Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Bộ Binh Thủ Đức - Cư An Tư Nguy
Thanh Dũng
Một trong những lý do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giữ
vững bờ cõi quốc gia trong hơn 20 năm trước võ lực xâm lăng của Bắc
Việt chính là tài chỉ huy của hàng chục ngàn sĩ quan. Miền Nam năm xưa,
qua các thời kỳ khác nhau, có không dưới 4 quân trường từng huấn luyện
và cung cấp sĩ quan cho quân đội.
Nổi tiếng nhất, và có lẽ được nhắc đến nhiều nhất là Võ Bị Đà Lạt
đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch trọn đời theo binh nghiệp -- mà không ít
người đã ví là một loại "West Point" của VN. Tuy nhiên, trường Bộ Binh
Thủ Đức đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cũng có phần đóng góp rất lớn và quan
trọng.
Một kỳ hội ngộ Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức tại hải ngoại.
Ngôi trường này có vài tên gọi khác nhau như "Trường Bộ Binh Thủ
Đức", "Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức", "Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức",...
Châm ngôn "Cư An Tư Nguy" – ngụ ý (đang) sống yên (vẫn) lo (phòng) nguy
biến. Phù hiệu trường có nền màu xanh da trời biểu hiện tư tưởng và
hành động thanh khiết; ngọn lửa hồng chỉ lòng quả cảm, cương quyết; và
thanh kiếm biểu tượng cho quyền uy của cấp chỉ huy. Qua thời gian, những
Chỉ Huy Trưởng Bộ Binh Thủ Đức gồm có: Đại Tá Phạm Văn Cẩm, Thiếu Tướng
Lê Văn Nghiêm, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, Đại
Tá Lam Sơn Phan Đình Thứ, Trung Tướng Trần Ngọc Tám, Thiếu Tướng Bùi
Hữu Nhơn, Trung Tướng Trần Văn Trung, Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, Trung
Tướng Phạm Quốc Thuần, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi, và Đại Tá Trần Đức Minh.
Trường Bộ Binh Thủ Đức có lịch sử thành hình từ thời 1948, lúc
Pháp Quốc, qua Hiệp ước vịnh Hạ Long, đã thừa nhận Việt Nam là một quốc
gia độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Sang 1949, thêm Hiệp định Elysée
với chữ ký của Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại,
chánh thức thành lập “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”. Trường sĩ quan hiện
dịch đầu tiên ra mắt tại Huế. Đến 1950, đã có 3 trường huấn luyện sĩ
quan hiện đại cho quân đội quốc gia đặt tại mỗi miền Bắc-Trung-Nam.
Sinh viên Sĩ Quan Thủ Đức.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, cả ba cơ sở này hợp nhất lại thành một
trường Bộ Binh nằm trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, cách chợ Thủ Đức khoảng
hai cây số. Thủ Đức từng là trung tâm văn hóa kỹ nghệ lớn của VNCH.
Ngoài các làng đại học, còn có nhiều nhà máy kỹ nghệ lớn như: Xi Măng Hà
Tiên, Dệt VIMYTEX, hãng làm sữa hộp Foremost, Nhiệt Điện Thủ Đức, Kim
Khí VIKIMCO, hãng sản xuất tôn VINATON, v.v… Những tháng cuối của chiến
cuộc VN, nhà trường tiếp quản căn cứ cũ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở
Long Thành. Cuộc di chuyển hoàn tất vào đầu năm 1974 với tên là "Trường
Bộ Binh", hay còn gọi là "Huấn Khu Long Thành".
Có thể gọi nhóm trên 100 sĩ quan tốt nghiệp tại Huế là lớp sĩ
quan đầu tiên của quân đội quốc gia. Trong số này có Trung Tướng Nguyễn
Văn Thiệu về sau là Tổng Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Ngoài Bắc có trường
sĩ quan trừ bị Nam Định chỉ mở 1 khóa nhưng cũng kịp ghi danh Tướng
Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Cảnh Sát Nguyễn Ngọc Loan, hay Tướng
Nguyễn Duy Hinh, năm 1975 là Tư Lịnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh (Sư Đoàn Trừng
Giới)…
Toán Thủ Quốc Quân Kỳ thao diễn
Riêng trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức có tổng cộng 69 khóa trong
suốt cuộc chiến. Đến tận 1967, mỗi năm trường chỉ mở 1-2 khóa, đánh số
từ 1 đến 27. Sau trận Mậu Thân và lịnh tổng động viên, do nhu cầu chiến
trường, mỗi năm trường Bộ Binh Thủ Đức đào tạo 6 đến 8 khóa. Các khóa
này đánh số theo thời gian, thí dụ 1/68, 2/68, v.v... Đơn cử khóa 3/69
gồm 5 đại đội, mỗi đại đội quân số 200 người, tổng cộng chừng 1,000 sinh
viên sĩ quan. Khóa này khai giảng vào tháng 3 và mãn khóa vào tháng
10-1969.
Khác Võ Bị Đà Lạt là nơi đào tạo những sĩ quan tự nguyện chọn
theo binh nghiệp suốt đời, trường Bộ Binh Thủ Đức thật sự là mái nhà của
người trai thời loạn -- những người bất đắc dĩ phải xếp việc bút nghiên
để khoác áo chiến binh. Họ là những thanh niên trong độ tuổi đôi mươi,
vừa đậu bằng Tú Tài I. Chương trình huấn luyện của Bộ Binh Thủ Đức trung
bình từ 6 đến 9 tháng tùy theo tình hình chiến sự. Sau 8 tuần huấn nhục
rèn luyện thể lực và tâm lực, các sinh viên sĩ quan được học về bộ binh
căn bản (võ khí cá nhân, chiến đấu cá nhân, đội hình tác chiến...) rồi
đến chỉ huy cấp trung đội (võ khí cộng đồng, chiến thuật, cách dụng
pháo binh, chiến tranh chánh trị, quân pháp...)
Trong khoảng 5 năm đầu tiên (1951-1955, khóa 1 đến khóa 5), sinh
viên sĩ quan ra trường với cấp bậc Thiếu Úy (có khoảng trên 4,000
người). Từ khóa 6 trở về sau, sau khi tốt nghiệp Bộ Binh Thủ Đức, sinh
viên sĩ quan nhận cấp bậc Chuẩn Úy. Thông thường sau 18 tháng, họ được
thăng cấp Thiếu Úy Đương nhiên Thực thụ. Tân Chuẩn Úy Bộ Binh Thủ Đức có
thể chỉ huy một trung đội bộ binh, hay một đơn vị tương đương thuộc
binh chủng hay binh sở chuyên môn tùy theo chọn lựa. Đã có không ít tân
sĩ quan trừ bị chọn về những đơn vị tác chiến trên núi rừng biên giới,
phải ăn cơm sấy, uống nước hố bom, v.v... Trên nguyên tắc, sĩ quan trừ
bị Thủ Đức chỉ phục vụ trong quân đội bốn năm. Tuy nhiên, thực tế chiến
tranh ác liệt, nên đa phần bị quân đội lưu giữ lại mặc dù nhiệm kỳ trừ
bị 4 năm đã hết (chỉ trừ các trường hợp sĩ quan biệt phái như công chức,
giáo chức, chuyên viên kỹ thuật...)
Sĩ Quan Thủ Đức quỳ tuyên thệ trong Lễ Mãn Khóa
Chừng một tháng trước ngày mất nước, Trường Bộ Binh có khoảng
4,000 sinh viên sĩ quan thuộc các khóa gối đầu nhau. Các sinh viên Võ Bị
Đà Lạt cũng được C-130 không vận về chung chỗ. Tại Trường Bộ Binh Long
Thành, Võ Bị Đà Lạt gấp rút cho ra trường khóa 28 và 29, nhưng vẫn còn
các sinh viên sĩ quan đang huấn luyện thuộc các khóa 30 và 31. Sau khi
mọi thành phần của Trường Bộ Binh, gồm cả các thành viên Võ Bị Đà Lạt,
từ Long Thành về đến Thủ Đức, tổng cộng quân số tại Thủ Đức lên khoảng
6,000 người gồm SVSQ và quân nhân cơ hữu. Đầu tháng 4-1975, cộng quân
tấn công thăm dò vào Huấn Khu Long Thành, cho đặc công xâm nhập các
Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế, đã phải chịu nhiều
tổn thất. Những ngày cuối tháng 4-1975, sư đoàn Bắc quân 304 vẫn còn
đụng độ dữ dội với các đơn vị VNCH tại Huấn Khu Long Thành. Tại ngôi
trường Tăng Nhơn Phú, đến sáng ngày 30-4-1975, vài chiến xa T-54 của Bắc
quân đã bốc cháy vì bị pháo binh phòng thủ bắn trực xạ. Cuộc kháng cự
chỉ kết thúc khi Dinh Độc Lập yêu cầu binh sĩ buông súng.
Trải qua trên 20 năm, Trường Bộ Binh Thủ Đức đã sản sinh ra không
ít tướng lãnh lưu danh trên chiến trường. Có thể kể Tướng Trần Văn Minh
Tư lịnh Không Quân; Tướng Đồng Văn Khuyên Tổng Cục Trưởng Quân Vận;
Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lịnh Quân Đoàn Bốn thà tuẫn tiết chứ không đầu
hàng; Tướng Ngô Quang Trưởng Tư lịnh Quân đoàn I; Tướng Bùi Thế Lân Tư
Lịnh Thủy Quân Lục Chiến tái chiếm cổ thành Quảng Trị; Tướng Lê Quang
Lưỡng Tư Lịnh Nhảy Dù; Tướng Lê Văn Hưng người hùng trong trận tử thủ An
Lộc 1972, v.v...
Không chỉ trong giới nhà binh, mà không ít quân nhân xuất thân
Trường Bộ Binh Thủ Đức còn nắm giữ những chức vụ trọng yếu trong guồng
máy quốc gia, như Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Tổng Trưởng, Bộ Trưởng,
Tỉnh Trưởng, Thị Trưởng, Quận Trưởng, v.v... Nếu Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
đào tạo 4,600 sĩ quan hiện dịch cho QLVNCH, Trường Bộ Binh Thủ Đức cho
ra lò chừng 80,000 sĩ quan. Chưa kể sau 1972, chỉ riêng trường Hạ Sĩ
Quan Đồng Đế Nha Trang, đã tiếp sức huấn luyện thêm 12,000 sĩ quan trừ
bị. Ước tính, tổng số sĩ quan quân lực VNCH được huấn luyện từ thời Huế,
Nam Định, đến Thủ Đức, rồi Đà Lạt, Nha Trang... lên đến trên dưới
100,000 người. Thời hậu chiến, hằng chục ngàn người trong số này tiếp
tục đền nợ nước, phải chịu cảnh tù đày lao khổ trong các "trại cải tạo"
khắp mọi miền xứ sở.
Ba chiến hữu cùng Khóa 9A/72 Bộ Binh Thủ Đức thăm lại trường cũ năm xưa tại Tăng Nhơn Phú sau 35 năm.
TD Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Bộ Binh Thủ Đức - Cư An Tư Nguy
Một trong những lý do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giữ
vững bờ cõi quốc gia trong hơn 20 năm trước võ lực xâm lăng của Bắc
Việt chính là tài chỉ huy của hàng chục ngàn sĩ quan. Miền Nam năm xưa,
qua các thời kỳ khác nhau, có không dưới 4 quân trường từng huấn luyện
và cung cấp sĩ quan cho quân đội.
Nổi tiếng nhất, và có lẽ được nhắc đến nhiều nhất là Võ Bị Đà Lạt
đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch trọn đời theo binh nghiệp -- mà không ít
người đã ví là một loại "West Point" của VN. Tuy nhiên, trường Bộ Binh
Thủ Đức đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cũng có phần đóng góp rất lớn và quan
trọng.
Một kỳ hội ngộ Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức tại hải ngoại.
Ngôi trường này có vài tên gọi khác nhau như "Trường Bộ Binh Thủ
Đức", "Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức", "Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức",...
Châm ngôn "Cư An Tư Nguy" – ngụ ý (đang) sống yên (vẫn) lo (phòng) nguy
biến. Phù hiệu trường có nền màu xanh da trời biểu hiện tư tưởng và
hành động thanh khiết; ngọn lửa hồng chỉ lòng quả cảm, cương quyết; và
thanh kiếm biểu tượng cho quyền uy của cấp chỉ huy. Qua thời gian, những
Chỉ Huy Trưởng Bộ Binh Thủ Đức gồm có: Đại Tá Phạm Văn Cẩm, Thiếu Tướng
Lê Văn Nghiêm, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, Đại
Tá Lam Sơn Phan Đình Thứ, Trung Tướng Trần Ngọc Tám, Thiếu Tướng Bùi
Hữu Nhơn, Trung Tướng Trần Văn Trung, Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, Trung
Tướng Phạm Quốc Thuần, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi, và Đại Tá Trần Đức Minh.
Trường Bộ Binh Thủ Đức có lịch sử thành hình từ thời 1948, lúc
Pháp Quốc, qua Hiệp ước vịnh Hạ Long, đã thừa nhận Việt Nam là một quốc
gia độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Sang 1949, thêm Hiệp định Elysée
với chữ ký của Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại,
chánh thức thành lập “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”. Trường sĩ quan hiện
dịch đầu tiên ra mắt tại Huế. Đến 1950, đã có 3 trường huấn luyện sĩ
quan hiện đại cho quân đội quốc gia đặt tại mỗi miền Bắc-Trung-Nam.
Sinh viên Sĩ Quan Thủ Đức.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, cả ba cơ sở này hợp nhất lại thành một
trường Bộ Binh nằm trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, cách chợ Thủ Đức khoảng
hai cây số. Thủ Đức từng là trung tâm văn hóa kỹ nghệ lớn của VNCH.
Ngoài các làng đại học, còn có nhiều nhà máy kỹ nghệ lớn như: Xi Măng Hà
Tiên, Dệt VIMYTEX, hãng làm sữa hộp Foremost, Nhiệt Điện Thủ Đức, Kim
Khí VIKIMCO, hãng sản xuất tôn VINATON, v.v… Những tháng cuối của chiến
cuộc VN, nhà trường tiếp quản căn cứ cũ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở
Long Thành. Cuộc di chuyển hoàn tất vào đầu năm 1974 với tên là "Trường
Bộ Binh", hay còn gọi là "Huấn Khu Long Thành".
Có thể gọi nhóm trên 100 sĩ quan tốt nghiệp tại Huế là lớp sĩ
quan đầu tiên của quân đội quốc gia. Trong số này có Trung Tướng Nguyễn
Văn Thiệu về sau là Tổng Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Ngoài Bắc có trường
sĩ quan trừ bị Nam Định chỉ mở 1 khóa nhưng cũng kịp ghi danh Tướng
Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Cảnh Sát Nguyễn Ngọc Loan, hay Tướng
Nguyễn Duy Hinh, năm 1975 là Tư Lịnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh (Sư Đoàn Trừng
Giới)…
Toán Thủ Quốc Quân Kỳ thao diễn
Riêng trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức có tổng cộng 69 khóa trong
suốt cuộc chiến. Đến tận 1967, mỗi năm trường chỉ mở 1-2 khóa, đánh số
từ 1 đến 27. Sau trận Mậu Thân và lịnh tổng động viên, do nhu cầu chiến
trường, mỗi năm trường Bộ Binh Thủ Đức đào tạo 6 đến 8 khóa. Các khóa
này đánh số theo thời gian, thí dụ 1/68, 2/68, v.v... Đơn cử khóa 3/69
gồm 5 đại đội, mỗi đại đội quân số 200 người, tổng cộng chừng 1,000 sinh
viên sĩ quan. Khóa này khai giảng vào tháng 3 và mãn khóa vào tháng
10-1969.
Khác Võ Bị Đà Lạt là nơi đào tạo những sĩ quan tự nguyện chọn
theo binh nghiệp suốt đời, trường Bộ Binh Thủ Đức thật sự là mái nhà của
người trai thời loạn -- những người bất đắc dĩ phải xếp việc bút nghiên
để khoác áo chiến binh. Họ là những thanh niên trong độ tuổi đôi mươi,
vừa đậu bằng Tú Tài I. Chương trình huấn luyện của Bộ Binh Thủ Đức trung
bình từ 6 đến 9 tháng tùy theo tình hình chiến sự. Sau 8 tuần huấn nhục
rèn luyện thể lực và tâm lực, các sinh viên sĩ quan được học về bộ binh
căn bản (võ khí cá nhân, chiến đấu cá nhân, đội hình tác chiến...) rồi
đến chỉ huy cấp trung đội (võ khí cộng đồng, chiến thuật, cách dụng
pháo binh, chiến tranh chánh trị, quân pháp...)
Trong khoảng 5 năm đầu tiên (1951-1955, khóa 1 đến khóa 5), sinh
viên sĩ quan ra trường với cấp bậc Thiếu Úy (có khoảng trên 4,000
người). Từ khóa 6 trở về sau, sau khi tốt nghiệp Bộ Binh Thủ Đức, sinh
viên sĩ quan nhận cấp bậc Chuẩn Úy. Thông thường sau 18 tháng, họ được
thăng cấp Thiếu Úy Đương nhiên Thực thụ. Tân Chuẩn Úy Bộ Binh Thủ Đức có
thể chỉ huy một trung đội bộ binh, hay một đơn vị tương đương thuộc
binh chủng hay binh sở chuyên môn tùy theo chọn lựa. Đã có không ít tân
sĩ quan trừ bị chọn về những đơn vị tác chiến trên núi rừng biên giới,
phải ăn cơm sấy, uống nước hố bom, v.v... Trên nguyên tắc, sĩ quan trừ
bị Thủ Đức chỉ phục vụ trong quân đội bốn năm. Tuy nhiên, thực tế chiến
tranh ác liệt, nên đa phần bị quân đội lưu giữ lại mặc dù nhiệm kỳ trừ
bị 4 năm đã hết (chỉ trừ các trường hợp sĩ quan biệt phái như công chức,
giáo chức, chuyên viên kỹ thuật...)
Sĩ Quan Thủ Đức quỳ tuyên thệ trong Lễ Mãn Khóa
Chừng một tháng trước ngày mất nước, Trường Bộ Binh có khoảng
4,000 sinh viên sĩ quan thuộc các khóa gối đầu nhau. Các sinh viên Võ Bị
Đà Lạt cũng được C-130 không vận về chung chỗ. Tại Trường Bộ Binh Long
Thành, Võ Bị Đà Lạt gấp rút cho ra trường khóa 28 và 29, nhưng vẫn còn
các sinh viên sĩ quan đang huấn luyện thuộc các khóa 30 và 31. Sau khi
mọi thành phần của Trường Bộ Binh, gồm cả các thành viên Võ Bị Đà Lạt,
từ Long Thành về đến Thủ Đức, tổng cộng quân số tại Thủ Đức lên khoảng
6,000 người gồm SVSQ và quân nhân cơ hữu. Đầu tháng 4-1975, cộng quân
tấn công thăm dò vào Huấn Khu Long Thành, cho đặc công xâm nhập các
Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế, đã phải chịu nhiều
tổn thất. Những ngày cuối tháng 4-1975, sư đoàn Bắc quân 304 vẫn còn
đụng độ dữ dội với các đơn vị VNCH tại Huấn Khu Long Thành. Tại ngôi
trường Tăng Nhơn Phú, đến sáng ngày 30-4-1975, vài chiến xa T-54 của Bắc
quân đã bốc cháy vì bị pháo binh phòng thủ bắn trực xạ. Cuộc kháng cự
chỉ kết thúc khi Dinh Độc Lập yêu cầu binh sĩ buông súng.
Trải qua trên 20 năm, Trường Bộ Binh Thủ Đức đã sản sinh ra không
ít tướng lãnh lưu danh trên chiến trường. Có thể kể Tướng Trần Văn Minh
Tư lịnh Không Quân; Tướng Đồng Văn Khuyên Tổng Cục Trưởng Quân Vận;
Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lịnh Quân Đoàn Bốn thà tuẫn tiết chứ không đầu
hàng; Tướng Ngô Quang Trưởng Tư lịnh Quân đoàn I; Tướng Bùi Thế Lân Tư
Lịnh Thủy Quân Lục Chiến tái chiếm cổ thành Quảng Trị; Tướng Lê Quang
Lưỡng Tư Lịnh Nhảy Dù; Tướng Lê Văn Hưng người hùng trong trận tử thủ An
Lộc 1972, v.v...
Không chỉ trong giới nhà binh, mà không ít quân nhân xuất thân
Trường Bộ Binh Thủ Đức còn nắm giữ những chức vụ trọng yếu trong guồng
máy quốc gia, như Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Tổng Trưởng, Bộ Trưởng,
Tỉnh Trưởng, Thị Trưởng, Quận Trưởng, v.v... Nếu Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
đào tạo 4,600 sĩ quan hiện dịch cho QLVNCH, Trường Bộ Binh Thủ Đức cho
ra lò chừng 80,000 sĩ quan. Chưa kể sau 1972, chỉ riêng trường Hạ Sĩ
Quan Đồng Đế Nha Trang, đã tiếp sức huấn luyện thêm 12,000 sĩ quan trừ
bị. Ước tính, tổng số sĩ quan quân lực VNCH được huấn luyện từ thời Huế,
Nam Định, đến Thủ Đức, rồi Đà Lạt, Nha Trang... lên đến trên dưới
100,000 người. Thời hậu chiến, hằng chục ngàn người trong số này tiếp
tục đền nợ nước, phải chịu cảnh tù đày lao khổ trong các "trại cải tạo"
khắp mọi miền xứ sở.
Ba chiến hữu cùng Khóa 9A/72 Bộ Binh Thủ Đức thăm lại trường cũ năm xưa tại Tăng Nhơn Phú sau 35 năm.
TD Sinh Tồn chuyển