề chỉ huy đơn vị, tôi phụ giúp anh một cách hiệu quả, tâm đầu ý hợp. Thực ra đối với tôi thì các Đại đội trưởng là cấp dưới đồng thời cũng là những người đàn em rất thân thiết và dễ thương, nên vấn đề điều đông chỉ huy cũng dễ dàng êm đẹp.
Anh Thạnh thường giao cho tôi thu xếp hầu hết những công việc nội bộ của Tiểu Đoàn như điều động, hành quân hay tổ chức giải trí cho đơn vị.
Anh Thạnh không yên tâm, anh hỏi lại tôi :
- Tân An nghĩ có đúng không ?
Tôi cười :
- Không chắc, cả hai chúng tôi cùng cười vui vẻ thoải mái. Lo chi, tất cả chuyện gì rồi cũng OK thôi.
Mọi lệnh lạc của Lữ Đoàn, chúng tôi đã thi hành xong và báo cáo về Lữ Đoàn lúc 6 giờ chiều.
***
6 giờ 30 chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975
- Tân An đây Thái Dương,
- Tân An nghe Đại bàng.
- Tôi muốn gặp Tây-Đô.
Anh Thạnh đưa tay cầm máy và ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh.
- Tây Đô nghe Đại Bàng.
- OK, Tây Đô lật tấm bản đồ và nghe cho kỹ.
Tôi giở tấm bản đồ đẩy tới trước mặt anh Thạnh.
- Sẵn sàng rồi Đại Bàng.
- Khi có lệnh, cánh B từ chỗ đóng quân di chuyển xuống và theo chân dãy Sơn Gà tiến về sông Túy Loan, cánh A di chuyển xuống Đại Lộc gặp BCH/Lữ Đoàn và nhận lệnh tiếp. Tất cả sẵn sàng khi có lệnh sẽ thi hành. Tây Đô có gì cần hỏi không ?
- Tây Đô đáp nhận 5, không Đại Bàng.
- Tân An anh cho mời Thiếu tá Lộc xuống đây .
- Vâng. Sau đó tôi gọi anh Lộc tới họp gấp.
Tiếng nói của Trung tá Đỗ hữu Tùng lạnh lùng và sắc như dao cắt, mặt anh Thạnh thoáng vẻ lo âu vì cái lệnh hành quân kỳ lạ này. Lần đầu tiên trong đời lính tôi nghe một cái lệnh lạ lùng và khủng khiếp.
Ôi ! Sao lại rút lui, rút về đâu, không lẽ kéo xuống Đà Nẵng lập phòng tuyến ngay giữa thành phố như Tết Mậu Thân hay lại chạy ra biển vội vàng lên tàu như các Tiểu Đoàn TQLC ở Huế, lại tiếp tục bỏ Quảng Nam, Đà Nẵng?
Suốt thời gian đợi chờ thi hành lệnh chúng tôi có cảm tưởng đang chờ lên đoạn đầu đài.
Bữa cơm chiều đã sắp sẵn trên bàn gần chổ ngủ của anh Thạnh.
Các anh Thạnh, Lộc và tôi vừa ăn cơm, vừa nói chuyện, vừa ra lệnh vừa dặn dò kế hoạch chuyển quân, chúng tôi đã thu xếp xong mọi việc. Từ giã anh Thạnh và anh Lộc trở về phòng máy làm việc với Phán và Quang, hai anh này đã có mặt đang ngồi chờ tôi.
Chào nhau xong Phán hỏi :
- Có tin gì vui không anh Ba?
- Có, chuẩn bị dọt.
Phán thực dễ thương miệng luôn cười hề hề:
- Tấn công đồi 1062 phải không, anh Ba?
Tôi nhìn Phán rồi nhìn Quang, cảm thấy tội nghiệp hai người đàn em, tôi bảo họ ngồi xuống. Tôi chỉ những tấm bản đồ mà Trung úy Sơn đã dán lên tường từ mấy hôm trước, những nét bút màu xanh, đỏ, đen ...dấu hiệu cuả trục tiến quân, điểm kiểm soát, Đại đội, Trung đội, Tiểu đội, chi chít :
- Vẽ vào bản đồ cẩn thận như Sơn đã vẽ trên bảng, sau đó tôi sẽ nói chi tiết, OK.
Quang và Phán lật bản đồ vừa vẽ vừa thì thầm nho nhỏ với nhau:
- Xong rồi anh Ba!
Dặn dò xong mọi chuyện tôi thở dài nói với Phán và Quang:
- Không biết có phải vội vàng triệt thoái như những Tiểu đoàn kia không, sao tôi nghi quá.
- Sao anh Ba nói nghe thê thảm quá vậy?
- Phán và Quang nghe đây “hãy cẩn thận lo cho anh em trong đại đội, các chú phải nhớ rằng, khi họ ra lệnh lui quân theo kiểu này có nghĩa là nước đến cổ rồi. Cầu mong sao cho Tiểu Đoàn chúng ta may mắn, an toàn”.
Tôi bắt tay Quang, bắt tay Phán:
- Về đi, nhớ cẩn thận.
Cho xe đưa các anh về lại tuyến đóng quân đại đội, còn một mình tôi ngẩn ngơ nhìn lên dãy núi Sơn Ga, những dãy núi chập chùng nối tiếp nhau chạy về cuối chân trời xa, giữa bóng chiều quạnh hiu.
Tôi trở về lều nằm lên võng đu đưa và nghĩ ngợi.
Hình như có điều gì đó không ổn hay một thứ gì đó sắp mất mát, tôi mơ hồ cảm nhận như vậy và miên man trong giấc ngủ quên.
***
12 giờ 10 khuya 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975.
Cuối cùng lệnh cũng đã tới, lúc đó 0 giờ 10 phút đêm 28 rạng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Anh Thạnh đứng lên anh cố vươn vai hít một hơi dài để có thêm chút sức mạnh và thở dài nói với tôi:
-Tân An, anh điều động và lệnh cho Tiểu Đoàn Zulu, bảo Đại đội trưởng chỉ huy lên gặp tôi.
-OK!
Tôi gọi Thiếu tá Lộc:
- Lộc Ninh đây Tân An.
- Lộc Ninh nghe Tân An.
- Lộc Ninh cho con cái sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng rồi Tân An.
- Cho Zulu, và báo cáo, kế hoạch không thay đổi.
- Nhận Tân An 5.
- Sơn, cho gọi ĐĐT chỉ huy lên gặp Thiếu tá.
Cánh B dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Lê văn Lộc men theo chân của dãy núi Sơn Gà và vùng làng mạc bên trái của trục lộ tiến về sông Túy Loan.
Còn cánh A gồm Đại đội 4 của Trung úy Lưu minh Quang dẫn đầu, đoạn hậu có Đại đội 2 của Trung úy Lưu văn Phán, di chuyển xuống chợ Đại lộc để gặp Lữ Đoàn.
Đúng 1 giờ khuya, cánh A đến điểm hẹn. Trước mắt tôi là một bãi đất trống, trong đêm đen tôi vẫn nhìn thấy rõ lỗm ngỗm cây, dây, poncho, thùng đạn, thùng gỗ pháo binh.
Tại vị trí cũ của Lữ Đoàn không một bóng người, chỉ chừng nấy thôi tôi cũng đã hiểu ra tình cảnh của chúng tôi trong hiện tại.
Anh Thạnh hỏi tôi:
- Sao vậy Tân An ?
Tôi buồn bực:
- Tôi không hiểu.
- Thái Dương đây Tân An.
- Thái Dương nghe.
Trong suốt đoạn đường di chuyển, cũng như tôi, dường như anh Tùng luôn luôn cầm ống liên hợp để điều động các đơn vị để cho đơn vị trưởng rãnh rỗi giải quyết các tình huống cấp bách.
- Thái Dương ở đâu vậy, ở đây không còn ai hết?
- Đúng rồi, anh cho tiến về sông Túy Loan sẽ gặp tôi.
- Đáp nhận.
Trong những lần di chuyển quân, tôi vô cùng thận trọng, lệnh cho Trung úy Quang chia thành 3 cánh. Trung đội cánh phải tiến trong bìa làng, Trung đội cánh trái dàn rộng về phía núi để tránh những tổn thất do địch quân phục kích.
Phán gọi máy cho tôi biết:
- Trình anh Ba, sau lưng chúng ta là Bộ Binh, Địa Phương Quân tùm lum chúng ta phải làm sao?
Tôi dứt khoát:
-Cố gắng điều động Đại đội của anh vững vàng, tuyệt đối không cho bất cứ ai xen lấn vào hàng quân. Cho Trung đội đi sau giữ khoảng cách xa Đại đội hơn. Hãy tiếp tục di chuyển, để cho các đơn vị bạn theo sau mà thôi.
Dù không nhìn, chúng tôi cũng dư biết một cái đuôi vô cùng luộm thuộm của các đơn vị bạn và dân chúng bồng bế chạy theo. Song biết làm sao hơn là cố gắng giữ vững chủ lực để khi cần lâm trận.
Trong đêm tối, mũi tiến quân vẫn vững vàng.
Không biết mình tới sông Túy Loan để làm gì, nhưng trong lòng chúng tôi vẫn luôn tin tưởng vào sức mạnh tuyệt đối của một Tiểu Đoàn TQLC thiện chiến, cho nên trên đoạn đường tiến quân thỉnh thoảng gặp những ổ phục kích việt cộng, các Trung đội bên cánh dập tắt lẹ làng.
Cuối cùng chúng tôi đã tới bờ sông Túy Loan. Trời vừa sáng, có chút nắng hồng ở phương Đông, chung quanh vẫn yên tỉnh, cái yên tỉnh cần cảnh giác nguy hiểm. Tôi cho lệnh các Đại đội bố trí và cẩn thận cho các trung đội yểm trợ nhau vượt sông an toàn, chỉ có những tiếng súng nổ từ thật xa của địch, tận trong các thôn xóm với vài viên đạn bắn xẽ, chẳng nghĩa lý gì.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vượt qua cầu Túy Loan, tạm chiếm trường học bên trái đường lộ và bố trí quân. Nơi đây chúng tôi vẫn không thấy bóng dáng cuả Lữ Đoàn. Anh Thạnh bảo tôi gọi Lữ Đoàn, tôi bốc máy gọi Trung tá Tùng:
- Thái Dương đây Tân An.
- Thái Dương nghe.
- Chúng tôi đến sông Túy loan rồi, Thái Dương ở đâu?
- Yên tâm, bây giờ tôi và Lữ Đoàn đang ở bên bờ sông, phía trên cầu De Lattre. Tân An nói với Tây Đô chỉnh đốn lại đơn vị và kiếm bất cứ loại xe nào, đem Tiểu Đoàn đến bờ sông Hàn tại tọa độ X.
- Thái Dương, tôi muốn hỏi.
- Tân An cứ hỏi.
- Thái Dương, chúng ta đi đâu vậy, ra tới bờ sông ai đón chúng tôi?
- Tân An yên tâm, khi ra tới đó sẽ có người đón. Chúng ta sẽ lên tàu về Cam Ranh.
- Trời ơi! Như vậy là chúng ta bỏ Đà nẵng, là mất đất phải không?
- Tân An nghe đây, bình tỉnh và làm đúng lời tôi dặn.
- Nhận rõ Đại Bàng trên 5.
Tôi nhìn anh Thạnh, chúng tôi lặng thinh, trong phút chốc kinh dị đó, tôi thấy hình như đất trời sắp vỡ vụn, hết rồi tất cả .
***
7 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Người lính mệt mỏi tuột 2 cái dây đai khỏi vai và đặt chiếc Balô trên cái bàn nhỏ của học trò, móc ra mấy hộp thịt “ba lát”, mở nắp và một bịch nylon đựng cơm, sắp vội tất cả lên bàn thầy giáo, xong đưa cho anh Thạnh và tôi mỗi người một cái muỗng sắt:
- Mời Thiếu tá và Đại uý ăn sáng.
Chúng tôi mỗi người cầm một hộp thịt và dùng muỗng xúc cơm trong bọc nylon, nuốt vội vàng qua bữa. Anh mời tôi điếu thuốc.
Anh Thạnh và tôi hội ý, anh sẽ ra bờ sông Hàn trước để gặp Lữ Đoàn, còn tôi tìm xe và điều động các Đại Đội ra sau. Anh Thạnh bắt tay tôi với vài lời dặn dò rồi lên xe đi trước.
Trời càng sáng, cảnh vật chung quanh càng rộn ràng, và mọi sự di động của người cùng xe cộ càng vôi vàng, không biết đi đâu, về đâu nhưng người ta cứ đi, cứ chạy.
Tôi bảo Hạ sĩ Hoàng hiệu thính viên cho mời ĐĐT/ĐĐ 4 và 1 lên gặp tôi.
Trung úy Quang, Trung úy Công vừa lên tới, Công chào và hỏi tôi :
- Mình đi đâu đây anh Ba?
- Ra Đà Nẵng, bây giờ Công và Quang cho đặt hai trạm gác trên đường chận tất cả các loại xe cộ và giữ lại, sau đó cho tôi biết có bao nhiêu xe, còn dân chúng cứ để người ta đi tự nhiên luôn cả các đơn vị bạn. Nhưng kiểm sóat canh gác cẩn thận, coi chừng VC lẫn lộn.
Công và Quang chào và trở lại Đại đội.
Cùng lúc đó, một cánh quân hỗn loạn vừa Bộ Binh vừa Pháo Binh từ Duy Xuyên chạy xuống. Đại đội 4 chận lại ngoài tuyến, ĐĐT chỉ huy đưa vào gặp tôi là một vị Đại tá (Tôi không nhớ tên, nhưng ông là Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn BB đóng ở Duy Xuyên), Trung Đoàn phó là Trung tá Khai và một Thiếu tá Sĩ quan Tham mưu.
Trung tá Khai chào và hỏi:
- Anh là Đơn vị trưởng?
- Không, tôi là Trưởng ban 3.
- Tôi là Tr/tá Khai, Trung Đoàn phó, bây giờ các anh đi đâu, có thể cho chúng tôi tháp tùng được không?
Tôi nhìn các anh, gật đầu, tôi biết anh là niên trưởng của tôi:
- Vâng.
Ông Đại tá Trung Đoàn trưởng tỏ vẻ giận dữ:
- Xin lỗi anh nghe, “đ… mẹ” chúng nó bỏ hết chúng ta rồi.
- Đại tá không nhận được lệnh gì sao?
- Xin lỗi Đại uý, lũ khốn nạn chẳng có lệnh lạc gì cả.
Tôi trấn an các ông:
- Đại tá và các anh yên tâm, theo chúng tôi.
- Bằng tàu hay máy bay?
- Tôi không rõ lắm, nhưng chắc là tàu thủy.
- Cho chúng tôi tháp tùng với.
- Vâng.
Chúng tôi đã dùng đoàn xe của Trung đoàn Bộ Binh, gỡ súng PB, rờ mọt để lại bên đường, tận dụng tất cả mọi loại xe, điều động các đại đội lên xe thẳng tiến về bờ sông Hàn mang theo những người lính đơn vị bạn.
- Tây Đô đây Tân An.
- Tây Đô nghe Tân An.
- Trình Đại Bàng, tất cả Tiểu Đoàn đã sẵn sàng trên xe, cho zulu được chưa?
- Cánh B có đủ xe không?
- Trình Đại Bàng, đầy đủ tất cả.
- OK, Tân an cho lệnh di chuyển, cẩn thận vì ở ngoài này vô cùng lộn xộn và đông người cũng như xe cộ trên đường; tôi đang ở ngang ngã 3 Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm.
- Đáp nhận 5, Đại Bàng yên tâm, tôi sẽ đi trước dẫn đường.
- Lộc Ninh đây Tân An.
- Lộc Ninh nghe đây, Tân An cho qua.
- Tôi bắt đầu di chuyển, Lộc Ninh cứ để Ba Xuyên bố trí sau đó chừng nữa giờ cho lên xe và tiếp tục di chuyển. Khi bắt đầu khởi hành Lộc Ninh cho biết, OK.
- Nhận Tân An trên 5.
Đoàn xe di chuyển vô cùng khó khăn trước cảnh hỗn loạn của dân chúng, các đơn vị của Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, và Thương phế binh ở Bệnh viện Duy Tân.
Gần 11 giờ trưa Cánh A mới tới được bờ sông Hàn.
Tôi và anh Thạnh gặp nhau ở đây.
Anh Thạnh bảo:
- Chẳng gặp ai hết, không ai đón, chẳng ai đưa, Tân An hãy liên lạc với Lữ Đoàn xem.
Đến giờ này tôi đã hiểu ra mọi chuyện, chúng tôi cho lệnh các Đại đội bố trí rộng bên bờ sông để tránh đạn pháo kích của địch đổ xuống từ phía Ngũ Hành Sơn, cũng như ngăn chặn địch tấn công từ phía sau. Cường độ pháo kích của địch càng lúc càng gia tăng và tương đối chính xác.
Tôi dục anh Thạnh qua sông trước để điều động Đại đội 4 tiến lên bờ bên kia, vì ở đây quá sức nguy hiểm. Có một điều may mắn là chưa ai bị thương.
Một số anh em binh sĩ của Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thuỷ Bộ TQLC còn ở lại điều hành những chiếc xuồng máy đưa chúng tôi lần lượt qua sông. Chúng tôi tận dụng thêm tất cả thuyền máy, và luôn cả ghe thuyền trên sông để làm phương tiện vượt sông Hàn.
Tôi gọi Trung tá Tùng;
- Thái Dương đây Tân An.
- Nghe Tân An tốt, tới đâu rồi?
- Trình Đại Bàng chúng tôi tới được bên này sông Hàn.
- Tốt, anh có gặp một tiểu đội của Hà Nội (danh xưng của Thiếu tá Hợp) đón ở đó không?
- Không.
Tôi nghe tiếng nói của anh Tùng trong ống liên hợp và chiếc loa nhỏ gắn trên máy PRC25 không được rõ ràng, lẫn lộn với một loại âm thanh thực quen thuộc - hình như tiếng cánh quạt của trực thăng hay tiếng sóng biển vỗ vào mạn tàu.
- Thái Dương đang ở đâu, trên máy bay hay tàu thủy?
- Sao Tân An lại hỏi vậy?
- Vì tôi nghe có tiếng quạt đập gió hay tiếng oằm oặp của sóng.
- Không tàu cũng chẳng máy bay, đó là tiếng sóng vỗ bên bờ biển.
Tôi nghe tiếng la rất lớn cuả Trung tá Phúc:
- Cho Tân An ngay tần số của Hợp và Hợp có bổn phận đón Tiểu đoàn 9.
- OK, OK. Tân an đây Thái Dương - hảy ghi xuống tần số này và liên lạc với Hà Nội, để Hà Nội thu xếp đón Tiểu Đoàn 9 lên tàu..
- Đáp nhận Đại bàng 5.
- Chúc may mắn...
Ầm,.. bỗng tôi nghe trong máy một tiếng nổ rất lớn, cắt ngang tiếng nói của anh Tùng...và chấm dứt cuộc đối thoại.
Đó là lần nói chuyện sau hết của chúng tôi với Trung tá Đỗ hữu Tùng, (trên đọan đường di chuyển từ Đại Lộc đến bờ sông Hàn, thỉnh thoảng Trung tá Phúc cũng có lên tiếng, nhưng rất ít chắc anh qúa bận rộn).
Các anh là những cấp chỉ huy trực tiếp từ ngày đầu tôi về đơn vị (Tiểu Đoàn 5/TQLC với danh hiệu Hắc Long), và cũng là những người Niên trưởng khả kính cùng xuất thân từ trường Mẹ, Trường Võ Bị Đà lạt.
Trong suốt những năm tháng chiến trận, chúng tôi có nhiều thời gian sống gần gũi, tôi cũng đã nhiều lần là thuộc cấp của anh Tùng từ lúc làm Trung đội trưởng thì anh Tùng là Đại đội trưởng. Khi về làm Trưởng ban 3 /LĐ 258, anh Tùng là Lữ Đoàn phó.
Ngoài cuộc sống thứ tự cấp bậc, tôi và anh có nhiều dịp tâm sự về đời sống và gia đình. Nên tuy là Đơn vị trưởng, song anh xử sự với tôi như người anh, nhất là thời gian chúng tôi cùng ở LĐ-258 của Đại tá Ngô văn Định.
Tôi đã liên lạc được với Thiếu tá Trần văn Hợp danh hiệu Hà Nội, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2/TQLC, xuất thân từ khóa 19 Đà Lạt.
Anh cho biết hiện anh đang ở trên Đại hạm 810 của Hải quân, chỉ huy toàn bộ TQLC đang ở trên đó, còn người hạm trưởng thì tôi không biết tên nhưng anh Hợp cho biết tần số của máy và danh xưng là Nam Hổ, tôi ghi xuống cẩn thận những chi tiếc này.
Tôi báo cho Tây Đô biết điều này và hẹn với anh Hợp chúng tôi sẽ cố chiến đấu.
Anh Hợp hỏi chúng tôi:
- Liệu được bao lâu, Tân An?
- Có thể 2, 3 ngày hay lâu hơn. Tôi trả lời một cách tin tưởng.
Anh Hợp bảo:
- Cố chiến đấu, chừng 9 giờ tối Clear bãi và pick up.
- OK, cám ơn Hà nội.
Đó là một sự hẹn hò vô cùng quan trọng trong đời tôi, nhưng tiếc thay sự hẹn hò này đã không đến và chẳng bao giờ đến cả.
Chúng tôi đã mất hẳn liên lạc với anh Hợp từ lúc 3 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Sau đó tôi qua tần số của Nam Hổ, nhưng cũng không nhận được một tín hiệu nào cả.
Sự thật, mọi chuyện đã và đang xẩy ra trước mắt, nỗi hy vọng đưa đơn vị lên được con tàu để ra khơi hay tìm một lối thoát nào đó, để đơn vị được vẹn toàn là điều vô tưởng, không thể làm được.
Tôi linh cảm rằng trong tình cảnh này, không còn ai muốn bị ràng buộc bởi cái quyền chỉ huy, lãnh đạo nữa mà có lẽ người ta đang chọn việc đào thoát cho bản thân là chính.
Tôi nghĩ vậy và lấy lại sự bình tỉnh.
Sự bình tỉnh bây giờ là một yếu tố rất cần thiết cho đơn vị. Những nóng giận, lo lắng, căm hờn trong lòng đã chìm xuống bởi vì trước sau rồi cũng chỉ một lần. Tôi đã lựa chọn con đường cho tôi, suốt hơn 7 năm quay cuồng trong chiến trận, từng phút từng giây giữa hiểm nguy chết chóc vây quanh, giờ đây chẳng cần phải nghĩ vẫn vơ cho mất thì giờ.
***
12 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975
Đại đội 4 qua sông trước, Trung úy Quang báo cáo:
- Trình anh Ba không có một đơn vị nào đón Tiểu Đoàn mình hết.
Thực ra đến giờ phút này chúng tôi đã cảm thấy thấm thía mọi vấn đề. Tôi bảo Quang cứ tiến quân lên khỏi bờ sông chừng 500 mét và bố trí, chờ chúng tôi qua sông. Trong lúc đó, pháo của Việt cộng điều chỉnh vào vị trí bờ sông tương đối chính xác, những quả đạn pháo kích từ hướng Non Nước rót xuống liên tục. Giữa khoảng trống mênh mông này, có tránh cũng vậy mà không tránh cũng rứa thôi, chỉ làm rối loạn thêm hàng ngũ.
Anh Thạnh qua sông trước và ngồi chờ chúng tôi.
Tôi vừa lên bờ, anh nói :
- Tân An, không có ai ở đây hết. Anh hãy gọi Lộc cho biết đã tới đâu và tình hình như thế nào?
- Vâng.
Anh Lộc gọi cho biết:
- Vừa tới bờ sông với Đại đội 3 đang cho bố trí, địch quân lợi dụng vào dân chúng để tấn công vào đằng sau, chúng tôi không thể qua sông được.
- Thẩm quyền cho củng cố vị trí và phản công, không cần qua sông vội, bên này chúng đang pháo kích.
- Đáp nhận Tân An.
Lần lượt Đại đội 4, 1, 2 và BCH Tiểu Đoàn đã qua sông.
Từ bến sông vừa lên tới lộ nhựa, chúng tôi thấy ngay cảnh hỗn loạn của một số binh sĩ của Đại đội 4 đang chạy ngược trở lại, trên đầu không nón sắt, vai không balô.
Trung úy Quang cho biết phía trước địch quân pháo kích dữ dội, dân chúng cùng một số đơn vị khác đang chạy hỗn loạn.
Tôi bảo Quang :
- Chấn chỉnh ngay hàng ngũ, không được tán loạn, cho dàn phòng tuyến rộng về bên kia đường, bố trí mặt Đông và Nam.
Anh Thạnh và tôi hội ý:
1- Kể từ giờ phút này không còn trông chờ vào một sự tiếp ứng nào khác.
2- Tìm một vị trí tốt phòng ngự để bảo toàn đơn vị.
3- Thiếu tá Lộc và Trung úy Ba, lo điều động Đại đội 3.
Thực sự, trên khắp đất nước từ biển đến núi và những vùng quê xa xôi hẽo lánh, cho đến miền đầm lầy tận cùng Cà Mâu, Năm Căn … gần như bước chân chúng tôi không thiếu nơi nào, nhìn vào tấm bản đồ thành phố, chúng tôi cảm thấy xa lạ bởi chiến trận thực hiếm khi xảy ra tại nơi thành thị như lần này.
Sau khi định hướng và xác định điểm đứng, chúng tôi đồng ý kéo quân lên phía Bắc của phi trường Non Nước, ở đó có nhiều khu nhà đồ sộ, cạnh bờ biển.
- Phương Dung đây Tân An.
- Phương Dung nghe anh Ba.
- Phương Dung kiểm điểm con cái xong, cho di chuyển tới điểm X, bố trí, mặt quay ra biển hướng Đông. Hãy báo cáo cho biết khi bắt đầu di chuyển.
- Đáp nhận.
Sau khi chấn chỉnh đội hình một cách nhanh chóng, Đại đội của Phán bắt đầu di chuyển, kế tiếp tới Đại đội 1 của Trung úy Công, BCH/TĐ và Đại đội 4 của Trung uý Quang bao chót. Khi tới nơi, chúng tôi mới biết đây là khu Chủng viện Thiên Chúa và những nhà nuôi trẻ em rộng lớn.
Chủng viện Sơn Trà là 1 khu kiến trúc đồ sộ, có khoảng 4, 5 dãy nhà lầu liên tục, nằm thành hình chữ nhật chung quanh có hàng rào cao, cột đúc kiên cố, căng lưới chống B40. Trong thế trận cấp bách như hiện tại, không thể nào tìm được một vị trí tốt hơn được. Phía Đông quay ra bãi biển, cách bờ nước chừng 200 mét, phía Nam là khoảng trống mênh mông tiếp giáp với phi trường Non Nước, phía Bắc là khu dân cư chài lưới, công sở đằng xa về phía Tây.
Toàn bộ khu vực là đất pha cát, việc đào hầm hố và giao thông hào tương đối dễ dàng mau lẹ với xạ trường rất lý tưởng.
Thiếu tá Thạnh đồng ý tổ chức phòng ngự trên vị trí này.
Hệ thống phòng thủ như sau :
1- Đại đội 2: Phòng thủ phía bãi tắm, quay mặt về biển Đông, quan sát tàu bè.
2- Đại đội 1 và 4 lập thành hình chữ L quay về phía Nam và Tây.
Chúng tôi dự tính: phía Nam và Tây sẽ phải đối đầu chính diện với địch.
- Chúng tôi vừa tiếp nhận một số quân nhân của Tiểu Đoàn 6/TQLC do Đại úy Hồ ngọc Hoàng dẫn đầu. Tôi sắp xếp để toán quân của anh Hoàng tạm phòng thủ về mặt Bắc.
Riêng Đại đội 3 của Trung úy Trương văn Ba (chúng tôi gọi đùa là Ba Gà) và Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Lê văn Lộc bị kẹt bên kia sông Hàn, không thể qua được.
Trong những giây phút sau cùng anh Lộc và Ba đã cho chúng tôi biết rằng Đại đội 3 đang phòng thủ bên bờ sông thì địch tấn công và pháo kích dữ dội.
Anh Lộc bảo:
- Nằm ở đây chỉ làm bia cho chúng bắn và pháo, lưng dựa vào bờ sông kẹt qúa ...
Anh Thạnh cho lệnh:
- Lộc và Ba tự lo liệu lấy, cố gắng chiếm vị trí tốt để giảm thiểu thiệt hại cho đơn vị.
Chừng nữa giờ sau, anh Lộc đã gọi tôi:
- Tân An đây Lộc Ninh.
- Nghe thẩm quyền.
- Chúng tôi đang lui dần về phía cầu De Lattre, không thể tiến được nữa vì bị những con sông nhỏ, không qua được.
- Tân An, Tân an ...
Tôi nghe những tiếng kêu la vội vàng trên máy và từ đó mất liên lạc với cánh quân này.
(Sau này, khi các anh được địch thả ra từ Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, tôi gặp lại anh Lộc và Ba. Các anh đã kể lại cho tôi nghe những biến cố xảy ra trong ngày hôm đó như sau: Đại đội 3 không thể chịu nổi sức tấn công của địch vì tuyến phòng thủ tạm thời của Đại đội quá chênh vênh không thế dựa, lại nữa pháo của địch rót xuống liên tục trong khi đó binh sĩ không nơi trú ẩn tránh pháo kích, các anh đã cho lệnh rút dọc theo bờ sông về hướng Đông, phía cầu De Lattre, nhưng kẹt phải mấy con sông, một số binh sĩ đã chết đuối. Cuối cùng, Đại đội 3 đã tan hàng).
Tại Chủng viện Sơn Trà, các Đại đội đã thiết lập xong hệ thống phòng thủ. Chúng tôi cảm thấy rất vừa ý sau khi đi kiểm soát một vòng chung quanh.
Có lẽ đây là một vị trí chiến đấu lý tưởng.
Chúng tôi đã chọn sẵn sàng cho mình một trận địa để sửa soạn cho một cuộc chiến đấu cuối cùng của những người lính trận.
Là cấp chỉ huy, chúng tôi thừa biết rằng từ giây phút này tứ bề là địch, cuộc chiến đấu của chúng tôi sẽ là đơn độc, tuyến phòng thủ không đường triệt thoái, không có bất cứ một sự tiếp ứng hoặc yểm trợ hỏa lực nào của các lực lượng bạn. Chúng tôi sẽ phải chiến đấu cho đến khi bị tiêu diệt.
Có một điều chắc chắn rằng địch cũng sẽ phải trả một giá rất đắt khi chúng tôi còn hơi thở và ý chí chiến đấu.
Ban Chỉ Huy ngồi rải rác chung quanh, tôi ngồi trên bậc cấp cuối của Chủng viện, còn anh Thạnh tựa lưng vào chiếc cột đúc nghỉ ngơi.
Thói quen trong những giây phút gay go chỉ có khói thuốc làm cho tâm trí tỉnh táo và sáng suốt ra; hai chúng tôi ngồi hút thuốc liên tục.
- Thưa Đại úy, có Bác sĩ Túy xin trình diện.
Tôi quay lại nhìn người lính truyền tin, Hoàng quay mặt về phía cổng vào, tôi nhìn theo thấy BS Túy đang đứng ở đó, tôi đưa tay ra hiệu cho anh tiến về phía chúng tôi:
- Thiếu tá, có BS Túy muốn xin trình diện.
Anh Thạnh gật đầu, tôi chỉ BS Túy lại trình diện Thiếu tá Tiểu Đoàn trưởng.
Bác sĩ Túy, người Bác sĩ quân y mới thuyên chuyển về Tiểu đoàn được hơn 1 tháng, dáng anh nhỏ và hiền lành, ít nói. Anh có vẻ khép nép, chậm chạp tới trước mặt anh Thạnh đưa tay chào và trình bày hoàn cảnh của anh:
"Quê anh ở quận Duy Xuyên. Anh có người mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ, không biết bây giờ gia đình ra sao và lưu lạc về đâu. Anh vô cùng lo lắng và muốn xin phép chúng tôi được trở về quê tìm me, vợ và các con".
Nhìn cảnh hỗn loạn của dân chúng từ những ngày trước còn ở Đại Lộc, cũng như trên trục tiến quân cho đến hôm nay chúng tôi đã hiểu rất rõ tâm trạng vô cùng hoang mang, đau khổ của thuộc cấp. Chúng tôi rất thông cảm hoàn cảnh của họ, nhất là dối với những người có gia đình, cha mẹ, vợ con, anh chị em ở vùng này.
Không, chúng tôi không trách gì BS Túy, không trách anh thiếu tinh thần trách nhiệm, bởi vì những người đáng lẽ có trách nhiệm hơn anh, trách nhiệm to lớn hơn anh cũng đã im hơi lặng tiếng trốn chạy, bỏ lại những đại đơn vị to lớn cấp Quân đoàn, Sư đoàn, không chút tiếc thương, không xấu hổ, ngại ngùng, huống gì anh.
Tuy nhiên chúng tôi cũng không muốn hình ảnh của anh có thể gây nguy hiểm cho đơn vị trong giờ phút hiện tại, nên tôi nói với anh Thạnh:
- Chấp nhận đi Thiếu tá,
Anh Thạnh bảo với BS Túy :
- Tùy anh.
Nhưng BS Túy lộ vẻ sợ hải, vì có thể anh đang mang mặc cảm phạm tội qúa lớn, tội này có thể bị bắn bỏ ngay ngoài mặt trận. BS Túy cúi nhìn xuống đất.
Tôi biết rất rõ về người Tiểu Đoàn trưởng của chúng tôi. Sau dáng mặt lạnh lùng đó, anh rất hiền lành và nhân đạo, đôi khi vì giầu tình cảm khiến anh trở nên yếu đuối.
Tôi biết trong phút giây này anh Thạnh đang có quá nhiều âu lo, buồn phiền.
Tôi quay lại nói với BS Túy :
- Anh Túy cứ yên tâm đi đi, hãy cẩn thận khi ra khỏi hàng rào, ngoài đó là chỗ loạn quân, hỗn quan. Chúng tôi mong anh tìm lại được gia đình.
BS Túy chào anh Thạnh và tôi cùng giã từ những người đồng đội quân y và anh đi về phía khu làng chài lưới. Từ đó chúng tôi không bao giờ còn gặp lại người đồng đội đó nữa.
Anh Thạnh ngồi xuống bậc cấp và đưa tay nắm dây 3 chạc của tôi kéo xuống ngồi bên cạnh anh và móc gói thuốc mời tôi và nói nhỏ:
- Bây giờ trong đơn vị mình đa số là người miền Nam, họ có gia đình ở trong Nam, còn một số anh em miền Trung cũng tội nghiệp như BS Túy. Chúng ta có nên gọi họ lên đây để nói như đã nói với BS Túy không Tân An?
- Thiếu tá nói cũng đúng. Trận đánh sắp tới đây đương nhiên là một mất một còn, có thêm một số anh em hy sinh nữa cũng vậy thôi. Theo tôi cho tập họp tất cả Đại đội trưởng, Trung đội trưởng, Tiểu đội trưởng, chúng ta ra lệnh và các anh ấy về phổ biến lại.
- Đồng ý. Anh Thạnh gật đầu.
Tôi gọi Trung úy Sơn, người Sĩ quan phụ tá :
- Sơn cho gọi toàn thể các cấp từ Tiểu đội trưởng đến Đại đội trưởng lên họp khẩn cấp; giao tuyến phòng thủ cho các cấp phó, hãy cẩn thận.
Trung úy Phán tập họp các cấp cán bộ, trình diện lên tôi.
Sau khi kiểm soát lại xong xuôi tôi trình diện cho anh Thạnh.
Anh Thạnh đứng trên bậc cấp của Chủng viện, anh cúi đầu thực lâu, hai vai anh rung lên.
Cuối cùng anh ngẫng lên nhưng anh không nói được.
Sự tủi nhục và đau đớn làm anh uất nghẹn, anh cố nuốt xuống, nhưng trên đôi mắt đã tràn đầy nước mắt, anh bước thật nhanh về phía cột trụ và úp mặt lên hai bàn tay, anh lắc đầu, giọng nói đầy nước mắt :
- Tân An, tôi không nói được.
Toàn thân tôi rung động, những cảm giác chai lì của chiến trận bổng phút chốc tan biến. Đầu óc tôi thực mơ hồ và bồng bềnh, tôi nghiến chặt hàm răng, cố nuốt những giọt nước thật mặn chạy xuôi về sâu trong lòng. Tôi bước tới trước hàng hiên, ngẫng đầu lên thật cao, vì tôi biết rằng khi tôi cúi thấp xuống, tôi sẽ không dấu được những giòng nước mắt đau đớn như anh Thạnh. Hơn nữa Tiểu đoàn này là đứa con do chính chúng tôi đã cưu mang từ ngày 20 tháng 4 năm 1970, từ ngày thành lập cho đến hôm nay vừa đúng 5 năm.
Tôi hít một hơi dài và nói lớn :
- Tất cả anh em Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ nghe đây, chúng tôi không còn dấu diếm bất cứ một điều gì nữa. Từ Đà Nẵng đến Quảng Trị tất cả mọi đơn vị đã tan hàng, Tiểu Đoàn 9 TQLC chúng ta là đơn vị duy nhất còn lại, và trận đánh sắp tới đây là trận tử chiến, chẳng thể lùi bước để về đâu được nữa. Do đó, nhờ các bạn về thông báo lại cho tất cả anh em binh sĩ, ai muốn tình nguyện chiến đấu hãy ở lại, còn ai muốn về với gia đình, không chiến đấu cứ yên tâm rời khỏi nơi này chúng tôi không ép buộc. Riêng bản thân chúng tôi quyết ở lại chiến đấu, sống chết với Tiểu Đoàn 9 TQLC đến phút cuối cùng.
Tôi cố nói tiếp để khỏi bị xúc động khi ngừng lại:
- Bảo anh em trung đội quân y chia riêng cho mỗi cá nhân một bịch nylon trong đó gồm thuốc đau đầu, đau bụng, thuốc sốt rét, băng cá nhân, băng keo …cùng những thứ nào các bạn thấy cần thiết cho anh em binh sĩ trong khi thoát hiểm mưu sinh.
Cuối cùng tôi hét lên:
- Hết!
Tôi định quay mặt đi nhưng Phán mập đã tiến tới trước tôi, anh đưa tay gỡ chiếc kính cận, cũng như tôi, nước mắt anh đã đong đầy trên mắt kiếng, anh chỉ nói được vài tiếng nho nhỏ:
- Anh Ba, anh Ba! và anh quay lại hàng quân đưa cao tay hô lớn:
- Tiểu đoàn 9 quyết tử thủ!
Và tất cả anh em la lớn:
- Chúng tôi quyết tâm ở lại chiến đấu.
- Thôi cho anh em trở về lo tuyến phòng thủ và sửa soạn tất cả mọi chuyện chúng tôi đã căn dặn.
BCH/Tiểu đoàn di chuyển lên lầu 1 để dễ quan sát và điều động các đơn vị chiến đấu. Ban lệnh cho mọi người ăn cơm, nước cho mau để còn sẵn sàng đối phó với đợt tấn công của địch.
***
2giờ 40 ngày 29 tháng 3 năm 1975
Từ Đại đội 1, Trung úy Công báo cáo về Tiểu Đoàn :
- Xa xa về hướng phi trường chiến xa địch xuất hiện cùng với cờ mặt trận giải phóng.
Từ Đại đội 4 Trung úy Quang cũng cho biết:
- Thiết giáp địch đang tiến về phía chúng ta.
Anh Thạnh cầm máy nghe và bảo tôi:
- Tân An lên lầu quan sát thử coi.
Tôi nắm cây XM.16 và dẫn theo một người lính truyền tin đi thẳng lên sân thượng của chủng viện rộng lớn để quan sát rõ hơn.
Đưa ống nhòm về hướng phi trường những cuộn bụi và khói kẻ thành từng hàng bốc lên cao, đoàn thiết giáp địch chừng 5, 6 chiếc giăng hàng ngang chậm chạp tiến về phía chúng tôi. Tôi cười thầm trong bụng: “Cuối cùng thì chúng mày cũng tới”.
Chưa bao giờ tôi thấy vui và tỉnh táo như lúc này.
Nhìn vòng tuyến phòng thủ từ trên cao thật vững vàng, tôi yên tâm xuống gặp anh Thạnh, anh Thạnh hỏi:
- Tân An thấy sao?
- Trình Đại Bàng chiến xa địch có treo cờ mặt trận đang tiến về phía chúng ta, không còn xa .
Anh Thạnh gọi cho các Đại đội sẵn sàng chiến đấu.
Tôi vui vẻ thấy dáng mặt nghiêm trang của anh có chút ít xúc động.
Có lẽ từ ngày về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9/TQLC đây là trận đánh đầu tiên của anh. Nhưng chúng tôi không ngờ đó cũng là trận chiến sau cùng của anh Thạnh trong chiến trận. Anh đứng lên, tay nắm cây súng phóng lựu M.79 đi tới đi lui trong phòng; các đại đội 4, và 1 báo cáo về tới tấp.
Tôi bảo:
- Vững tâm, thấy VC thì nhắm bắn từng đứa cho chính xác. Còn thiết giáp tới gần dưới 50 mét ống phóng hỏa tiển và đại bác lo liệu. Chúng khó có thể xông vào đây được.
Thực ra, tôi cũng như anh Thạnh, chúng tôi có cùng cảm giác và sự nghĩ ngợi. Trong những giây phút ngắn ngủi đó, biết bao ý niệm phức tạp dấy lên trong đầu về đơn vị, gia đình, người thân và người yêu, nhưng rồi cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì.
Cuộc chơi nào rồi cũng đến lúc kết thúc, kết thúc bất cứ bằng cách nào. Có lúc tôi và anh Thạnh nhìn nhau cùng cười, cái cười thú vị của những con người đã chai lì đang tìm ra được một lối đi, một cái cười chấp nhận.
***
3 giờ 15 ngày 29 tháng 3 năm 1975
Những loạt đạn nổ đầu tiên khai mào trận đánh, những loạt đạn địch bay qua lưới sắt đục lỗ lên tường, kẽ những vạch vô hình trong không khí, những quả đại bác phóng đi từ thiết giáp nổ ầm ầm chung quanh, như pháo tết. Ngoài tuyến phòng thủ bắt đầu chống trả.
Chung quanh tôi vang dội những tiếng reo hò trên trận tuyến, tiếng reo hò qua những chiếc loa máy truyền tin PRC-25, cùng với tiếng la hét của những người dân vô tội với vô số trẻ con đang kẹt trong chủng viện vì những trái đạn lớn rơi và nổ ngay giữa sân chủng viện.
Chính những tiếng khóc, tiếng réo gọi nhau thất thanh, chính những âm thanh này đã khiến chúng tôi nao núng.
Trên trận tuyến với khả năng chiến đấu của đơn vị, tôi nghĩ có thể giữ nổi, dù rằng không thể được lâu dài, nhưng ít ra cũng được vài ba ngày.
Từ lúc đó, đạn pháo cỡ lớn, đổ xuống sân Chủng viện dày đặc hơn. Sau những tiếng nổ long trời lở đất là tiếng la hét và khóc thét của đàn bà và trẻ con, tôi vội phóng lên sân thượng, nhìn tình hình chung quanh thầm nhủ: “không sao hết, chúng mày còn lâu mới chiếm được”.
Thỉnh thoảng hai Đại đội trưởng Công và Quang báo cáo. Cuộc chiến đấu vẫn tốt đẹp. Những đợt tấn công của bộ binh địch bị đẩy lui dễ dàng, trên bãi cát mênh mông, những xác người gục ngã và chưa có một chiến xa nào của địch xông vào được ngoại trừ vài chiếc đã bốc cháy, bốc khói đen mù mịt vì đạn M72 và đại bác của ta.
Trận đánh tiếp tục, đạn pháo binh và đạn đại bác từ chiến xa dập vào càng lúc càng dày đặc hơn, tiếng la khóc vang trời từ dưới những căn nhà đồ sộ của Chủng viện.
Người truyền tin đưa máy cho tôi và bảo:
- Anh Ba, Trung úy Phán muốn gặp.
- Phương Dung, Tân An nghe đây .
- Trình anh Ba, có 2 chiếc tàu lớn xuất hiện ngoài khơi, anh Ba có thấy không?
Tôi bảo Phán chờ, tôi đi về cuối hành lang của dãy lầu, qua khoảng trống nhìn ra biển đông mênh mông tận chân trời, trên cái mặt thảm phẳng mà xanh đó, tôi thấy có 2 chấm đen xuất hiện tận chân trời, tôi bảo người lính cho tôi cái ống nhòm, tôi nói nhỏ: “Đúng 2 chiếc tàu có lẽ đang di chuyển về hướng chúng tôi.”
- Phương Dung đây Tân An, đúng là 2 chiếc tàu lớn.
- Anh Ba có cho lệnh gì không ?
- Chờ đó!
Tôi trở lại căn phòng chỉ huy, hỏi ý kiến anh Thạnh, anh Thạnh xúc động mạnh, anh nói với tôi:
- Anh cứ nói với Phán quan sát và theo dõi kỹ lưỡng và báo cáo.
- Vâng.
Tôi lập lại với Phán ý kiến của anh Thạnh, sau đó gọi Đại đội 1, 4 cho biết tình hình, Công và Quang đều cười và trả lời dứt khoát:
- Anh Ba yên tâm lớn, mấy con chuột này chưa làm gì được đâu.
Tôi thở dài! Không biết trong giây phút này Công và Quang có hiểu gì về thế trận này không? Ôi thực buồn lòng, những người chiến hữu thuộc cấp cũng là những thằng em thân thương như ruột thịt, họ đã sống với tôi trong chiến trận từ ngày đầu mới ra trường về lập đơn vị cho đến những cuộc vui chơi thâu đêm suốt sáng sau ngày hành quân trở lại phố thị, kéo nhau đi nhảy đầm, nghe nhạc, nhậu nhẹt, chúng tôi quây quần sống với nhau qua hết buồn vui cuộc đời lính trận. Giờ này đây là sự sống và cái chết - niềm mơ ước hay nỗi tuyệt vọng, tất cả đang quay cuồng trước mắt.
Chung quanh đây chẳng còn ai, chẳng còn ai liên lạc với chúng tôi, và có lẽ cũng chẳng còn ai biết được tận miền trung xa xôi này còn có một đơn vị đang cố chiến đấu, dĩ nhiên là tìm cái sống song cũng là cuộc chiến đấu để “định nghĩa” cho người ta hiểu thế nào là trách nhiệm của người lãnh đạo chỉ huy, thế nào là trách nhiệm đối với đất nước và đối với thuộc cấp.
Tôi không hề bi quan, tôi không được bi quan, vì chẳng còn gì nữa để mà bi quan? Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng. Nhưng trong tình cảnh này mưa sẽ chẳng bao giờ dứt, khi mà sự chiến đấu của chúng tôi còn tiếp tục - nó chỉ dứt khi con Mãnh Hổ chịu nằm yên, không còn hơi thở.
Thứ chiến đấu của người lính chiến đang làm tròn sứ mạng đối với đất nước. Họ biết một cách chắc chắn rằng không bao giờ và chẳng bao giờ có bổng lộc nào cho cá nhân họ như cấp bậc, chức vụ, thăng thưởng. Họ đang chiến đấu lần cuối cùng với đầy ý nghĩa của một đời làm lính trận....
Tôi cầm ống liên hợp gọi trên tần số mà anh Hợp đã cho:
- Nam Hổ, Nam Hổ đây Tân An.
- Hà Nội đây Tân An.
Chẳng có ai trên tần số này nữa, tại sao? Họ đã đi đâu? Về đâu? Trên mặt biển xanh, hai chiếc tàu lớn dần, cho đến lúc chúng tôi có thể nhìn thấy buồng lái và cột cờ.
Phán mập dồn dập xin lệnh, tình hình trở nên căng thẳng.
Liên tiếp mấy tiếng đồng hồ súng nổ, pháo dập, chiến xa địch tấn công, không làm cho chúng tôi lúng túng. Nhưng bây giờ nhìn thấy hai chiếc tàu này xuất hiện một cách lạ lung mà mình vẫn không bắt liên lạc được trên máy truyền tin đã khiến đầu óc chúng tôi rối tung.
Anh Thạnh và tôi bàn tính:
- Không lẽ hai chiếc tàu đã bị địch chiếm chạy vào đây dẫn dụ mình?
- Còn nếu sự thực tàu vào đón tại sao lại không liên lạc được?
- Mà lỡ tàu vào đón thiệt và chúng tôi bỏ qua cơ hội này thì tai hại biết chừng nào!
Tôi kiên nhẩn gọi Hà Nội và Nam Hổ thêm mấy lần nữa, nhưng tuyệt nhiên không một tiếng trả lời. Càng về chiều địch quân càng tấn công dữ dội.
Anh Thạnh hỏi tôi:
- Tân An coi được chưa, ra lệnh cho Phán!
Tôi nhìn anh Thạnh và thầm nói với mình:
- “Có bao nhiêu lần như thế này trong cuộc đời chúng ta?”
Tôi nhìn ra hành lang, hai chiếc tàu lớn chỉ còn cách bờ nước chừng gần cây số, tôi nghiến chặc răng và gật đầu đồng ý với anh Thạnh:
- Phương Dung đây Tân An.
- Phương Dung nghe anh Ba.
- Cho con cái chuẩn bị, khi có lệnh sẽ rời Chủng viện và phóng nhanh ra tàu.
- Nhưng còn cái hàng rào vững chắc này thì làm sao?
- Phương Dung cho tất cả binh sĩ leo lên dằn nó xuống. Nghe rõ không?
- Đáp nhận anh Ba !
Và chiếc tàu chỉ còn cách bờ khoảng vài trăm mét, tôi gọi Phương Dung:
- Hạ ngay hàng rào và phóng ra tàu.
- Đáp nhận anh Ba, thi hành ngay.
Từ trên tầng lầu hai của Chủng viện, giữa tiếng đạn pháo của địch, lẫn tiếng reo hò của quân ta, chúng tôi còn nghe một tiếng Ầm...thực lớn, hàng rào của Chủng viện đã bị Đại đội 2 đạp sập. Sự điều động của Phán không còn hiệu quả, binh sĩ di chuyển không còn hàng ngũ, chẳng yểm trợ, thi nhau chạy nhanh về bãi nước.
- Hồng Hà đây Tân An .
- Hồng Hà nghe thẩm quyền.
- Hồng Hà, anh cho con cái xuống tàu.
- Đáp nhận thẩm quyền.
Đại úy Hồ ngọc Hoàng, người niên trưởng khóa 19 Đà lạt - Anh nhanh nhẹn đáp nhận và xua quân về biển nước. (Riêng Hồ ngọc Hoàng thời gian trước khi mất nước anh được thuyên chuyển về Tiểu đoàn 6 với chức vụ Trưởng ban 3. Nhưng tôi không có dịp để hỏi anh tại sao trong những giờ phút sau cùng này anh lại dẫn một toán quân khoảng một Đại đội của TĐ 6 đi về phía phi trường Non Nước. Bất ngờ khi đứng trên sân thượng của Chủng viện Sơn Trà để quan sát, nhìn ra xa tôi thấy một đoàn quân TQLC đang di chuyển, cố liên lạc thì được biết đây là một đon vị của TĐ6/TQLC và người chỉ huy là anh Hoàng, nên tôi gọi anh vào trám vào phòng tuyến phía Bắc, chịu sự chỉ huy của chúng tôi. Chúng tôi cũng không có dịp nói chuyện với nhau, cho đến gần 6 giờ chiều là lệnh cuối cùng mà chúng tôi cho anh. Và cũng từ đây chúng tôi không còn biết anh đã lưu lạc về đâu nữa.
Theo sự nói lại của một số binh sĩ của TĐ 6 thì Anh Hoàng đã chết trên biển khơi khi lội ra tàu. Xin cho tôi có một phút giây tưởng niệm về người Niên trưởng không may mắn này và xin lỗi Niên trưởng).
Đại đội 1, đại đội 4 liên tục gọi về Tiểu đoàn xin lệnh, tôi gọi Công và Quan nghe đầu máy :
- Cho giữ vững phòng tuyến, chờ Đại đội 2 lên tàu xong các anh sẽ có lệnh.
Vì tôi nghĩ cứ cho chạy bừa ra bãi biển thì có thể cuối cùng sự thiệt hại sẽ lớn lao vô cùng:
Thứ 1: Chắc gì những chiếc tàu này đến đón chúng tôi, có thể do địch đánh lừa.
Thứ 2: Khi mà Đại đội 1, 4 đang lâm trận nặng nề; thực vô cùng nguy hiểm khi bỏ tuyến lúc này.
Cùng lúc đó 3, 4 quả đạn lớn bay qua khoảng trống nổ ngay giữa chủng viện, anh Thạnh la lớn:
- Tân An, ra lệnh cho các Đại đội rời khỏi phòng tuyến và chúng ta đi ngay.
Chẳng còn suy nghĩ gì được nữa, tôi ra lệnh:
- Đại đội 1, 4,và Đại đội Chỉ huy bỏ tuyến, phóng nhanh về hướng con tầu.
Trong tình cảnh bối rối đó thực quá sức nguy hiểm, thực tình tôi không hề nghĩ ra có ngày hôm nay: “Chúng ta bỏ tuyến trận ngay giữa thành phố để bỏ chạy”.
Theo anh Thạnh xuống tầng dưới, ngang qua cửa sổ cuối hành lang, tôi nhìn thấy các đại đội vô cùng hỗn lọan phóng nhanh về phía 2 chiếc tàu lớn.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi chiếc tàu đầu chỉ còn cách bờ chừng hơn 100 mét , tự dưng họ dừng lại và bỏ số de, trong khi trên bờ những binh sĩ TQLC đang chuẩn bị để xuống tàu, thật lạ lùng, tàu càng lúc càng rời ra xa.
Trời chiều đang xuống thấp, giữa cảnh hỗn loạn đó, tôi thấy những người lính TQLC vứt bỏ Balô, súng đạn, lội ra biển, càng lội càng xa tàu vì nó đang rời xa khỏi bờ biển.
Khi xuống tới sân Chủng Viện, tôi và anh Thạnh lạc nhau.
Trên tay tôi còn cây súng XM.16, tôi cũng chạy ra phía biển, những chiếc tàu chỉ còn là những bóng mờ trên mặt biển sẫm tối.
Tôi la lớn:
- Đừng, đừng lội theo tàu nữa. Trời ơi, chúng ta đã bị lừa.
Những người lính chạy gần tôi đứng lại ngạc nhiên hỏi:
- Đại úy nói gì? Chúng ta đã bị đánh lừa, tôi đưa tay chỉ về phía Bắc, nơi đó có khoảng 6, 7 chiếc tàu nhỏ mà chúng tôi gọi là Alpha đang đậu cách bờ nước chừng 50 mét. Tôi chỉ cho tất cả anh em còn lại tiến nhanh về bãi biển Mỹ Khê.
Nhưng khi sắp tới vị trí của mấy chiếc Alpha, thì một đơn vị Việt cộng đã phục sẵn ở đó, chúng từ dưới cát đứng lên và chỉa súng vào chúng tôi. Những toán quân phía trước dừng lại vừa nổ súng vừa la lớn: “Việt cộng, Việt cộng!”
Tôi vội vàng quay hướng về phía làng mạc cùng với toán quân còn lại phóng nhanh, vượt qua một khu làng và tiến đến một nghĩa trang (sau này chúng tôi mới biết đây là Nghĩa trang An Hải) rộng mênh mông, nhiều bụi xương rồng, gai góc và nhiều mồ mã xây, nơi đây có thể tổ chức để phòng thủ. Chúng tôi ẩn nấp trong đó, tiếp tục bố trí chiến đấu với số súng đạn còn lại ít ỏi của mình.
Đêm tối phủ xuống thực nhanh trên nghĩa trang, chẳng còn nhìn thấy nhau nữa. Hỏa châu của địch lơ lững trên cao, và những quả đạn súng cối rớt xuống nghĩa trang, chưa có dấu hiệu địch tấn công.
Thất trận, đói khát, mệt mõi và nhất là đau xót ê chề về sự tan rã của đơn vị đã làm tê liệt ý chí trong tôi...
Tôi đã ngủ quên bên một bia mộ.
Thời gian qua không biết bao lâu, tôi nghe bên tai tiếng rì rào nói chuyện, giật mình tôi la lên:
- Chưa đủ hay sao mà còn lớn tiếng dẫn đường cho Việt cộng?
Một người lính bò lại bên tôi thì thầm:
- Đại úy, Đại úy.
- Hoàng hả, chi vậy ?
- Dạ em đây, VC bò vào hỏi bọn em: ”cấp chỉ huy đâu?”, chứ không phải bọn em nói chuyện.
Tôi tỉnh hẳn người sau câu nói của Hoàng, giờ thì tôi đã hiểu rằng tôi đã mất tất cả. Chúng tôi âm thầm vượt qua hàng kẻm gai, lợi dụng những vồng rau lan cao lớn, bò về phía ánh đèn xa xa. Sự trốn chạy kỳ lạ này giống như trò chơi cút bắt của những ngày thơ ấu. Chúng tôi còn lại bốn thầy trò, mò mẫm trong đêm tối trở lại bờ sông Hàn, tới bờ sông nhìn qua bên kia thấy có ánh điện đường, tôi với hai người lính tuột áo quần lội qua sông, còn một người không biết lội ngồi lại bên bờ này giữ quần áo.
Đồng hồ trên tay chỉ 1 giờ sáng, tôi quyết định vượt sông. Khi tới gần bờ bên kia tôi lặn một hơi dài và âm thầm nhú đầu lên mặt nước, bỗng nghe tiếng la lớn của tên VC gác trên cầu:
- Ai đó? Và hắn nổ súng.
Hoàng vội vàng quá nên đã bị lộ, tôi la lớn:
- Trở lại bên kia bờ! Tôi lặn một hơi dài ra tới giữa giòng sông và lội trở lại bờ bên kia.
May mắn không ai bị gì và cũng không thất lạc nhau. Mặc áo quần xong chúng tôi rời khỏi bờ nước tìm đến một căn nhà có đèn còn sáng và gõ cửa xin vào.
Người đàn bà mở cửa, thấy chúng tôi trong quân phục TQLC, bà ta có vẻ sợ hải, tôi hiểu và trình bày ngắn gọn, người đàn bà mời vào, đóng cửa cẩn thận.
Trong nhà có thêm một cô gái chừng 16, 17 tuổi. Họ cho chúng tôi ăn uống, sau đó chúng tôi nhắm mắt trong giấc ngủ chập chờn...
***
9 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1975
Từ trong căn nhà qua đêm ngủ đỡ ở An Hải, chúng tôi đi về hướng cầu De Lattre, với ý định trở lại vùng chiến trận hôm qua coi có ai còn nằm ở đó nữa không để yên tâm trước khi từ giã nơi này. Nhưng khi ra khỏi nhà chừng nữa cây số thì một nhóm người khoảng năm sáu đứa trên chiếc xe jeep, dừng lại vội vã trước mặt tôi và những người thuộc cấp. Chúng chỉa súng ngay vào người tôi và bảo đưa tay lên đầu.
Thực lạ lùng, tôi không còn môt chút ý niệm về cái sống và sự chết. Đầu óc tôi như đang vẩn vơ trong giấc mơ, hai chân bước đi nhẹ nhàng như trên sương khói, tôi cứ tiếp tục đi, bên tai hình như tôi còn nghe tiếng la hét:
- Đứng lại, đứng lại, anh có phải đơn vị trưởng không?
Tôi mơ hồ:
- Phải rồi.
Chúng vội vàng có đứa nắm tay định làm dữ.
Những người lính của tôi chận lại và xô họ ra:
- Các ông muốn gì cứ nói, đừng đụng tới ông thầy tôi ...
Cuối cùng chúng mời tôi lên xe ...
Lúc đó vào khoảng 9 giờ hơn. Tôi bị bắt.
***
Tôi muốn đi về phía bãi cát dài, nơi cuộc chiến vừa xảy ra hôm qua để một lần được nhìn lại dấu vết sau cùng của một đời chiến trận - và được nhìn ra biển Đông - nơi mà những chiến hữu của tôi đã chọn lựa để gởi gấm thân xác - và nói với Biển rằng :
“Xin cảm ơn, Biển là nơi chốn trong sạch nhất để tiếp nhận các bạn vào cõi Vĩnh Hằng - Hởi những người con thân yêu đáng trân trọng của Tổ Quốc.”
Sacramento , ngày 30 tháng 12 năm 1995
Tân An Đoàn Văn Tịnh
Sinh Tồn chuyển