Truyện Ngắn & Phóng Sự
Tình chị duyên em..
Chiều Chủ Nhật, Vũ cùng người yêu thong thả sánh bước bên nhau trên bến Bạch Đằng. Gió từ sông Sài Gòn thổi vào mát rượi. Tà áo dài xanh của Vân phất phới bay trong gió, quấn quít lấy bộ đồ lính thủy của Vũ là hình ảnh đẹp tuyệt vời trong cuộc đời thủy thủ của chàng. Chỉ còn một buổi chiều nay hai người cuống quít hưởng trọn hạnh phúc bên nhau để ngày mai xa cách vì chiến hạm của chàng phải lên đường ra khơi công tác.
Từ ngày quen nhau và yêu nhau đã một năm rồi mà những ngày gặp gỡ gần nhau chẳng có là bao. Chỉ toàn là những tháng ngày nhớ nhung cách biệt. Nhưng Vân vẫn vui vẻ chấp nhận, làm người yêu lính biển là thế đó.
Mới mười ngày trước đây, chiến hạm của chàng được lệnh về Sài Gòn nghỉ bến và tu bổ sau gần hai tháng tuần dương. Nhưng cuối tháng Ba 1975 này, tình hình đất nước gặp nhiều nguy biến. Nào là Ban Mê Thuột thất thủ, nào là các tỉnh Tây nguyên di tản và miền Trung bị áp lực Cộng sản uy hiếp nặng nề. Vì thế chiến hạm phải thi hành công tác khẩn cấp mặc dù tình trạng kỹ thuật còn yếu kém. Thế là mai đây chàng lại theo con tàu lênh đênh trên biển cả, sống tiếp những ngày dài xa bờ, xa bến, xa gia đình, xa người yêu. Đời lính biển với mộng hải hồ nhiều lúc thật lý thú nhưng cũng lắm vất vả khổ đau. Có những giờ phút thần tiên khi biển êm sóng lặng bóng trăng tròn vằng vặc cùng vạn vì sao lấp lánh sáng cả bầu trời, con tàu oai hùng rẽ sóng vượt trùng dương. Đời thủy thủ lúc bấy giờ thơ mộng, đẹp như bài “tình ca người đi biển”. Nhưng khi thần biển nổi cơn phẫn nộ với biển gào gió thét làm con tàu lắc lư, chơi vơi, vùi dập theo từng đợt sóng lớn. Ai nấy đều mệt nhoài vì say sóng, đa số bỏ ăn bỏ uống, nôn thốc nôn tháo đến cả mật xanh mật vàng để “cho cá ăn chè”.
Vũ biết chuyến công tác sắp tới sẽ gặp nhiều cam go nguy biến nhưng chàng không dám cho Vân biết, sợ nàng buồn lo. Chàng cố vui trọn hạnh phúc bên Vân trong buổi chiều nay, mong đem đến cho nàng lòng tin yêu trước lúc chia tay. Đến khi thành phố đã lên đèn, chàng lấy xe đưa nàng về nhà và vào từ biệt gia đình nàng. Bấy lâu nay, cha mẹ nàng vẫn thương quý chàng và xem Vũ như là chàng rể tương lai.
Sau một lúc hầu chuyện với cha mẹ nàng, Vũ đứng lên xin phép về nhà. Vân đưa tiễn người yêu ra cổng thì Loan – cô em gái nhỏ của nàng - tuổi độ mười ba, chạy theo nắm áo chàng vòi vĩnh:
-Tàu anh đi công tác nếu có ghé miền Trung nhớ mua cho em cái nón lá bài thơ, nghe anh!
Chàng mỉm cười, vuốt tóc cô bé dỗ dành:
- Được rồi, bao giờ anh về sẽ có quà cho bé. Ở nhà hãy ngoan và chăm học Loan nhé!
Giã biệt người yêu, chàng lên xe về nhà. Mẹ chàng đang đón đợi chàng ở cửa. Nắm tay mẹ cùng bước vào nhà, Vũ cùng mẹ dùng bữa cơm tối. Cạnh đó, chàng thấy mẹ chàng đã chuẩn bị sẳn cho chàng một xách tay nhỏ để sáng mai chàng đem xuống tàu. Trong đó có mấy bộ quần áo đã ủi thẳng nếp, vài món thức ăn khô, thuốc men cùng các vật dụng linh tinh khác. Chàng cảm động, thương mẹ vô cùng. Mẹ chàng vẫn chăm sóc chàng từng li từng tí như thưở nào chàng còn là cậu học trò. Tuy thương mẹ nhưng chàng vẫn cằn nhằn:
-Con ở dưới tàu đầy đủ cả nào có thiếu gì mà mẹ làm mấy thức ăn này. Thuốc men dưới chiến hạm dư thừa con có bao giờ dùng tới đâu. Mẹ xem con còn bé lắm không bằng!
Mẹ chàng vẫn dịu dàng, từ tốn bảo chàng:
- Mẹ vẫn biết thế, nhưng con cứ mang xuống tàu mà dùng. Lúc đó xem như mẹ đang ở bên con chăm sóc cho con. Bố con đã mất rồi, đời mẹ chỉ còn có mình con đó!
Chàng nghẹn ngào, xúc động vì thương mẹ quá. Cha chàng mất đã lâu, để lại cho mẹ chàng sống đơn chiếc trong cảnh mẹ góa con côi, tảo tần nuôi chàng ăn học. Đến lúc trưởng thành, chàng phải rời mái trường để vào quân ngũ. Từ đó mẹ chàng sống thêm những chuỗi ngày buồn cô độc và luôn lo lắng cho chàng.
Chàng gượng cười, pha trò cho mẹ vui:
-Thưa mẹ, con đi kỳ này khoảng nửa tháng con sẽ về với mẹ. À, xong chuyến công tác này con sẽ về đưa mẹ đi xem mắt nàng dâu nhé. Con dâu của mẹ sẽ ở nhà thay con săn sóc mẹ, mẹ chịu không?
Mẹ chàng cười vui, mắng yêu:
-Thôi đi ông tướng, đã bao nhiêu lần rồi chỉ hứa cho qua chuyện. Lớn rồi mà chẳng chịu lấy vợ gì cả để tao sớm có cháu nội bồng!
Sáng sớm hôm sau, chàng từ giã mẹ xách túi hành trang xuống tàu. Chiến hạm đã sẳn sàng lên đường. Sau khi nhận lệnh công tác xong, hạm trưởng về tàu và ra lệnh nhiệm sở vận chuyển. Con tàu từ từ tách bến, thủy thủ đoàn trong bộ tiểu lễ trắng đứng dàn chào bên hữu hạm. Chào tạm biệt Hạm Đội, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tượng Thánh Tổ Hải Quân Trần Hưng Đạo ở công trường Mê Linh với lời thề quyết chiến thắng quân Nguyên năm xưa. Con tàu tiến chầm chậm từ giã thủ đô Sài Gòn sau đó tăng vận tốc hướng ra cửa biển và trực chỉ Đà Nẵng.
Trên đường đi, chiến hạm được lệnh mới tăng phái cho Vùng 2 Duyên Hải dưới quyền chỉ huy của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Bấy giờ các tỉnh miền Trung vô cùng nguy ngập và hỗn loạn. Chiều ngày 31-03-1975 chiến hạm chàng từ Cam Ranh hướng ra phương Bắc để bảo vệ thị xã Qui Nhơn. Tỉnh này đang là ải địa đầu đang bị Cộng quân vây hãm vì Quân Đoàn 1 vừa mới di tản hôm qua. Khi còn cách Qui Nhơn 50 hải lý về hướng Nam, chiến hạm chàng thấy một đoàn hạm đội từ Đà Nẵng rút chạy về. Mọi người trên đài chỉ huy tràn ngập nỗi bàng hoàng cay đắng vì đây là lần đầu tiên chứng kiến cảnh một quân đoàn di tản thê thảm như thế. Chàng nhìn cảnh lịch sử đó trong buổi chiều tà, khi bóng tà dương từ từ lặn khuất sau dãy Trường Sơn như báo trước viễn ảnh tối đen của đất nước.
Chiến hạm vẫn lặng lẽ tiến về phương Bắc, ngược chiều với các chiến hạm bạn đang lũ lượt di tản. Ngày 01-04-1975 Qui Nhơn chìm đắm trong vùng lửa đạn với những đám cháy mịt trời. Các chiến hạm chiến đấu như tuần dương hạm, hộ tống hạm, trợ chiến hạm,... đều tập trung trước cửa biển Qui Nhơn. Đoàn tàu cố gắng tiến vào gần bờ để yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bộ binh rút ra biển di tản. Các chiến hạm nhận lệnh bắn vào thành phố để chận bước tiến công của Cộng quân cho các đơn vị bạn an toàn thoát ra bờ biển.
Nhưng rồi Qui Nhơn mất, sau đó Nha Trang, Cam Ranh cũng mất theo. Chiến hạm chàng chở một số lớn đồng bào chiến hữu di tản về Vũng Tàu. Sau đó chiến hạm nhận lệnh tăng cường cho mặt trận vùng duyên hải Phan Rang, Phan Thiết. Tại eo biển Cà Ná, chiến hạm chàng đã chạm súng dữ dội với xe tăng T.54 Cộng sản và tham dự một trận hải chiến chớp nhoáng với tàu Bắc Việt ngoài khơi đảo Phú Quý.
Thế rồi ngày 28-04-1975 chiến hạm của chàng chỉ còn nhiệm vụ yểm trợ hải pháo cho thị xã Vũng Tàu. Nơi đây chàng thấy từng đoàn trực thăng, tàu thuyền, ghe đánh cá lũ lượt đưa người di tản ra tàu lớn. Từ đài chỉ huy nhìn vào trong bờ, thị xã Vũng Tàu đang bị Cộng quân pháo kích dồn dập, nơi nào bị trúng đạn bốc lên những cây nấm đen to khói lửa mịt mù.
Chiều hôm đó, nghe tin tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống, chàng tuyệt vọng biết cuộc chiến sắp đến hồi kết cuộc. Tướng Minh đã hai lần đứng lên làm lịch sử là hai lần đắc tội với tổ quốc. Một lần cầm đầu nhóm tướng lãnh tham lam bất tài để giết hại một vị tổng thống biết lo cho dân cho nước. Để đưa vận mệnh quốc gia vào tay ngoại bang thao túng và cho Cộng sản có cơ hội vùng lên thôn tính miền Nam. Một lần cuối cùng này, có công giao trọn đất nước cho Cộng sản với lời tuyên bố đầu hàng ô nhục, phản bội bao công lao các chiến sĩ đã đem máu đào của mình tô thắm màu cờ quốc gia.
Đến trưa ngày 30-04-1975, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, toàn cõi Việt Nam bị Cộng sản nhuộm đỏ từ đây. Chiến hạm của chàng vẫn còn lảng vảng ngoài khơi Vũng Tàu với đầy ắp người di tản. Chàng đau khổ, uất nghẹn nhìn vào quê hương thân yêu lần cuối. Nơi đó có mẹ già, người yêu đang rơi vào tay Cộng sản, buổi chia tay hôm nào nay đã thành vĩnh biệt sao?
Chàng cùng chung số phận với toàn thể thủy thủ đoàn, chấp nhận cảnh nước mất nhà tan, đau lòng bỏ lại bao người thân yêu kẹt lại quê hương khốn khổ và đưa chiến hạm tiến ra đảo Côn Sơn. Tại đây đã tập trung hầu hết các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam được bảo vệ chung quanh bởi Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ.
Thế rồi, đoàn tàu lũ lượt theo đội hình tiến về hướng Phi Luật Tân bắt đầu cho kiếp lưu vong. Khi vào hải phận Phi, hạm đội được lệnh hạ quốc kỳ Việt Nam. Bởi vì Việt Nam Cộng Hòa đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới và chính phủ Phi đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng sản Việt Nam. Mọi người đều đứng nghiêm chào lá cờ thân yêu lần cuối, gương mặt hiện rõ nét đớn đau tủi nhục.
Sau khi cặp bến Subic Bay, Vũ rời chiến hạm cùng với đoàn người di tản sang một chiếc thương thuyền Mỹ để tiếp tục sang đảo Guam. Khi tàu cặp cầu ở quân cảng Guam xong, Vũ thẩn thờ như kẻ mất hồn, tay xách túi hành trang của mẹ đưa cho chàng ngày nào và lê từng bước nặng nề lên bờ.
Trong những ngày tháng sống tha hương trên đảo Guam này, tâm hồn chàng bị giao động dữ dội, triền miên như qua từng cơn ác mộng. Thôi thế từ đây chàng đã thật sự xa cách mẹ hiền. Người mẹ đã tảo tần, thương yêu, nuôi nấng chàng ăn học cho đến ngày nay:
Lưng còng uốn nặng kiếp long đong Nắng mưa từ độ tang chồng Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon. (Bên Kia Sông – YÊN THAO)
Người mẹ đã hy sinh, tận tụy vì chàng như thế mà nay sao chàng lại nỡ để mẹ bơ vơ bên kia bờ đại dương đau khổ? Và người yêu bé nhỏ đã cùng chàng thề ước, buổi chia tay lần cuối hôm nào chàng vẫn còn nhớ mãi:
Ai ra đi mà không từng bịn rịn, Rời yêu thương nào dễ mấy ai nguôi? Em lặng nhìn trong lúc chia phôi Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ. (Bên Kia Sông – YÊN THAO)
Nỗi đau khổ nhớ thương những người thân yêu làm chàng xúc động mãnh liệt. Chàng càng cay đắng tủi hờn hơn khi nhìn thấy nhiều vị “quan to, súng ngắn” trước đây đã từng tham ô, hống hách. Đến cơn quốc biến, họ đã bỏ rơi ba quân ở lại mà bồng bế vợ con, tiền của tìm đường bôn tẩu. Chàng càng buồn tủi hơn khi nghĩ đến ngày mai sẽ sống lưu vong trên một quốc gia đã phản bội, bán đứng đất nước mình.
Vì thế, Vũ tình nguyện theo một số người xuống tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Chàng chấp nhận trở về sống chết với quê hương, để được sống dưới mái ấm gia đình dù cho tương lai có tối tăm đến thế nào đi chăng nữa. Vả lại, chàng nghĩ Cộng sản cũng là người Việt Nam cơ mà?!
Nhưng khi chuyến tàu Việt Nam Thương Tín về đến cửa biển Vũng Tàu thì mọi người bị bạo quyền Việt Nam đón chào thật kỹ. Sau khi áp giải ra Cầu Đá, Nha Trang, cả bọn bị chở đến trại cải tạo với những tội danh gán ghép thật nặng nề. Thế là mộng ước trở về cố hương sum họp gia đình tan thành mây khói. Vũ đau khổ, uất hận tưởng chừng điên lên được:
- Mẹ hiền ơi! Con ngỡ con được trở về với mẹ, để săn sóc mẹ trong lúc tuổi già. Nào ngờ con quá ngây thơ để giờ đây lọt vào gông cùm Cộng sản. Thôi, con cam đành bất hiếu với mẹ, hãy xem con như đã chết từ đây! - Người yêu ơi! Anh tưởng trở về với em cho trọn lời hẹn ước, nào ngờ...Thôi, em hãy coi anh đang sống lưu lạc bên chân trời mới đã quên rồi người yêu năm cũ.Nếu mai đây anh còn sống trở về gặp em mà em đã sang ngang anh cũng không một lời oán trách!
Vì thế, trong những năm tháng dài bị đọa đày, khổ sai trong trại cải tạo chàng nhất quyết không viết thư về thăm gia đình. Chàng không muốn mẹ mình phải đau khổ khi biết mình sống trong cảnh này. Hơn sáu năm cải tạo chàng không được một lần có thân nhân đến thăm nuôi tiếp tế. Ấy thế mà chàng vẫn sống và sau cùng được bọn Cộng sản thả về.
Về lại Sài Gòn sau bảy năm cách biệt với tấm thân tàn tạ, chàng bước vào nhà. Mẹ chàng ngỡ ngàng, đứa con trai yêu quý bặt tin đã bảy năm trường, nay bà gặp lại như một giấc mơ. Hai mẹ con ôm nhau nức nở. Sau một lúc xúc động, chàng kể lại cho mẹ nghe quãng đời tủi nhục của chàng vừa trải qua. Bà vừa nghe mà nước mắt tuôn trào, lòng đầy đắng cay thương xót cho con.
Sau một ngày trùng phùng, hàn huyên với mẹ, chiều hôm sau chàng xin phép mẹ đến thăm người yêu. Gia đình Vân sau một lúc bỡ ngỡ mới nhận ra chàng. Tất cả đều “ồ” lên kinh ngạc. Nghe chàng kể rõ câu chuyện xong, mọi người đều thương cảm và lặng lẽ thở dài. Người yêu của chàng bỗng ôm mặt khóc nức nở. Hỏi ra: em đã có chồng! Thôi thì
Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Tuy bẽ bàng, nhưng chàng gượng vui an ủi người yêu cũ vì đó là lỗi tại chàng. Đời con gái tuổi thanh xuân chỉ có một lần, chàng đã biền biệt ra đi thì chờ đợi mỏi mòn biết đến bao giờ? Loan, cô em gái nhỏ năm nào còn bé bỏng, vẫn nũng nịu đòi quà chàng nay là thiếu nữ đôi mươi xinh đẹp. Cuối cùng, nàng và gia đình tìm ra một giải pháp để bù đắp những mất mát cho đời chàng:
Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa!
Cảnh chàng hôm nay nào có khác chi Kim Trọng xưa kia tìm đến gia đình Kiều thì Thúy Kiều đã bán mình chuộc cha mất rồi. Người yêu năm cũ của chàng nay đã lỡ bước sang ngang, “áo tím ngày xưa đi lấy chồng” biết tính sao đây? Thôi thì...TÌNH CHỊ, DUYÊN EM! Thế rồi một thời gian sau đám cưới được cử hành. Để rồi trong đêm tân hôn, chàng được lẫy Kiều một câu thật hay, hay hơn cả nhân vật trong truyện:
Động phòng dìu đặt chén mời, Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa.
Bởi vì cái “duyên mới” này của Kim Trọng kết hôn với Kiều sau mười lăm năm đoạn trường xa cách, nó đã cũ sì cũ sịt mất rồi, có còn chi đâu mà cụ Nguyễn Du bảo là mới? Mới cái chỗ nào? Chẳng thế mà Kiều đã thở than:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ Ong qua, bướm lại đã thừa xấu xa. Còn phần chàng thì cái duyên này thật là mới. Mới hoàn toàn. Mới tuyệt hảo. Mới không chê vào đâu được. Thế rồi “đêm xuân một giấc mơ màng”, chàng trở lại con người năm xưa với hồn thơ lai láng: “Sách quý anh mua chẳng uổng tiền”...
Sau tuần trăng mật, Vũ cùng gia đình tiếp tục vào cuộc sống hàng ngày. Vì mới cải tạo về, chàng phải trình diện tên công an khu vực hàng tuần và báo cáo mọi hoạt động cho hắn biết. Cuộc sống người dân sau bảy năm sống dưới ách Cộng sản chàng thấy quá ư nghèo nàn, khổ cực, rách rưới. Chàng cảm thấy chua chát khi đọc một bảng hiệu tuyên truyền của tên Hồ Chí Minh trên đường phố: “thắng giặc Mỹ, ta xây dựng hơn mười ngày nay”. Than ôi, sự thực phũ phàng trước mắt chàng chỉ thấy: thắng giặc Mỹ, quê hương ta điêu tàn, đói khổ hơn mười ngày xưa! Kể cả những người lúc trước hồ hỡi đón “cách mạng” về, hôm nay đã sáng mắt sáng lòng, mỗi lần nhìn thấy ảnh “Bác Hồ” đều thầm rủa: Hồ hỡi làm sao được hỡi Hồ?!
Biết chàng là một sĩ quan Hải Quân vừa mới cải tạo về,nên nhiều tổ chức vượt biên kín đáo tìm đến mời chàng vượt biển. Chàng biết rõ tương lai đen tối của đời chàng, không còn con đường nào khác hơn là đưa gia đình rời bỏ quê hương. Chàng hỏi ý kiến Loan thì nàng mỉm cười thủ thỉ:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Sau đó, nàng cùng gia đình âm thầm thu xếp cho chuyến đi. Đến ngày hẹn, chàng đưa mẹ và vợ xuống vùng biển Kiên Giang chuẩn bị chuyến đi. Đến giờ khởi hành chàng đã sẳn sàng tại điểm hẹn chờ các ghe nhỏ chở người ra ghe lớn. Nhưng định mệnh khắc nghiệt, đò chở mẹ và vợ chàng bị tàu công an rượt đuổi nên thất lạc không đến nơi được. Chàng cố nén cơn cay đắng nát lòng lái thuyền ra khơi mà lòng đau như cắt. Thế là đời chàng thêm một lần ra đi mà người thân yêu còn kẹt lại.
Sau gần ba ngày lênh đênh trên biển, ghe chàng đã đến thẳng đảo Bi-đông bình an.Chàng bắt đầu sống lại kiếp tỵ nạn, chờ đợi thủ tục định cư. Trong thời gian này, chàng thường một mình lang thang trên bãi biển. Chàng nhớ lại cảnh này của hơn bảy năm về trước ở đảo Guam, chàng đã kẹt lại mẹ già, người yêu nơi quê hương thống khổ; hôm nay nào có khác gì? Ôi, còn đau thương nào cho chàng hơn nữa?
Vào một buổi sáng, chàng được phái đoàn Mỹ gọi lên phỏng vấn bổ túc. Tưởng rằng sẽ được chấp thuận dễ dàng vì chàng có nhiều bạn bè đã làm hồ sơ bảo lãnh cho chàng. Nhưng phái đoàn Mỹ đã điều tra hồ sơ chàng trên máy điện toán, biết được chàng có tên trong đoàn người tình nguyện về Việt Nam trên con tàu Việt Nam Thương Tín năm xưa. Phái đoàn Mỹ lạnh lùng bác đơn xin định cư của chàng, “xù” đẹp, “đá” không một tí tiếc thương.
Vũ mỉm cười chào phái đoàn và lặng lẽ quay ra. Cuộc đời của chàng đã gặp quá nhiều phũ phàng, hận tủi nên chai lì rồi chăng? Tâm sự của chàng nào có khác chi mấy vần thơ cay đắng trong bài “Về Trên Nạng Gỗ” của Nguyễn Tất Nhiên
Hãy cười đi chiến binh ơi Sá chi dâu bể dưới trời hợp tan Bao nhiêu đau khổ trần gian Gửi chàng cho trọn cưu mang kiếp người.
Chàng tiếp tục sống những ngày chờ đợi mỏi mòn, thiếu thốn nơi trại tỵ nạn. Sau cùng chàng được phái đoàn Úc chấp thuận cho đi định cư.
Hôm nay mùa Xuân đã về trên đất Úc với tiết trời ấm áp, bầu trời xanh tươi thắm, hai bên đường có hoa anh đào nở tuyệt đẹp, mọi người cùng vui đón Xuân về. Vũ một mình lang thang trên đường phố Melbourne đón nhận mùa Xuân đầu tiên trên đất khách. Lòng chàng hân hoan vì cuộc đời đã có tương lai và cảm ơn nhân dân Úc đã mở rộng vòng tay nhân ái đón chàng sang tỵ nạn. Nhìn mọi người vui đùa dưới nắng ấm, chàng bỗng nhớ tới mẹ già, vợ hiền đang kẹt lại quê hương khốn khổ mịt mờ bên kia bờ Thái Bình Dương mà nỗi buồn ập đến:
Tôi có chờ đâu có đợi đâu Đem chi Xuân đến gợi thêm sầu Với tôi tất cả đều vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau (Điêu Tàn - CHẾ LAN VIÊN)
Đã tám mùa Xuân qua, quê hương chàng vẫn còn đọa đày dưới ách bạo quyền Cộng sản. Chàng đâu ngờ đời chàng có ngày hôm nay sống cảnh tha hương buồn tủi tận miền Úc Châu xa lơ xa lắc này. Nơi quê người đang là mùa Xuân, còn quê nhà đang bước vào Thu. Hay đó là niềm ước mơ quái gỡ của một thi sĩ tiền chiến đến nay chàng bỗng thấy thành sự thực:
Ai đâu trở lại mùa Thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng Với cánh hoa tươi, muôn sắc rã Về đây đem chắn nẻo Xuân sang. Bên này, chàng được tin tướng Hoàng Cơ Minh đã cùng một số chiến hữu lên đường trở về Việt Nam kháng chiến, chung một lời thề GIẢI PHÓNG VIỆT NAM. Chàng còn nhớ lời vị chỉ huy năm xưa, trên đảo Guam đã bảo với chàng rằng: “Các anh em trở về Việt Nam với nguyện vọng sum họp với gia đình, tôi không dám có ý ngăn cản. Tôi chỉ hứa với anh em một điều: một ngày gần đây tôi sẽ về Việt Nam chiến đấu bên cạnh các anh em đó”. Lời hứa năm nào tướng Minh vẫn giữ. Còn chàng bắt đầu cuộc đời mới tha hương nơi đất khách quê người. Chàng sẽ đóng góp được gì cho công cuộc phục quốc, để ngày mai sớm được trở về Quê Mẹ: “Nơi đó tôi có mẹ già, có người yêu dấu, có trời Việt Nam”?
VŨ NGỌC VĂN (08/1983)
Tân Sơn Hòa chuyển
Tình chị duyên em..
Chiều Chủ Nhật, Vũ cùng người yêu thong thả sánh bước bên nhau trên bến Bạch Đằng. Gió từ sông Sài Gòn thổi vào mát rượi. Tà áo dài xanh của Vân phất phới bay trong gió, quấn quít lấy bộ đồ lính thủy của Vũ là hình ảnh đẹp tuyệt vời trong cuộc đời thủy thủ của chàng. Chỉ còn một buổi chiều nay hai người cuống quít hưởng trọn hạnh phúc bên nhau để ngày mai xa cách vì chiến hạm của chàng phải lên đường ra khơi công tác.
Từ ngày quen nhau và yêu nhau đã một năm rồi mà những ngày gặp gỡ gần nhau chẳng có là bao. Chỉ toàn là những tháng ngày nhớ nhung cách biệt. Nhưng Vân vẫn vui vẻ chấp nhận, làm người yêu lính biển là thế đó.
Mới mười ngày trước đây, chiến hạm của chàng được lệnh về Sài Gòn nghỉ bến và tu bổ sau gần hai tháng tuần dương. Nhưng cuối tháng Ba 1975 này, tình hình đất nước gặp nhiều nguy biến. Nào là Ban Mê Thuột thất thủ, nào là các tỉnh Tây nguyên di tản và miền Trung bị áp lực Cộng sản uy hiếp nặng nề. Vì thế chiến hạm phải thi hành công tác khẩn cấp mặc dù tình trạng kỹ thuật còn yếu kém. Thế là mai đây chàng lại theo con tàu lênh đênh trên biển cả, sống tiếp những ngày dài xa bờ, xa bến, xa gia đình, xa người yêu. Đời lính biển với mộng hải hồ nhiều lúc thật lý thú nhưng cũng lắm vất vả khổ đau. Có những giờ phút thần tiên khi biển êm sóng lặng bóng trăng tròn vằng vặc cùng vạn vì sao lấp lánh sáng cả bầu trời, con tàu oai hùng rẽ sóng vượt trùng dương. Đời thủy thủ lúc bấy giờ thơ mộng, đẹp như bài “tình ca người đi biển”. Nhưng khi thần biển nổi cơn phẫn nộ với biển gào gió thét làm con tàu lắc lư, chơi vơi, vùi dập theo từng đợt sóng lớn. Ai nấy đều mệt nhoài vì say sóng, đa số bỏ ăn bỏ uống, nôn thốc nôn tháo đến cả mật xanh mật vàng để “cho cá ăn chè”.
Vũ biết chuyến công tác sắp tới sẽ gặp nhiều cam go nguy biến nhưng chàng không dám cho Vân biết, sợ nàng buồn lo. Chàng cố vui trọn hạnh phúc bên Vân trong buổi chiều nay, mong đem đến cho nàng lòng tin yêu trước lúc chia tay. Đến khi thành phố đã lên đèn, chàng lấy xe đưa nàng về nhà và vào từ biệt gia đình nàng. Bấy lâu nay, cha mẹ nàng vẫn thương quý chàng và xem Vũ như là chàng rể tương lai.
Sau một lúc hầu chuyện với cha mẹ nàng, Vũ đứng lên xin phép về nhà. Vân đưa tiễn người yêu ra cổng thì Loan – cô em gái nhỏ của nàng - tuổi độ mười ba, chạy theo nắm áo chàng vòi vĩnh:
-Tàu anh đi công tác nếu có ghé miền Trung nhớ mua cho em cái nón lá bài thơ, nghe anh!
Chàng mỉm cười, vuốt tóc cô bé dỗ dành:
- Được rồi, bao giờ anh về sẽ có quà cho bé. Ở nhà hãy ngoan và chăm học Loan nhé!
Giã biệt người yêu, chàng lên xe về nhà. Mẹ chàng đang đón đợi chàng ở cửa. Nắm tay mẹ cùng bước vào nhà, Vũ cùng mẹ dùng bữa cơm tối. Cạnh đó, chàng thấy mẹ chàng đã chuẩn bị sẳn cho chàng một xách tay nhỏ để sáng mai chàng đem xuống tàu. Trong đó có mấy bộ quần áo đã ủi thẳng nếp, vài món thức ăn khô, thuốc men cùng các vật dụng linh tinh khác. Chàng cảm động, thương mẹ vô cùng. Mẹ chàng vẫn chăm sóc chàng từng li từng tí như thưở nào chàng còn là cậu học trò. Tuy thương mẹ nhưng chàng vẫn cằn nhằn:
-Con ở dưới tàu đầy đủ cả nào có thiếu gì mà mẹ làm mấy thức ăn này. Thuốc men dưới chiến hạm dư thừa con có bao giờ dùng tới đâu. Mẹ xem con còn bé lắm không bằng!
Mẹ chàng vẫn dịu dàng, từ tốn bảo chàng:
- Mẹ vẫn biết thế, nhưng con cứ mang xuống tàu mà dùng. Lúc đó xem như mẹ đang ở bên con chăm sóc cho con. Bố con đã mất rồi, đời mẹ chỉ còn có mình con đó!
Chàng nghẹn ngào, xúc động vì thương mẹ quá. Cha chàng mất đã lâu, để lại cho mẹ chàng sống đơn chiếc trong cảnh mẹ góa con côi, tảo tần nuôi chàng ăn học. Đến lúc trưởng thành, chàng phải rời mái trường để vào quân ngũ. Từ đó mẹ chàng sống thêm những chuỗi ngày buồn cô độc và luôn lo lắng cho chàng.
Chàng gượng cười, pha trò cho mẹ vui:
-Thưa mẹ, con đi kỳ này khoảng nửa tháng con sẽ về với mẹ. À, xong chuyến công tác này con sẽ về đưa mẹ đi xem mắt nàng dâu nhé. Con dâu của mẹ sẽ ở nhà thay con săn sóc mẹ, mẹ chịu không?
Mẹ chàng cười vui, mắng yêu:
-Thôi đi ông tướng, đã bao nhiêu lần rồi chỉ hứa cho qua chuyện. Lớn rồi mà chẳng chịu lấy vợ gì cả để tao sớm có cháu nội bồng!
Sáng sớm hôm sau, chàng từ giã mẹ xách túi hành trang xuống tàu. Chiến hạm đã sẳn sàng lên đường. Sau khi nhận lệnh công tác xong, hạm trưởng về tàu và ra lệnh nhiệm sở vận chuyển. Con tàu từ từ tách bến, thủy thủ đoàn trong bộ tiểu lễ trắng đứng dàn chào bên hữu hạm. Chào tạm biệt Hạm Đội, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tượng Thánh Tổ Hải Quân Trần Hưng Đạo ở công trường Mê Linh với lời thề quyết chiến thắng quân Nguyên năm xưa. Con tàu tiến chầm chậm từ giã thủ đô Sài Gòn sau đó tăng vận tốc hướng ra cửa biển và trực chỉ Đà Nẵng.
Trên đường đi, chiến hạm được lệnh mới tăng phái cho Vùng 2 Duyên Hải dưới quyền chỉ huy của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Bấy giờ các tỉnh miền Trung vô cùng nguy ngập và hỗn loạn. Chiều ngày 31-03-1975 chiến hạm chàng từ Cam Ranh hướng ra phương Bắc để bảo vệ thị xã Qui Nhơn. Tỉnh này đang là ải địa đầu đang bị Cộng quân vây hãm vì Quân Đoàn 1 vừa mới di tản hôm qua. Khi còn cách Qui Nhơn 50 hải lý về hướng Nam, chiến hạm chàng thấy một đoàn hạm đội từ Đà Nẵng rút chạy về. Mọi người trên đài chỉ huy tràn ngập nỗi bàng hoàng cay đắng vì đây là lần đầu tiên chứng kiến cảnh một quân đoàn di tản thê thảm như thế. Chàng nhìn cảnh lịch sử đó trong buổi chiều tà, khi bóng tà dương từ từ lặn khuất sau dãy Trường Sơn như báo trước viễn ảnh tối đen của đất nước.
Chiến hạm vẫn lặng lẽ tiến về phương Bắc, ngược chiều với các chiến hạm bạn đang lũ lượt di tản. Ngày 01-04-1975 Qui Nhơn chìm đắm trong vùng lửa đạn với những đám cháy mịt trời. Các chiến hạm chiến đấu như tuần dương hạm, hộ tống hạm, trợ chiến hạm,... đều tập trung trước cửa biển Qui Nhơn. Đoàn tàu cố gắng tiến vào gần bờ để yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bộ binh rút ra biển di tản. Các chiến hạm nhận lệnh bắn vào thành phố để chận bước tiến công của Cộng quân cho các đơn vị bạn an toàn thoát ra bờ biển.
Nhưng rồi Qui Nhơn mất, sau đó Nha Trang, Cam Ranh cũng mất theo. Chiến hạm chàng chở một số lớn đồng bào chiến hữu di tản về Vũng Tàu. Sau đó chiến hạm nhận lệnh tăng cường cho mặt trận vùng duyên hải Phan Rang, Phan Thiết. Tại eo biển Cà Ná, chiến hạm chàng đã chạm súng dữ dội với xe tăng T.54 Cộng sản và tham dự một trận hải chiến chớp nhoáng với tàu Bắc Việt ngoài khơi đảo Phú Quý.
Thế rồi ngày 28-04-1975 chiến hạm của chàng chỉ còn nhiệm vụ yểm trợ hải pháo cho thị xã Vũng Tàu. Nơi đây chàng thấy từng đoàn trực thăng, tàu thuyền, ghe đánh cá lũ lượt đưa người di tản ra tàu lớn. Từ đài chỉ huy nhìn vào trong bờ, thị xã Vũng Tàu đang bị Cộng quân pháo kích dồn dập, nơi nào bị trúng đạn bốc lên những cây nấm đen to khói lửa mịt mù.
Chiều hôm đó, nghe tin tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống, chàng tuyệt vọng biết cuộc chiến sắp đến hồi kết cuộc. Tướng Minh đã hai lần đứng lên làm lịch sử là hai lần đắc tội với tổ quốc. Một lần cầm đầu nhóm tướng lãnh tham lam bất tài để giết hại một vị tổng thống biết lo cho dân cho nước. Để đưa vận mệnh quốc gia vào tay ngoại bang thao túng và cho Cộng sản có cơ hội vùng lên thôn tính miền Nam. Một lần cuối cùng này, có công giao trọn đất nước cho Cộng sản với lời tuyên bố đầu hàng ô nhục, phản bội bao công lao các chiến sĩ đã đem máu đào của mình tô thắm màu cờ quốc gia.
Đến trưa ngày 30-04-1975, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, toàn cõi Việt Nam bị Cộng sản nhuộm đỏ từ đây. Chiến hạm của chàng vẫn còn lảng vảng ngoài khơi Vũng Tàu với đầy ắp người di tản. Chàng đau khổ, uất nghẹn nhìn vào quê hương thân yêu lần cuối. Nơi đó có mẹ già, người yêu đang rơi vào tay Cộng sản, buổi chia tay hôm nào nay đã thành vĩnh biệt sao?
Chàng cùng chung số phận với toàn thể thủy thủ đoàn, chấp nhận cảnh nước mất nhà tan, đau lòng bỏ lại bao người thân yêu kẹt lại quê hương khốn khổ và đưa chiến hạm tiến ra đảo Côn Sơn. Tại đây đã tập trung hầu hết các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam được bảo vệ chung quanh bởi Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ.
Thế rồi, đoàn tàu lũ lượt theo đội hình tiến về hướng Phi Luật Tân bắt đầu cho kiếp lưu vong. Khi vào hải phận Phi, hạm đội được lệnh hạ quốc kỳ Việt Nam. Bởi vì Việt Nam Cộng Hòa đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới và chính phủ Phi đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng sản Việt Nam. Mọi người đều đứng nghiêm chào lá cờ thân yêu lần cuối, gương mặt hiện rõ nét đớn đau tủi nhục.
Sau khi cặp bến Subic Bay, Vũ rời chiến hạm cùng với đoàn người di tản sang một chiếc thương thuyền Mỹ để tiếp tục sang đảo Guam. Khi tàu cặp cầu ở quân cảng Guam xong, Vũ thẩn thờ như kẻ mất hồn, tay xách túi hành trang của mẹ đưa cho chàng ngày nào và lê từng bước nặng nề lên bờ.
Trong những ngày tháng sống tha hương trên đảo Guam này, tâm hồn chàng bị giao động dữ dội, triền miên như qua từng cơn ác mộng. Thôi thế từ đây chàng đã thật sự xa cách mẹ hiền. Người mẹ đã tảo tần, thương yêu, nuôi nấng chàng ăn học cho đến ngày nay:
Lưng còng uốn nặng kiếp long đong Nắng mưa từ độ tang chồng Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon. (Bên Kia Sông – YÊN THAO)
Người mẹ đã hy sinh, tận tụy vì chàng như thế mà nay sao chàng lại nỡ để mẹ bơ vơ bên kia bờ đại dương đau khổ? Và người yêu bé nhỏ đã cùng chàng thề ước, buổi chia tay lần cuối hôm nào chàng vẫn còn nhớ mãi:
Ai ra đi mà không từng bịn rịn, Rời yêu thương nào dễ mấy ai nguôi? Em lặng nhìn trong lúc chia phôi Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ. (Bên Kia Sông – YÊN THAO)
Nỗi đau khổ nhớ thương những người thân yêu làm chàng xúc động mãnh liệt. Chàng càng cay đắng tủi hờn hơn khi nhìn thấy nhiều vị “quan to, súng ngắn” trước đây đã từng tham ô, hống hách. Đến cơn quốc biến, họ đã bỏ rơi ba quân ở lại mà bồng bế vợ con, tiền của tìm đường bôn tẩu. Chàng càng buồn tủi hơn khi nghĩ đến ngày mai sẽ sống lưu vong trên một quốc gia đã phản bội, bán đứng đất nước mình.
Vì thế, Vũ tình nguyện theo một số người xuống tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Chàng chấp nhận trở về sống chết với quê hương, để được sống dưới mái ấm gia đình dù cho tương lai có tối tăm đến thế nào đi chăng nữa. Vả lại, chàng nghĩ Cộng sản cũng là người Việt Nam cơ mà?!
Nhưng khi chuyến tàu Việt Nam Thương Tín về đến cửa biển Vũng Tàu thì mọi người bị bạo quyền Việt Nam đón chào thật kỹ. Sau khi áp giải ra Cầu Đá, Nha Trang, cả bọn bị chở đến trại cải tạo với những tội danh gán ghép thật nặng nề. Thế là mộng ước trở về cố hương sum họp gia đình tan thành mây khói. Vũ đau khổ, uất hận tưởng chừng điên lên được:
- Mẹ hiền ơi! Con ngỡ con được trở về với mẹ, để săn sóc mẹ trong lúc tuổi già. Nào ngờ con quá ngây thơ để giờ đây lọt vào gông cùm Cộng sản. Thôi, con cam đành bất hiếu với mẹ, hãy xem con như đã chết từ đây! - Người yêu ơi! Anh tưởng trở về với em cho trọn lời hẹn ước, nào ngờ...Thôi, em hãy coi anh đang sống lưu lạc bên chân trời mới đã quên rồi người yêu năm cũ.Nếu mai đây anh còn sống trở về gặp em mà em đã sang ngang anh cũng không một lời oán trách!
Vì thế, trong những năm tháng dài bị đọa đày, khổ sai trong trại cải tạo chàng nhất quyết không viết thư về thăm gia đình. Chàng không muốn mẹ mình phải đau khổ khi biết mình sống trong cảnh này. Hơn sáu năm cải tạo chàng không được một lần có thân nhân đến thăm nuôi tiếp tế. Ấy thế mà chàng vẫn sống và sau cùng được bọn Cộng sản thả về.
Về lại Sài Gòn sau bảy năm cách biệt với tấm thân tàn tạ, chàng bước vào nhà. Mẹ chàng ngỡ ngàng, đứa con trai yêu quý bặt tin đã bảy năm trường, nay bà gặp lại như một giấc mơ. Hai mẹ con ôm nhau nức nở. Sau một lúc xúc động, chàng kể lại cho mẹ nghe quãng đời tủi nhục của chàng vừa trải qua. Bà vừa nghe mà nước mắt tuôn trào, lòng đầy đắng cay thương xót cho con.
Sau một ngày trùng phùng, hàn huyên với mẹ, chiều hôm sau chàng xin phép mẹ đến thăm người yêu. Gia đình Vân sau một lúc bỡ ngỡ mới nhận ra chàng. Tất cả đều “ồ” lên kinh ngạc. Nghe chàng kể rõ câu chuyện xong, mọi người đều thương cảm và lặng lẽ thở dài. Người yêu của chàng bỗng ôm mặt khóc nức nở. Hỏi ra: em đã có chồng! Thôi thì
Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Tuy bẽ bàng, nhưng chàng gượng vui an ủi người yêu cũ vì đó là lỗi tại chàng. Đời con gái tuổi thanh xuân chỉ có một lần, chàng đã biền biệt ra đi thì chờ đợi mỏi mòn biết đến bao giờ? Loan, cô em gái nhỏ năm nào còn bé bỏng, vẫn nũng nịu đòi quà chàng nay là thiếu nữ đôi mươi xinh đẹp. Cuối cùng, nàng và gia đình tìm ra một giải pháp để bù đắp những mất mát cho đời chàng:
Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa!
Cảnh chàng hôm nay nào có khác chi Kim Trọng xưa kia tìm đến gia đình Kiều thì Thúy Kiều đã bán mình chuộc cha mất rồi. Người yêu năm cũ của chàng nay đã lỡ bước sang ngang, “áo tím ngày xưa đi lấy chồng” biết tính sao đây? Thôi thì...TÌNH CHỊ, DUYÊN EM! Thế rồi một thời gian sau đám cưới được cử hành. Để rồi trong đêm tân hôn, chàng được lẫy Kiều một câu thật hay, hay hơn cả nhân vật trong truyện:
Động phòng dìu đặt chén mời, Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa.
Bởi vì cái “duyên mới” này của Kim Trọng kết hôn với Kiều sau mười lăm năm đoạn trường xa cách, nó đã cũ sì cũ sịt mất rồi, có còn chi đâu mà cụ Nguyễn Du bảo là mới? Mới cái chỗ nào? Chẳng thế mà Kiều đã thở than:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ Ong qua, bướm lại đã thừa xấu xa. Còn phần chàng thì cái duyên này thật là mới. Mới hoàn toàn. Mới tuyệt hảo. Mới không chê vào đâu được. Thế rồi “đêm xuân một giấc mơ màng”, chàng trở lại con người năm xưa với hồn thơ lai láng: “Sách quý anh mua chẳng uổng tiền”...
Sau tuần trăng mật, Vũ cùng gia đình tiếp tục vào cuộc sống hàng ngày. Vì mới cải tạo về, chàng phải trình diện tên công an khu vực hàng tuần và báo cáo mọi hoạt động cho hắn biết. Cuộc sống người dân sau bảy năm sống dưới ách Cộng sản chàng thấy quá ư nghèo nàn, khổ cực, rách rưới. Chàng cảm thấy chua chát khi đọc một bảng hiệu tuyên truyền của tên Hồ Chí Minh trên đường phố: “thắng giặc Mỹ, ta xây dựng hơn mười ngày nay”. Than ôi, sự thực phũ phàng trước mắt chàng chỉ thấy: thắng giặc Mỹ, quê hương ta điêu tàn, đói khổ hơn mười ngày xưa! Kể cả những người lúc trước hồ hỡi đón “cách mạng” về, hôm nay đã sáng mắt sáng lòng, mỗi lần nhìn thấy ảnh “Bác Hồ” đều thầm rủa: Hồ hỡi làm sao được hỡi Hồ?!
Biết chàng là một sĩ quan Hải Quân vừa mới cải tạo về,nên nhiều tổ chức vượt biên kín đáo tìm đến mời chàng vượt biển. Chàng biết rõ tương lai đen tối của đời chàng, không còn con đường nào khác hơn là đưa gia đình rời bỏ quê hương. Chàng hỏi ý kiến Loan thì nàng mỉm cười thủ thỉ:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Sau đó, nàng cùng gia đình âm thầm thu xếp cho chuyến đi. Đến ngày hẹn, chàng đưa mẹ và vợ xuống vùng biển Kiên Giang chuẩn bị chuyến đi. Đến giờ khởi hành chàng đã sẳn sàng tại điểm hẹn chờ các ghe nhỏ chở người ra ghe lớn. Nhưng định mệnh khắc nghiệt, đò chở mẹ và vợ chàng bị tàu công an rượt đuổi nên thất lạc không đến nơi được. Chàng cố nén cơn cay đắng nát lòng lái thuyền ra khơi mà lòng đau như cắt. Thế là đời chàng thêm một lần ra đi mà người thân yêu còn kẹt lại.
Sau gần ba ngày lênh đênh trên biển, ghe chàng đã đến thẳng đảo Bi-đông bình an.Chàng bắt đầu sống lại kiếp tỵ nạn, chờ đợi thủ tục định cư. Trong thời gian này, chàng thường một mình lang thang trên bãi biển. Chàng nhớ lại cảnh này của hơn bảy năm về trước ở đảo Guam, chàng đã kẹt lại mẹ già, người yêu nơi quê hương thống khổ; hôm nay nào có khác gì? Ôi, còn đau thương nào cho chàng hơn nữa?
Vào một buổi sáng, chàng được phái đoàn Mỹ gọi lên phỏng vấn bổ túc. Tưởng rằng sẽ được chấp thuận dễ dàng vì chàng có nhiều bạn bè đã làm hồ sơ bảo lãnh cho chàng. Nhưng phái đoàn Mỹ đã điều tra hồ sơ chàng trên máy điện toán, biết được chàng có tên trong đoàn người tình nguyện về Việt Nam trên con tàu Việt Nam Thương Tín năm xưa. Phái đoàn Mỹ lạnh lùng bác đơn xin định cư của chàng, “xù” đẹp, “đá” không một tí tiếc thương.
Vũ mỉm cười chào phái đoàn và lặng lẽ quay ra. Cuộc đời của chàng đã gặp quá nhiều phũ phàng, hận tủi nên chai lì rồi chăng? Tâm sự của chàng nào có khác chi mấy vần thơ cay đắng trong bài “Về Trên Nạng Gỗ” của Nguyễn Tất Nhiên
Hãy cười đi chiến binh ơi Sá chi dâu bể dưới trời hợp tan Bao nhiêu đau khổ trần gian Gửi chàng cho trọn cưu mang kiếp người.
Chàng tiếp tục sống những ngày chờ đợi mỏi mòn, thiếu thốn nơi trại tỵ nạn. Sau cùng chàng được phái đoàn Úc chấp thuận cho đi định cư.
Hôm nay mùa Xuân đã về trên đất Úc với tiết trời ấm áp, bầu trời xanh tươi thắm, hai bên đường có hoa anh đào nở tuyệt đẹp, mọi người cùng vui đón Xuân về. Vũ một mình lang thang trên đường phố Melbourne đón nhận mùa Xuân đầu tiên trên đất khách. Lòng chàng hân hoan vì cuộc đời đã có tương lai và cảm ơn nhân dân Úc đã mở rộng vòng tay nhân ái đón chàng sang tỵ nạn. Nhìn mọi người vui đùa dưới nắng ấm, chàng bỗng nhớ tới mẹ già, vợ hiền đang kẹt lại quê hương khốn khổ mịt mờ bên kia bờ Thái Bình Dương mà nỗi buồn ập đến:
Tôi có chờ đâu có đợi đâu Đem chi Xuân đến gợi thêm sầu Với tôi tất cả đều vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau (Điêu Tàn - CHẾ LAN VIÊN)
Đã tám mùa Xuân qua, quê hương chàng vẫn còn đọa đày dưới ách bạo quyền Cộng sản. Chàng đâu ngờ đời chàng có ngày hôm nay sống cảnh tha hương buồn tủi tận miền Úc Châu xa lơ xa lắc này. Nơi quê người đang là mùa Xuân, còn quê nhà đang bước vào Thu. Hay đó là niềm ước mơ quái gỡ của một thi sĩ tiền chiến đến nay chàng bỗng thấy thành sự thực:
Ai đâu trở lại mùa Thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng Với cánh hoa tươi, muôn sắc rã Về đây đem chắn nẻo Xuân sang. Bên này, chàng được tin tướng Hoàng Cơ Minh đã cùng một số chiến hữu lên đường trở về Việt Nam kháng chiến, chung một lời thề GIẢI PHÓNG VIỆT NAM. Chàng còn nhớ lời vị chỉ huy năm xưa, trên đảo Guam đã bảo với chàng rằng: “Các anh em trở về Việt Nam với nguyện vọng sum họp với gia đình, tôi không dám có ý ngăn cản. Tôi chỉ hứa với anh em một điều: một ngày gần đây tôi sẽ về Việt Nam chiến đấu bên cạnh các anh em đó”. Lời hứa năm nào tướng Minh vẫn giữ. Còn chàng bắt đầu cuộc đời mới tha hương nơi đất khách quê người. Chàng sẽ đóng góp được gì cho công cuộc phục quốc, để ngày mai sớm được trở về Quê Mẹ: “Nơi đó tôi có mẹ già, có người yêu dấu, có trời Việt Nam”?
VŨ NGỌC VĂN (08/1983)
Tân Sơn Hòa chuyển