Quân khu 2 chiếm 2 phần 3 diện tích toàn quốc, dân cư thưa thớt khoảng 3 triệu người trong đó 20% là đồng bào Thượng, QK-2 đất đai rộng nhất nhưng dân cư lại thưa thớt nhất, Cao nguyên ít thu hút được đồng bào lên định cư, năm 1972 các đơn vị Mỹ lần lượt rút khỏi cao nguyên. Lực lượng Quân đoàn 2 gồm sư đoàn 22 BB (có 4 trung đoàn 40, 41, 42, 47) Tư Lệnh Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, Sư đoàn 23 (có 3 Trung đoàn 44, 45, 53), Tư Lệnh Ðại Tá Lý Tòng Bá và 11 Tiểu đoàn BÐQ biên phòng đóng dọc theo biên giới QK-2, Tư lệnh QK-2 Trung Tướng Ngô Dzu. Mùa thu năm 1971 có tin CSBV sẽ tấn công Cao nguyên vào mùa khô, tình báo VNCH cho biết lực lượng CS gồm Sư đoàn 320, Sư đoàn 2 và F10 được yểm trợ bởi Lữ đoàn 203 xe tăng và nhiều trung đoàn pháo, đây là lần đầu tiên VC xử dụng xe tăng và đại bác tại cao nguyên. Cuối tháng 1-1972 ta phát hiện VC gia tăng hoạt động trong Quân khu, địch đã đem đại bác tầm xa vào vùng Tam biên, pháo đài bay B-52 và phi cơ chiến thuật đã oanh kích tối đa vào các mục tiêu vừa phát hiện.
Quân đoàn 2 bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư đoàn 22 được dời từ Bình Ðịnh lên Tân Cảnh -Dakto, Thiết đoàn 19 kỵ binh cũng được tăng cường đến Tân Cảnh, Lữ đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân đoàn 2. Các lực lượng của Quân đoàn 2 chuẩn bị chờ VC. Ðịch tấn công căn cứ hoả lực Nhẩy Dù đầu tháng 4-1972 nhưng bị thảm bại, Cộng quân bị tổn thất nhiều vì không yểm B-52 nhưng vẫn bổ xung, Bắc Cao nguyên căng thẳng chờ trận xung kích của địch chắc chắn sẽ tiếp theo Quảng Trị và Bình Long..
Cuối tuần thứ hai tháng 4 Tân Cảnh và Dakto gần như bị VC bao vây, căn cứ Charlie bị pháo dữ dội sau đó là cuộc tấn công biển người vào căn cứ do Tiểu đoàn 11 Dù trấn đóng. Mặc dù có máy bay yểm trợ dữ dội nhưng vì VC quá đông tiểu đoàn Dù phải rút vào buổi tối, Tiểu đoàn trưởng Trung tá Nguyễn Ðình Bảo tử trận, tuần sau căn cứ Dù Delta cũng bị tràn ngập. Trung đoàn 42, 47 của Sư đoàn 22 BB phải rút từ Tân cảnh về Dakto vì áp lực địch. Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù và một Lữ đoàn được đưa về Sài Gòn, Liên đoàn 6 BÐQ và Trung đoàn 53 được đưa lên thay Dù. Trong hai tuần VC pháo Tân Cảnh-Dakto hằng ngàn quả mỗi ngày rất chính xác.
Ngày 23-4 cuộc tấn công bắt đầu, Sư đoàn 2 CSBV cùng 4 Trung đoàn độc lập thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) cùng với xe tăng, đại bác tấn công Tân Cảnh, tại đấy lực lượng VNCH gồm Trung đoàn 42, hai pháo đội 105 ly và 155 ly, 1 chi đội thiết giáp M-41, M-113, một Ðại đội công binh chiến đấu. CSBV xử dụng hoả tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger gây nhiều thiệt hại cho các chiến xa M-41 của ta và phá hủy các công sự phòng thủ, các xe tăng M-41 lần lượt bị bắn cháy, Trung tâm hành quân Sư đoàn cũng bị trúng đạn bốc cháy, lực lượng VNCH phải tháo chạy, hệ thống truyền tin bị thiêu hủy. Cố vấn Mỹ giúp đỡ cho mượn máy móc thành lập Trung tâm hành quân mới.
VC gia tăng pháo kích, với sự yểm trợ của 18 chiến xa, địch tiến về Dakto và Tân Cảnh, lực lượïng phòng thủ chống trả yếu ớt. Sau nhiều ngày bị pháo và thiệt hại nặng, Trung đoàn 42 bảo vệ Bộ tư lệnh bị rối loạn khi xe tăng T-54 tiến vào cổng doanh trại, toán cố vấn thoát vòng vây lên được trực thăng. Ðại tá Tư lệnh Lê Ðức Ðạt, Tư lệnh phó Ðại tá Tôn thất Hùng và vài sĩ quan tham mưu vẫn ở trong bộ chỉ huy, họ cố gắng phá hủy máy móc và hồ sơ rồi nhân lúc trời đổ mưa đã trốn thoát nhưng chỉ có Ðại tá Hùng về được Kontum số còn lại coi như mất tích hết. Tân Cảnh là Trung tâm hành quân của Sư đoàn 22. Trung đoàn 47 VNCH tại Dakto 2 cũng bị tấn công dữ dội, chi đội Thiết giáp tại Ben Hét được lệnh tới cứu nhưng bị lọt ổ phục kích VC, xe tăng bị bắn cháy hết. Bộ chỉ huy Trung đoàn 47 phải rút dần dần. Dakto, Tân Cảnh bị mất, Cộng quân củng cố căn cứ chiếm được, di chuyển 30 khẩu pháo của ta. Sư đoàn 320 CSBV tiếp tục tiến đánh các căn cứ hoả lực còn lại, ngày 25-4 Tướng Ngô Dzu ra lệnh cho hai căn cứ hoả lực 5, 6 di tản.
Mặc dù đã chiếm được các căn cứ phía Bắc, CSBV đã không lợi dụng được thắng lợi này để tấn công vào Kontum mà phải đợi tới 2 tuần sau, nhờ đó Sư đoàn 23 BB sau này đã tổ chức nội bộ, sắp xếp các đơn vị, hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ.. Tại Bình Ðịnh Sư đoàn 3 BV chiếm quận Hoài An, Hoài Nhơn, Tam quan. Tướng Ngô Dzu hối hận đã không tăng cường 2 trung đoàn còn lại cho Ðại tá Ðạt, Tướng Dzu hiện đang lo sợ cho chính bản thân mình tại Pleiku, vì mất tinh thần ông gọi điện thoại luôn luôn cho Tổng thống Thiệu để xin lệnh.
Bộ TTM và Tổng thống Thiệu coi Tướng Dzu không còn đủ khả năng của một Tư lệnh và đã cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn lên thay ngày 10-5. Sau khi chiếm Tân Cảnh, địch tiến về Komtum và bao vây cô lập thị xã này, trong khi chiến trận bùng nổ nhiều nơi, tăng cường cho Kontum là điều khó khăn. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB di chuyển 160 km từ Ban Mê Thuột đến Kontum để chỉ huy các lực lượng tại đây và tổ chức cuộc phòng thủ thị xã. Quân đoàn 2 đưa 4 tiểu đoàn BÐQ đóng tại Võ Ðịnh nằm ở 20 cây số phía Tây bắc Kontum và dọc theo sông Pô Kơ phía Nam, một tiểu đoàn BÐQ tăng cường trại biên phòng. Trung đoàn 53 (SÐ- 23) phòng thủ thị xã trong khi Liên đoàn 2 và 6 BÐQ nhận nhiệm vụ đánh cầm chân VC trên quốc lộ 14 phía Bắc Kontum. Máy bay chiến thuật cũng như B-52 đã dội bom đánh phá các nơi địch tập trung quân. Ðại Tá Lý Tòng Bá Tư lệnh chiến trường chỉ huy 2 trung đoàn 45, 53 của ông và các liên đoàn Dù, BÐQ… Những đơn vị tăng phái thường giữ liên hệ với các đơn vị gốc nên quyền hạn của ông ít được trải rộng. Tại Võ Ðịnh Lữ đoàn Dù được lệnh đưa ra QK1, Tiểu đoàn BÐQ tại đây bị VC tấn công được lệnh di tản.
Các căn cứ biên phòng của BÐQ bị tấn công dữ dội nhưng vẫn đứng vững nhờ yểm trợ của không quân Mỹ, ngày 6-5 Trung đoàn 64-CSBV có xe tăng và pháo binh yểm trợ ồ ạt tấn công trại Polei Kleng khiến BÐQ phải rút ra ngoài ngày 9-5, trong khi ấy B-52 vẫn yểm trợ gây tổn thất nặng nề cho CSBV, BÐQ đã chống trả rất anh dũng, bắn hạ chiến xa địch và chiếm lại căn cứ này. Khoảng ngày 7-5 Sư đoàn 23 BB đã hoàn tất phòng thủ trong và ngoài thị xã, tạo một chu vi phòng thủ hình cung hướng Bắc và Tây Bắc, ÐPQ phụ trách phía Nam và Ðông Nam. Ðại tá Lý Tòng Bá thân hành thị sát tuyến phòng thủ cùng các sĩ quan tham mưu, kế hoạch yểm trợ hỏa lực và phản pháo đã được thiết kế xong, các đơn vị thực tập sử dụng hoả tiễn chống chiến xa M-72. Ngày 8-5 Tổng Tống Nixon ra lệnh cho không quân Mỹ mở chiến dịch Linebacker để tiêu hủy tiềm năng chiến tranh của CSBV như đánh phá cầu cống tại miền Bắc, máy bay F-4 Phantom xử dụng bom laser bắn cháy các chiến xa CS tại miền Nam.
Cuộc tấn công của CS vào Kontum có thể chia làm 2 giai đoạn: Từ 14-5 đến 17-5 và 18-5 tới 1-7. Sáng ngày 14-5 Cộng quân tấn công Kontum, trong khi ấy tình báo kỹ thuật của Sư đoàn đã giải mã và biết trước trận xung kích. Năm Trung đoàn Cộng quân tiến vào thành phố, từ hướng Tây Bắc 2 trung đoàn 48 và 64 của BV tấn công trung đoàn 44 VNCH, từ Bắc Trung đoàn 28 thuộc Mặt trận B-3 tiến về Nam đánh vị trí phòng thủ Trung đoàn 45 của ta, Trung đoàn 1 CS tấn công Trung đoàn 53 VNCH, tại Bắc và Ðông Bắc, Trung đoàn 141 VC từ Nam đánh lên Bắc vào các phòng tuyến ÐPQ và Tiểu khu Kontum. Cuộc tấn công mở đầu bị bẻ gẫy, các chiến xa dẫn đầu bị bắn cháy.
Trong những ngày kế tiếp Kontum bị pháo kích và tấn công rời rạc, quân trú phòng chống trả nhanh nhẹn, tại Kontum Cộng quân gặp nhiều khó khăn hơn tại Tân cảnh mấy tuần trước. Một tiểu đoàn VC chọc thủng tuyến phòng thủ giữa 2 Trung đoàn của ta và tấn công liên tục, pháo binh VNCH không chận đứng được cuộc tấn công. Tình thế rất nguy ngập có nguy cơ sụp đổ phòng tuyến, lúc này chỉ còn trông cậy vào Máy bay chiến lược B-52. Khoảng một giờ trước cuộc không tập, binh sĩ ta rút lui về phía sau trong khi pháo binh tăng cường phản công. B-52 đã tới dội bão lửa lên các vị trí đóng quân của CSBV, tiếng bom nổ long lở đất trời rung chuyển cả thành phố, trận oanh tạc đã khiến cho hằng mấy trăm VC bỏ xác tại chiến trường. Ðịch có ưu thế về quân số, xe tăng, pháo binh nhưng vẫn thảm bại vì hoả lực không quân, pháo binh VNCH nhất là pháo đài bay B-52, nếu không có B-52 trải thảm Kontum có thể bị nguy ngập. Ðại Tá Bá khi ấy cho rút ngắn chu vi phòng thủ vì hiện đã quá rộng.
Lực lượng Cộng quân tuy thế vẫn còn mạnh, địch thăm dò để tấn công tiếp rồi pháo kích dữ dội khiến cho phi cơ lên xuống khó khăn. CSBV nghiên cứu tìm kẽ hở, tung đặc công vào thành phố. Cuối tuần lễ sau trận tấn công đầu tiên, các nỗ lực của BV đều thất bại. Ngày 20-5 khi Cộng quân chọc thủng tuyến nằm giữa 2 trung đoàn 44 và 53, Ðại Tá Bá đã điều động chi đoàn thiết giáp M-41 vào chiến trường tiêu diệt địch cùng với yểm trợ của không quân VNCH và B-52 của không lực Mỹ đẩy lui VC. Ngày 21-5 từ Pleiku Tướng Toàn đã điều động lực lượng khai thông Quốc lộ 14 từ Bắc tới Kontum, dân chúng được di tản khỏi Kontum về Pleiku, Kontum không xẩy ra hỗn loạn, binh sĩ vẫn vững tinh thần
Ngày 25-5 Cộng quân mở nỗ lực cuối cùng tấn công Kontum, lúc nửa đêm địch pháo dữ dội vào gần phi trường và phía Nam thành phố, hai tiểu đoàn đặc công cùng với các thành phần xâm nhập lọt vào mặt Ðông Nam do ÐPQ trấn giữ. Từ Bắc và Ðông Bắc bộ binh CS và xe tăng tiến vào thành phố. Bộ chỉ huy Sư đoàn và các vị trí pháo binh VNCH bị pháo kích dữ dội. VC chiếm một trường học, một chủng viện Công giáo, Tòa giám mục Kontum, đại bác VC tàn phá thành phố kể cả súng 105, 155 lấy được của ta tại Tân Cảnh, pháo kích địch chính xác làm tê liệt pháo của ta. Ngày 26-5 CSBV tăng gia pháo kích và tấn công Trung đoàn 53 từ phía Bắc, các phi vụ oanh tạc được điều động tối đa để yểm trợ cho Kontum khi “ tình trạng khẩn cấp” được tuyên bố, 8 chiến xa và một tiểu đoàn bộ binh VNCH đẩy lui một cánh quân VC.
Ðịch vẫn bám chặt vị trí nên hai bên vẫn dằng co đến hết ngày, trong khi đó tiếp liệu bắt đầu thiếu hụt, các trực thăng khổng lồ Chinook đã thực hiện tiếp tế tại sân banh và tải thương. Ðến tối trung đoàn 64 BV lại mở cuộc tấn công vào giữa Trung đoàn 53 và 45, những trận oanh tạc của B-52 khiến VC gặp khó khăn về tiếp liệu, Quân đôi VNCH chủ động phản công chiếm lại bệnh viện, trường học, Kontum đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Trong ngày 30-5, các vị trí do CS chiếm đã được lấy lại, Tổng thống Thiệu bay vào thị xã vinh danh tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ và thăng cấp Ðại Tá Lý Tòng Bá lên Chuẩn tướng.
Trưa 31-5 Cộng quân rút lui để lại 3000 xác chết theo lời Tướng Bá, mấy chục chiến xa bị bắn hạ, nỗ lực cuối cùng của Cộng quân bị thảm bại. Theo sự ước lượng của tình báo Mỹ Cộng quân đã bị thiệt hại khoảng từ 20 cho tới 40 ngàn cán binh tại mặt trận Cao nguyên QK-2. Sau này Tướng Bá cho biết CSBV đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để chiếm Kontum và có thể làm chủ QK-2, khi đã chiếm được các căn cứ phía Bắc như Dakto và Tân Cảnh, họ đã không tiến đánh Kontum ngay mà để hai tuần sau mới tấn công khi mà Sư đoàn 23BB đã bố trí lực lượng phòng thủ trong và ngoài thị xã và cuối đã thảm bại.
Khi BV mở cuộc tấn công Kontum giai đoạn 1 từ 14-5 tới 17-5, tình thế rất nguy ngập phòng tuyến có nguy cơ sụp dổ, pháo binh ta không đủ sức ngăn chận đà tấn công của đối phương chỉ còn trông cậy vào B-52 và rồi các pháo đài bay B-52 đã đến đúng giờ dội bom ồ ạt xuống các vị trí tập trung quân của địch đã cứu vãn được tình thế. Sự chiến đấu kiên cường của quân trú phòng chưa đủ để giữ vũng phòng tuyến mà còn phải trông vào sự yểm trợ của không lực Mỹ.
Mấy năm sau, 1975 Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá người Hùng Kontum nắm giữ Tư Lệnh Sư đoàn 25 BB đóng tại Củ Chi, khi Bộ Tư Lệnh Sư đoàn thất thủ , ông bị CS bắt mấy ngày sau 30-4-1975 và bị cầm tù 13 năm tại miền Bắc, cuối tháng 1 năm 1990 ông được định cư tại Mỹ theo diện HO1.
Trọng Ðạt
Tài liệu tham khảo
Trần Phan Anh: Chiến Trận Mùa Hè 1972.
Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Ðại Nam 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam- 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản 2005.
Văn Tiến Dũng: Ðại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản QÐND Hà Nội, tái bản lần thứ tư, 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1991.
Lâm Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
The World Almanac Of The Vietnam War, General Editor: John S. Bowman – A Bison Book 1985.
Stanley Karnov: Vietnam, A History – A Penguin Book 1991.
Marilyn B. young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents – Oxford University press 2002.
Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Ðỏ, Ai Còn, Ai Mất. Người Việt Dallas 7-10-2005.
Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2005 (Không tác giả).
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Tường Trình Của Một Quân Nhân: W.C.Wesmoreland Người Việt Dallas 14-9-2007.
Sinh Tồn chuyển