Đoạn Đường Chiến Binh
Một Ngày Trong Thung Lũng A Sau
Nguyễn Văn Phúc
Lời nói đầu:
Bài dịch từ chương Bốn “One Day in the A Shau Valley” trong tác phẩm Across the Fence của John Stryker Meyer. Tác giả John Stryker Meyer là một người lính Mũ Xanh trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Trong chương Bốn, tác giả thuật lại một công tác của toán ST Louisiana, nhảy vào thung lũng A Shau, phía Tây Huế. Toán thám sát sáu người chạm địch sau khi xuống bãi và di chuyển vào trong một ngọn đồi. Câu chuyện cho thấy tấm lòng của người lính Mũ Xanh Hoa Kỳ, không rời bỏ bạn cùng toán (Việt - Mỹ) và hành động anh hùng của một phi công miền Nam Việt Nam.
Wilbur “Pete” Boggs g̣ặp việc rắc rối: anh bị thiếu mất một toán viên, và mấy ông lớn ở Phòng 3 lại vừa chỉ định một mục tiêu trong thung lũng A Shau, được gọi là vùng A Shau 2. Giữa tháng Bảy, trưởng toán Boggs, mang nguyên toán ST Louisiana đi thực tập để cho toán làm quen để nhảy vào vùng hành quân. Mọi người cứ tưởng đây chỉ là một cuộc thực tập bắn đạn thật, huấn luyện về di hành, canh gác đêm trong lúc ở bên ngoài trại. Nào ngờ, toán lại chạm cả đám du kích VC và cả đám lính Bắc Việt. Trận đánh xảy ra rất nhanh, và hai bên đều có người chết. Vì thế, viên toán phó do dự, không chắc sẽ ở lại với toán. Gần cuối tháng Bảy, một trong những viên hạ sĩ quan kỳ cựu trong phòng truyền tin tại căn cứ FOB 1 hỏi người toán phó nếu anh ta muốn chuyển về làm phòng vũ khí hay không? Anh ta đã nhận lời.
Ngày hôm sau, 1 tháng Tám, Boggs bay thám sát mục tiêu, và đã tìm thấy một bãi đáp chính và cả bãi đáp phụ. Khi trở về trại, Boggs được giới thiệu với Tom Cunningham, người toán phó mới.
Cũng giống như tất cả các người lính Mũ Xanh (Lực Lượng Đặc Biệt) tại trại FOB 1; Tom Cunningham đã tình nguyện gia nhập LLĐB, tình nguyện sang Nam Việt Nam, tình nguyện nhảy toán. Tuy vậy, con đường đi đến nhảy toán và là một người lính thám sát của SOG hơi kỳ lạ.
Khi đang theo học khóa bộ binh trung cấp tại trại Ft. Ord, California, anh được lịnh tiếp tục theo học trường đào tạo sĩ quan, nhưng tiêu chuẩn học khoá này bị thay đổi. Lục Quân Hoa Kỳ báo cho những người đang dự tuyển vào OCS là họ lại phải qua một kỳ thi tuyển mới, theo những tiêu chuẩn mới. Theo như Cunningham, có vẻ như Lục Quân đã thay đổi điều lệ để có thể mang thêm lính sang Việt Nam, thay vì sĩ quan. Khi luật được công bố, Cunningham là ṃôt trong khoảng hai trăm người lính đi đến trung tâm tuyển mộ SF, tình nguyện gia nhập vào LLĐB. Trong số hai trăm người đó, chỉ có anh và sáu người khác được chọn.
Sau khi học xong giai đoạn một, và khi đang theo học gia đoạn hai, anh được huấn luyện để trở thành một nhân viên truyền tin đặc biệt. Ngay khi ấy, Cunningham lại mê thích chất nổ, vậy là anh xin chuyển học về chuyên viên chất nổ.
Cùng thời gian, anh quen với John Walton, y tá nhảy toán. John là dân Bentonville, Arkansas. Walton được gởi sang Việt Nam trong khi Cunningham đang lo hoàn tất chương trình huấn luyện của giai đoạn ba.
Khi đến vịnh Cam Ranh, Cunningham được cho biết có lịnh gởi anh về một đơn vị bộ binh. Anh không thích đơn vị này. Người sĩ quan liên lạc của LLĐB cho anh biết chỉ có một điều duy nhất để được chọn vào lính LLĐB là nhảy toán. Cunningham theo học khóa nhảy toán tại MACV Recondo ở Nha Trang. Khóa huấn luyện thật là vô giá, giúp cho những người lính mới làm quen với đất nước mới và những kinh nghiệm về rừng rậm. Khi những cán bộ trong trường biết Cunningham và vài người lính LLĐB khác sẽ về trại Phú Bài, Huế; họ hướng dẫn thêm cho mấy người nầy về những kinh nghiệm lùng, trốn, kỹ thuật tác chiến. Cunningham bay đến Đà Nẵng, rồi cùng mấy người bạn leo lên chiếc trực thăng H-34 Sikorsky đến Phú Bài. Chuyến bay đến Phú Bài thật khó quên. Mấy tay phi công Việt Nam biết Cunningham và bạn anh là lính mới, vừa đến Việt Nam, nên họ bay cao cách con đường lộ có vài thước, bay thật sát trên xe nhà binh, đường lộ, đồi cao dọc theo trại FOB 1. Mục đích chính là doạ mấy anh lính mới này.
Sau khi bay qua khỏi phi trường Phú Bài và trung tâm huấn luyện của Sư Đoàn 2 Bộ Binh dọc theo phía đông quốc lộ 1, chiếc H-34 đột nhiên bay lên cao và bất ngờ bẻ lái thật mạnh về hướng phải, làm cho cửa phải trực thăng đối mặt thẳng với mặt đất. Trước khi mấy tay lính mới kịp hoàn hồn, chiếc Kingbee bay thẳng ngay vào trại FOB 1, khiến đôi khi càng trực thăng đụng vào mấy cành cây trong trại. Chiếc Kingbee quẹo phải thật nhanh thêm một lần nữa và đáp ngay xuống chỗ đáp.
Boggs dẫn Cunningham đi quanh trại và giới thiệu với các toán viên anh sẽ là người mang máy truyền tin cho toán. Cunningham nói chuyện với người thông dịch viên của toán và gặp hết các toán viên người Việt. Trại Phú Bài là tất cả những gì mà Cunningham có thể tưởng tượng. Boggs mang anh tới Phòng 4, cho Cunningham nhận vũ khí và quân dụng,và cho biết toán sẽ đi hành quân sớm – rất sớm. Cunningham ngạc nhiên,vì anh chưa có đủ thì giờ làm quen và nghỉ ngơi chút đỉnh. Anh im lặng không nói vì tưởng đó là cách làm việc của trại FOB 1 nầy. Buổi trưa, anh gặp lại người bạn John Walton, viên y tá của toán ST Louisiana. Boggs cho hai người bạn biết anh muốn toán được đưa vào mục tiêu vào ngay buổi chiều tối, ngay khi mặt trời vừa lặn. Boggs cho họ biết công tác khó ăn và bảo họ mang đầy đạn và mang dư thêm lựu đạn. Thời tiết xấu đã cản trở công việc. Cả hai ngày sau, các toánvẫn chưa được thả xuống. Sáng ngày 3 tháng 8, tại Phòng 3, một buổi thuyết trình được tổ chức chuẩn bị đợt thả toán vào buổi sáng.
Người sĩ quan thuyết trình cho biết nhiều chi tiết và chi tiết mục tiêu họ sẽ vào. Cunningham luôn về những công tác không thành công trong những lần trước, khi các toán khác được nhảy vào khu vực nầy. Boggs lại nghĩ họ sẽ là may mắn nếu họ xuống được mục tiêu. Nếu họ xuống được, toán có thể sẽ chạm địch rất nhanh, ngay khi toán vừa chạm đất.
Vì núi quá cao, bầu trời chói sáng và nắng đang lên, các viên phi công cho biết họ sẽ thả toán ST Louisana bằng ba chiếc trực thăng, cứ hai người lính cho một chiếc Kingbee. Khi chiếc H- 34 thứ ba đang bay xoắn vòng để xuống nhanh dưới mặt đất, người xạ thủ cho Walton biết chiếc trực thăng đầu đang súng cá nhân bắn. Walton ngạc nhiên tại sao họ tiếp tục đáp xuống khi biết họ đang bị địch nhắm bắn. Riêng với Cunningham ngồi trong chiếc thứ hai, mọi việc rất bình thường. Anh chỉ nghĩ Boggs sẽ yêu cầu không quân bay vòng trên vùng lâu hơn bình thường, vì đây là một mục tiêu A Shau.
Mấy chiếc H-34 bỏ toán ST Louisiana xuống ngay một triền núi, với một bên là nhiều cây rậm rạp, và chung quanh đồi là cánh đồng trống; và bên kia là khu rừng. Boggs cho toán di chuyển thẳng vào đồi. Walton đi trước một người lính Việt giữ mặt sau của toán, trong khi Cunningham đi sau Boggs trong đội hình. Vì Walton vẫn còn là lính mới, anh chỉ mới đi có hai hay ba lần công tác, nên anh giữ câu hỏi trong lòng, không nói ra. Nhưng anh tự hỏi tại sao họ lại đi vào đồi cây thay vì vào trong rừng.
Toán vừa đến đồi, Boggs bảo Cunningham liên lạc vô tuyến báo cho biết là toán xuống diạ điểm an toàn. Các phi cơ bay yểm trợ đang rời khỏi mục tiêu. Khi toán ST Louisiana di chuyển xa khỏi đồi, Cunningham kinh ngạc vì anh nhìn thấy nhiều bẫy và hầm chông. Anh nghĩ rằng, bẫy và hầm chông được dành riêng cho các toán thám sát. May mắn, chúng đã quá cũ, và toán nhìn thấy rõ, từng cái một. Toán tiếp tục di chuyển thêm nhiều phút nữa trước khi dừng chân trong một khu cây cối mọc đầy, và rậm. Cunningham gặp khó khăn khi liên lạc với chiếc Convey đang bay khá xa. Sau cùng, anh liên lạc được với một phi cơ với danh hiệu “Alexander”, trước khi một đơn vị cộng quân di chuyển ngang qua một con đường mòn, cắt ngang đồi.
- “Tại sao anh nói nhỏ như vậy?” Alexander hỏi.
Trong khi Cunningham nói thật nhỏ vào máy PCR-25, Walton quan sát lại ngọn đồi. Anh thấy người lính đi đầu ra thủ hiệu, báo có nhiều lính Bắc Việt bên kia khu rừng, ngược hướng ngay bãi đổ quân của toán. Walton ngồi phía sau với người lính đoạn hậu; cả hai đều ngạc nhiên khi biết có nhiều lính Bắc Việt di chuyển dọc theo con đường mòn.
Tiếng động làm cho người lính đoạn hậu chú ý. Anh lo quan sát về khu vực bên tay phải. Walton ngồi phía trước anh ta, trong lúc bốn người còn lại của toán tản đều ra phía trước. Trong lúc người lính đoạn hậu tiếp tục quan sát bên phải đồi, Walton nhìn thấy một bụi rậm đang chuyển động cách chừng mười thước. Một trong những tên lính Bắc Việt bò lên con đường mòn. Khi Walton đang còn loay hoay với cây CAR-15, thì tên lính Bắc Việt đứng lên với cây AK-47 cầm trên tay. Mặt hắn nhìn giống như con mèo Cheshire. Tên lính địch bắn nguyên tràn khi Walton vẫn còn lê súng.
Bốn viên đạn của tên lính Bắc Việt bắn trúng người lính đoạn hậu, làm anh bị thương nặng. Đạn từ cây súng CAR-15 bắn trúng tên địch, khiến cho thân người hắn bay ngược vào bên trong rừng. Khi cơn nguy hiểm vừa qua đi, Walton lo băng bó cho người bạn Việt, anh kéo bạn lên bên trên đồi, đến ngay chỗ Boggs, làm cho anh ổn định và truyền một bịch máu cho bạn mình. Walton xin phép Boggs bò đến xác tên địch để tìm tài liệu và những tin tức cho tình báo, nhưng Boggs khôn ngoan từ chối. Vài phút sau, làn sóng tấn công đầu tiên của quân địch đánh thẳng vào toán thám sát. Toán sáu người đẩy lùi địch mà không có thương vong.
May mắn cho toán, hai chiếc trực thăng hỏa lực của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù được điều động từ một mục tiêu ở Nam Việt Nam sang thung lũng A Shau. Việc nầy làm cho toán được rảnh tay vài phút. Boggs giựt một trái lựu đạn khói, điều khiển trực thăng đánh vài đợt quanh vị trí phòng thủ. Cứ mỗi khi trực thăng vừa đánh và bay qua, quân địch ngay sườn đồi ngồi chổm dậy và nhắm bắn vào toán. Cunningham bò lên bên trên đồi để nhìn cho rõ hơn. Đây là lần đầu tiên anh đụng với lính Bắc Việt. Đạn của quân địch làm cho đất cát bắn tung vào mặt anh nhiều lần. Rồi Cunningham nhận rõ đây không phải là điều hay, nên anh bò trở xuống, thật nhanh. Sau vài lần bắn phá, hai chiếc trực thăng hết đạn, và bay trở về căn cứ ở Phú Bài. Cunningham đùa cợt, hỏi các tay súng của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù, có muốn đáp xuống để kéo toán lên. Họ từ chối và cho biết trực thăng trên đường bay.
Vài phút sau, Cunningham được báo cho biết một chiếc khu trục A-1E Skyraiders (Spads) đang vào vùng. Boggs đã xin thả bom napalm. Walton đang ngồi bên phải Cunningham, và anh vừa băng xong vết thương cuối cho người lính Việt. Cả hai đang ngồi ngay khoảng rừng thưa. Boggs điều khiển thả bom, sẽ ngay chỗ trống và chạy xuống ngay cái gò, chỗ toán Louisiana đang nằm. Walton không lo lắng gì cả. Từ đằng xa, anh có thể thấy chiếc khu trục bay đến, thấy trái bom bay từ trên cao xuống đất. Sau khi bom chạm đất và nổ, một miếng miểng bom nhỏ bay thẳng đến gò, ngay chỗ Walton và toán đang ngồi. Miểng bom ngừng ngay giữa hai chân Walton. Anh ngồi đấy, liếc miểng sắt còn nóng hổi cả mấy giây. Cunningham ngạc nhiên vì trái bom napalm thả quá gần toán, nhưng lửa và miểng bom không bay ngay vào anh, dù anh và Walton chỉ ngồi cách nhau có vài thước. Mấy trái bom làm cho Cộng quân chậm lại, nhưng chúng sắp sửa tấn công tiếp, lần nầy ngay bên trái Cunningham. Vẫn chưa có ai bị thương. Boggs lo lắng vì vị trí của người lính đoạn hậu bị bỏ trống, nên anh cho lịnh Walton trám vào nơi ấy. Khi Walton bò đi, người lính Việt thế vào chỗ anh, ngay kế bên Cunningham.
Walton di chuyển xa khỏi chu vi phòng thủ. Anh bò được khoảng mười mét thì địch tấn công đợt thứ hai. Toán thám sát vẫn giữ vững được vị trí. Khi Cộng quân mở cuộc tấn công lần thứ ba, Boggs hét to, cho biết toán sắp bị tràn ngập. Walton không thể nhìn thấy Boggs, Cunningham và người lính Việtvì cây rừng quá dầy khiến anh chỉ nhìn xa được chừng nửa thước. Nhưng lại hay vì Walton chỉ căn cứ vào sự chuyển động của lá cây là biết quân địch đang tràn tới.
Ngay đợt tấn công đó, Boggs gọi không yểm. Anh yêu cầu máy bay đánh thẳng xuống toán để chận đứng quân địch. Mấy loại đạn 20 ly xé tan đám Cộng quân, nhưng đạn cũng bay thẳng vào vị trí toán. Cunningham đang ở vào tình thế ngặt nghèo và không thể làm được gì cả. Khi biết được thì anh đã bị bắn trúng hai phát. Một viên xuyên thủng đùi mặt; viên kia bay vào máy truyền tin. Máy bị phá hư, nhưng nó đã cứu anh. Boggs bị miểng của máy làm bị thương. Người lính Việt thế chỗ cho Walton chết ngay tức khắc. Mấy viên đạn 20 ly làm nổ lựu đạn, mấy trái đạn khói, và lựu đạn cay mà người lính Việt mang trên người. Boggs bị trúng thêm nhiều miểng đạn khác, làm cho anh bị nửa mê nửa tỉnh.
Đợi không kích đã ngăn chặn được đà tấn công của Cộng quân nhưng cũng làm cho toán bị khói cay, từ lựu đạn, và từ mấy trái bom napalm và khói súng bao trùm lên người. Walton nhanh chóng kiểm soát vết thương của Boggs và Cunningham. Anh thấy viên đạn 20 ly bắn thủng chân mặt của Cunningham, chỉ còn lại một ít thịt giữ cho chân còn liền nhau. Anh lấy cái đai xanh cầm máu cột chặt vết thương, và dùng con dao xoáy quanh phần đùi để giữ không cho máu tràn ra. Walton cũng giúp chữa cho Cunningham bị cháy cổ họng vì lựu đạn cay.
Biết được máy truyền tin PRC-25 bị hư, Walton móc trong túi chiếc máy truyền tin cấp cứu với tần số cao URC-10, và gọi cho Covey. Anh báo cáo:
- Một chết, ba bị thương và nếu Covey muốn mang họ ra, cần phải làm thật gấp.
Walton không có thì giờ để suy nghĩ khoảng cách ngắn, khoảng 10 m, đã cứu mạng anh.
Cunningham kiểm soát lại khắp người để biết chắc là mình còn sống hay đã chết. Người lính Mũ Xanh nầy có cách thử lạ kỳ. Anh la to. Tiếng la giống như từ nơi xa, thật xa, nhưng nhò thế anh biết mình vẫn còn sống. Tiếng la cũng làm cho Cunningham tỉnh luôn. Anh có lại cảm giác bình thường. Cunningham biết anh cần phải tự lo cho mình, càng cố gắng nhiều càng tốt, cho mình và cho những người khác.
Trong khi Walton lo cứu Cunningham, Covey điều khiển không yểm quanh vị trí toán. Walton dùng máy liên lạc và báo cho Covey biết là hai trong ba người bị thương rất nặng và yêu cầu được triệt thoái. Trên chiếc Covey, Pat Walkins bảo Walton di chuyển những người còn lại của toán đến gần một trảng trống ngay sườn núi.
Tại Phú Bài, trong trại FOB 1, hầu như tất cả mọi người lính Mũ Xanh vây quanh các máy truyền tin PRC-25 nghe Covey nói chuyện với toán thám sát, hay trong phòng trung tâm truyền tin, lắng nghe thêm nhiều tần số khác. Khi những báo cáo đầu được Covey báo về tình trạng của toán, toán Louisiana trông có vẻ bất hạnh.
Tại thung lũng A Shau, những cuộc không tập giúp cho toán được rảnh tay đôi chút, giúp cho Walton và người toán viên Việt còn lại mang các người bị thương đến gần trảng trống hơn. Walkins cho Walton biết anh sẽ điều khiển mấy chiếc phản lực F-4. Chiếc Kingbee đầu tiên sẽ xuống bốc người bị thương nặng nhứt, chiếc thứ hai và thứ ba sẽ giúp triệt thoái những người còn lại.
Walton và người bạn Việt mang người lính đoạn hậu bị thương ra trảng, trong khi Boggs dìu Cunningham. Khi Cộng quân vừa nghe tiếng trực thăng Kingbee, trận đánh lại sôi động lên. Người lính Việt bị thương được đặt ngay trảng trống, cỏ chỉ cao chừng một thước. Chung quanh đất, bụi bay mù mịt vì đạn của địch bắn vào. Đại Úy Thịnh lái chiếc trực thăng đầu và đáp xu6óng ngay vị trí. Càng của trực thăng chỉ cách người lính vài thước.
Cunningham chỉ cảm thấy đau ba lần: lần đầu khi anh bị trúng đạn. Lần thứ hai, anh cảm thấy như một trong những cái cồng to lớn của người Tàu, bị dội tới dội lui, trong âm thanh vang vọng. Lần thứ ba khi Boggs dìu anh chạy tới bãi triệt thoái thì chân bị thương của anh lại bị kẹt vào thân cây. Anh liền hiểu tại sao người ta nói cơn đau có màu sắc. Cunningham thấy ánh sáng nhiều sắc. Lần cuối xảy ra ngay tại chiếc Kingbee, khi Boggs giúp Cunningham bước lên càng trực thăng. Boggs phải quay người lại để bắn vào đám quân địch đang tràn tới. Vì không muốn bị trúng thương tiếp, nên anh dùng phần còn lại của chân mặt, cà chân mình, cố gắng để leo lên tàu. Anh bò đến đuôi tàu. Cuối cùng anh nghĩ mình đã được an toàn.
Cùng thời gian, Walton biết được chiếc Kingbee thứ hai không bay thẳng xuống bãi bốc như chương trình đã định, và rằng quân lính Bắc Việt tiếp tục dùng súng cá nhân bắn dữ dội vào Walton, Boggs và người bạn đồng nhiệm Việt dũng cảm. Walton hiểu tại sao kế hoạch triệt thoái cần ba chiếc trực thăng: thời tiết nóng và bãi bốc lại nằm ngay dãi núi trong thung lũng A Shau. Sức nóng và chiều cao của ngọn núi làm giảm sức nâng của trực thăng, đặc biệt là buổi sáng nắng nóng,cũng như người bị thương nặng nhứt là Cunningham và người lính Việt. Walton gọi cho Walkins, hỏi chiếc trực thăng thứ hai đang ở đâu, và Walkins trả lời, viên phi công không dám bay vào bãi bốc bởi vì quân địch bắn rát quá.
Walton cảm thấy đau lòng. Câu hỏi về sức nặng đã làm cho anh phải bỏ lại người bạn Việt đã hy sinh, vì sức nặng của thân anh ta có thể làm cho những người còn sống gặp nhiều khó khăn khi triệt thoái. Walton và người bạn Việt nhìn lên bầu trời, tìm kiếm trực thăng. Chả có chiếc nào. Quân lính Bắc Việt lại tiếp tục tiến thẳng tới ba người lính của toán ST Louisiana đang phơi mình ngoài trảng trống. Walton biết tình hình quá bất lợi.
“Kingbee đang nhào xuống.”
Đó là Đại Uý Thịnh! Trên trực thăng của ông đã chở người bị thương (Đại Uý Thịnh bay chiếc đầu, ông cho tàu quay lại khi nghe tin chiếc trực thăng kia không dám xuống) và Walton biết không có cách nào mà ông có thể kéo họ lên hết được. Nhưng chiếc Kingbee đang bay xoắn vòng, bay thật nhanh xuống, trước khi lơ lửng ngay bãi bốc. Thịnh đáp ngay chỗ những người còn lại của toán ST Louisiana.
Walton và người lính Việt nhấc Boggs lên tàu và nhảy ngay vào cửa sổ bên phải và bên hông trực thăng, bắn vào quân địch, vì thấy một số tên đang chạy đến trực thăng.
Thật quá đúng. Sức nặng của nhiều người làm Thịnh không thể̉ điều khiển trực thăng lên cao. Vì thế ông nhấc bánh sau khỏi mặt đất và bắt đầu bay thẳng xuống đồi, cố gắng làm cho trực thăng bay nhanh, trong khi bọn Cộng quân nhắm bắn vào tàu. Đến phút cuối, Thịnh điều khiển chiếc trực thăng cũ kỹ Sikorsky bay lên khỏi ngọn cây. Nhưng không may, tàu vẫn chưa bay đủ nhanh nên không thể vươn tới độ cao cần thiết để trực thăng bay lên khỏi núi. Đại Úy Thịnh lại chuyển hướng bay thẳng xuống thung lũng. Cuối cùng, máy bay có đủ sức nâng để bay lên khỏi ngọn núi và bay xa thung lũng A Shau.
Vì Cunningham lết, bò trườn lên trực thăng, làm cho máu từ vết thương chảy mạnh. Anh bắt đầu rơi vào trạng thái hôn mê. Walton dùng thêm một cái đai mới để máu ngưng chảy. Anh chỉ mang có một bịch máu và đã dùng nó cho người bạn Việt, nên anh không có gì để truyền cho Cunningham. Từ đó về sau, Walton luôn mang theo nhiều túi máu trong bất ỳ cuộc hành quân nào.
Khi chiếc Kingbee đáp xuống một bịnh viện nhỏ của Hoa Kỳ tại Phú Bài, Cunningham được mang ra khỏi trực thăng, gần như lõa thể. Anh nhớ vài người bác sĩ nói dây đai quá cao. Anh bị bắn thủng bên trên đầu gối và họ lại lo lắng cái đai bị cột quá cao. Lúc Walton và người toán viên Việt mang người lính Việt bị thương vào trong bịnh viện, một người nào đó nói với Walton, nơi nầy không nhận chữa thương cho người Việt. Walton bảo với họ phải cứu người bạn Việt của anh, hay, nơi nầy sẽ biến thành địa ngục.
Đối với Walton, vở kịch vẫn chưa chấm dứt. Khi họ mang Cunningham vào bên trong, mạng sống anh như chuông treo mành vì mất quá nhiều máu, và bị chấn thương khi mổ xẻ. Một trong mấy tay bác sĩ trẻ lại bị bối rối. Anh ta chưa bao giờ gặp một người lính tác chiến dơ dáy, đầy mồ hôi, mới từ chiến trường về, cứ đứng cạnh bên, soi mói về nghề nghiệp của anh ta. Khi áp huyết của Cunningham xuống quá thấp, đến nổi họ không thể chuyền nước biển vào được, Walton bảo viên bác sĩ cắt thẳng vào gân, cho gân lòi ra, gắn ống thông vào và may lại. Viên bác sĩ biết rằng người y tá thám sát sẽ không rời bỏ chỗ nầy.
Tối hôm đó, sau khi Walton tắm rửa và cạo râu, anh chơi xì phé trong câu lạc bộ trại. Vì thuận tay trái, nên khi Walton thẳng ván bài, tay phải anh giữ mấy lá bài. Khi anh đặt những lá bài xuống bàn, một người thấy cổ tay phải của anh có một vết cắt còn mới. Họ hỏi Walton tại sao lại có vết thương nầy? Walton bối rối vì vết thương nên phải tạm ngưng đánh bài. Hầu hết những người chơi bài là lính thám sát hay những tay ngồi trên chiếc phi cơ quan sát (những người nầy từng là nhân viên nhảy toán). Cuối cùng, Walton cho biết trong lúc bắn nhau với tên lính Bắc Việt, cái tên đã làm người lính đoạn hậu bị thương, một viên đạn AK chạm vào cổ tay của Walton khi anh xoay người và giết chết hắn. Tất cả mọi người ngồi im lặng trong nhiều giây, ngạc nhiên khi biết còn chút xíu là anh bị bắn và may mắn là viên đạn đã không làm anh bị thương nặng. Walton chỉ nhún vai, và tiếp tục chơi bài.
Sáng sớm ngày chủ nhựt, nhiều người lính Mũ Xanh trong trại Phú Bài lái xe tới bịnh viện thăm Boggs, Cunningham, và người lính Việt. Cunningham đang ngủ, nhưng Boggs muốn trở về đơn vị, mặc dầu trên mặt anh, trên hai tay, và trên ngực có nhiều miếng băng. Họ mang cho anh chai rượu whiskey và nói về trận đánh ngày hôm qua. Boggs để ý đến nỗ lực của Walton, khả năng chịu đau mà không than van của Cunningham, lòng dũng cảm và hào hùng của viên phi công Kingbee, Đại Úy Thịnh.
Trong ngày, Đại Tá Jack Warren chỉ huy trưởng C&C và trại FOB 4 cùng nhiều sĩ quan SOG ghé thăm những người sống sót. Họ hỏi Cunningham cần gì. Họ để lại thuốc lá cho anh, chai Gordon Martin. Một y tá của trại FOB 1 tặng anh một hộp quẹt máy. Đó là một trong vài vật mà Cunningham mang về quê hương khi anh rời bỏ Nam [Nam Việt Nam].
* * *
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2002, Cunningham nói,
- “Anh có thể làm tất cả mọi điều đúng hay sai mà không có ảnh hưởng gì cả. Cuộc sống chỉ sai biệt có vài phân.”
Ngay buổi sáng tại thung lũng A Shau, anh ta mang dư thêm một túi lựu đạn, đúng theo chỉ thị của Boggs. Nó nằm ngay dây ba chạc, hơi thòng xuống dưới chân. Viên đạn 20 ly cắt đứt chân anh, chỉ cách túi lựu đạn có vài phân.
- “Nếu viên đạn đó trúng túi lựu đạn, Pete [Boggs] và tôi [Cunnningham]đã mất mạng, ngay trong thung lũng A Shau.”
Sài Gòn nhỏ ngày 12 tháng 7 năm 2014
bietdongquan.com
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Một Ngày Trong Thung Lũng A Sau
Nguyễn Văn Phúc
Lời nói đầu:
Bài dịch từ chương Bốn “One Day in the A Shau Valley” trong tác phẩm Across the Fence của John Stryker Meyer. Tác giả John Stryker Meyer là một người lính Mũ Xanh trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Trong chương Bốn, tác giả thuật lại một công tác của toán ST Louisiana, nhảy vào thung lũng A Shau, phía Tây Huế. Toán thám sát sáu người chạm địch sau khi xuống bãi và di chuyển vào trong một ngọn đồi. Câu chuyện cho thấy tấm lòng của người lính Mũ Xanh Hoa Kỳ, không rời bỏ bạn cùng toán (Việt - Mỹ) và hành động anh hùng của một phi công miền Nam Việt Nam.
Wilbur “Pete” Boggs g̣ặp việc rắc rối: anh bị thiếu mất một toán viên, và mấy ông lớn ở Phòng 3 lại vừa chỉ định một mục tiêu trong thung lũng A Shau, được gọi là vùng A Shau 2. Giữa tháng Bảy, trưởng toán Boggs, mang nguyên toán ST Louisiana đi thực tập để cho toán làm quen để nhảy vào vùng hành quân. Mọi người cứ tưởng đây chỉ là một cuộc thực tập bắn đạn thật, huấn luyện về di hành, canh gác đêm trong lúc ở bên ngoài trại. Nào ngờ, toán lại chạm cả đám du kích VC và cả đám lính Bắc Việt. Trận đánh xảy ra rất nhanh, và hai bên đều có người chết. Vì thế, viên toán phó do dự, không chắc sẽ ở lại với toán. Gần cuối tháng Bảy, một trong những viên hạ sĩ quan kỳ cựu trong phòng truyền tin tại căn cứ FOB 1 hỏi người toán phó nếu anh ta muốn chuyển về làm phòng vũ khí hay không? Anh ta đã nhận lời.
Ngày hôm sau, 1 tháng Tám, Boggs bay thám sát mục tiêu, và đã tìm thấy một bãi đáp chính và cả bãi đáp phụ. Khi trở về trại, Boggs được giới thiệu với Tom Cunningham, người toán phó mới.
Cũng giống như tất cả các người lính Mũ Xanh (Lực Lượng Đặc Biệt) tại trại FOB 1; Tom Cunningham đã tình nguyện gia nhập LLĐB, tình nguyện sang Nam Việt Nam, tình nguyện nhảy toán. Tuy vậy, con đường đi đến nhảy toán và là một người lính thám sát của SOG hơi kỳ lạ.
Khi đang theo học khóa bộ binh trung cấp tại trại Ft. Ord, California, anh được lịnh tiếp tục theo học trường đào tạo sĩ quan, nhưng tiêu chuẩn học khoá này bị thay đổi. Lục Quân Hoa Kỳ báo cho những người đang dự tuyển vào OCS là họ lại phải qua một kỳ thi tuyển mới, theo những tiêu chuẩn mới. Theo như Cunningham, có vẻ như Lục Quân đã thay đổi điều lệ để có thể mang thêm lính sang Việt Nam, thay vì sĩ quan. Khi luật được công bố, Cunningham là ṃôt trong khoảng hai trăm người lính đi đến trung tâm tuyển mộ SF, tình nguyện gia nhập vào LLĐB. Trong số hai trăm người đó, chỉ có anh và sáu người khác được chọn.
Sau khi học xong giai đoạn một, và khi đang theo học gia đoạn hai, anh được huấn luyện để trở thành một nhân viên truyền tin đặc biệt. Ngay khi ấy, Cunningham lại mê thích chất nổ, vậy là anh xin chuyển học về chuyên viên chất nổ.
Cùng thời gian, anh quen với John Walton, y tá nhảy toán. John là dân Bentonville, Arkansas. Walton được gởi sang Việt Nam trong khi Cunningham đang lo hoàn tất chương trình huấn luyện của giai đoạn ba.
Khi đến vịnh Cam Ranh, Cunningham được cho biết có lịnh gởi anh về một đơn vị bộ binh. Anh không thích đơn vị này. Người sĩ quan liên lạc của LLĐB cho anh biết chỉ có một điều duy nhất để được chọn vào lính LLĐB là nhảy toán. Cunningham theo học khóa nhảy toán tại MACV Recondo ở Nha Trang. Khóa huấn luyện thật là vô giá, giúp cho những người lính mới làm quen với đất nước mới và những kinh nghiệm về rừng rậm. Khi những cán bộ trong trường biết Cunningham và vài người lính LLĐB khác sẽ về trại Phú Bài, Huế; họ hướng dẫn thêm cho mấy người nầy về những kinh nghiệm lùng, trốn, kỹ thuật tác chiến. Cunningham bay đến Đà Nẵng, rồi cùng mấy người bạn leo lên chiếc trực thăng H-34 Sikorsky đến Phú Bài. Chuyến bay đến Phú Bài thật khó quên. Mấy tay phi công Việt Nam biết Cunningham và bạn anh là lính mới, vừa đến Việt Nam, nên họ bay cao cách con đường lộ có vài thước, bay thật sát trên xe nhà binh, đường lộ, đồi cao dọc theo trại FOB 1. Mục đích chính là doạ mấy anh lính mới này.
Sau khi bay qua khỏi phi trường Phú Bài và trung tâm huấn luyện của Sư Đoàn 2 Bộ Binh dọc theo phía đông quốc lộ 1, chiếc H-34 đột nhiên bay lên cao và bất ngờ bẻ lái thật mạnh về hướng phải, làm cho cửa phải trực thăng đối mặt thẳng với mặt đất. Trước khi mấy tay lính mới kịp hoàn hồn, chiếc Kingbee bay thẳng ngay vào trại FOB 1, khiến đôi khi càng trực thăng đụng vào mấy cành cây trong trại. Chiếc Kingbee quẹo phải thật nhanh thêm một lần nữa và đáp ngay xuống chỗ đáp.
Boggs dẫn Cunningham đi quanh trại và giới thiệu với các toán viên anh sẽ là người mang máy truyền tin cho toán. Cunningham nói chuyện với người thông dịch viên của toán và gặp hết các toán viên người Việt. Trại Phú Bài là tất cả những gì mà Cunningham có thể tưởng tượng. Boggs mang anh tới Phòng 4, cho Cunningham nhận vũ khí và quân dụng,và cho biết toán sẽ đi hành quân sớm – rất sớm. Cunningham ngạc nhiên,vì anh chưa có đủ thì giờ làm quen và nghỉ ngơi chút đỉnh. Anh im lặng không nói vì tưởng đó là cách làm việc của trại FOB 1 nầy. Buổi trưa, anh gặp lại người bạn John Walton, viên y tá của toán ST Louisiana. Boggs cho hai người bạn biết anh muốn toán được đưa vào mục tiêu vào ngay buổi chiều tối, ngay khi mặt trời vừa lặn. Boggs cho họ biết công tác khó ăn và bảo họ mang đầy đạn và mang dư thêm lựu đạn. Thời tiết xấu đã cản trở công việc. Cả hai ngày sau, các toánvẫn chưa được thả xuống. Sáng ngày 3 tháng 8, tại Phòng 3, một buổi thuyết trình được tổ chức chuẩn bị đợt thả toán vào buổi sáng.
Người sĩ quan thuyết trình cho biết nhiều chi tiết và chi tiết mục tiêu họ sẽ vào. Cunningham luôn về những công tác không thành công trong những lần trước, khi các toán khác được nhảy vào khu vực nầy. Boggs lại nghĩ họ sẽ là may mắn nếu họ xuống được mục tiêu. Nếu họ xuống được, toán có thể sẽ chạm địch rất nhanh, ngay khi toán vừa chạm đất.
Vì núi quá cao, bầu trời chói sáng và nắng đang lên, các viên phi công cho biết họ sẽ thả toán ST Louisana bằng ba chiếc trực thăng, cứ hai người lính cho một chiếc Kingbee. Khi chiếc H- 34 thứ ba đang bay xoắn vòng để xuống nhanh dưới mặt đất, người xạ thủ cho Walton biết chiếc trực thăng đầu đang súng cá nhân bắn. Walton ngạc nhiên tại sao họ tiếp tục đáp xuống khi biết họ đang bị địch nhắm bắn. Riêng với Cunningham ngồi trong chiếc thứ hai, mọi việc rất bình thường. Anh chỉ nghĩ Boggs sẽ yêu cầu không quân bay vòng trên vùng lâu hơn bình thường, vì đây là một mục tiêu A Shau.
Mấy chiếc H-34 bỏ toán ST Louisiana xuống ngay một triền núi, với một bên là nhiều cây rậm rạp, và chung quanh đồi là cánh đồng trống; và bên kia là khu rừng. Boggs cho toán di chuyển thẳng vào đồi. Walton đi trước một người lính Việt giữ mặt sau của toán, trong khi Cunningham đi sau Boggs trong đội hình. Vì Walton vẫn còn là lính mới, anh chỉ mới đi có hai hay ba lần công tác, nên anh giữ câu hỏi trong lòng, không nói ra. Nhưng anh tự hỏi tại sao họ lại đi vào đồi cây thay vì vào trong rừng.
Toán vừa đến đồi, Boggs bảo Cunningham liên lạc vô tuyến báo cho biết là toán xuống diạ điểm an toàn. Các phi cơ bay yểm trợ đang rời khỏi mục tiêu. Khi toán ST Louisiana di chuyển xa khỏi đồi, Cunningham kinh ngạc vì anh nhìn thấy nhiều bẫy và hầm chông. Anh nghĩ rằng, bẫy và hầm chông được dành riêng cho các toán thám sát. May mắn, chúng đã quá cũ, và toán nhìn thấy rõ, từng cái một. Toán tiếp tục di chuyển thêm nhiều phút nữa trước khi dừng chân trong một khu cây cối mọc đầy, và rậm. Cunningham gặp khó khăn khi liên lạc với chiếc Convey đang bay khá xa. Sau cùng, anh liên lạc được với một phi cơ với danh hiệu “Alexander”, trước khi một đơn vị cộng quân di chuyển ngang qua một con đường mòn, cắt ngang đồi.
- “Tại sao anh nói nhỏ như vậy?” Alexander hỏi.
Trong khi Cunningham nói thật nhỏ vào máy PCR-25, Walton quan sát lại ngọn đồi. Anh thấy người lính đi đầu ra thủ hiệu, báo có nhiều lính Bắc Việt bên kia khu rừng, ngược hướng ngay bãi đổ quân của toán. Walton ngồi phía sau với người lính đoạn hậu; cả hai đều ngạc nhiên khi biết có nhiều lính Bắc Việt di chuyển dọc theo con đường mòn.
Tiếng động làm cho người lính đoạn hậu chú ý. Anh lo quan sát về khu vực bên tay phải. Walton ngồi phía trước anh ta, trong lúc bốn người còn lại của toán tản đều ra phía trước. Trong lúc người lính đoạn hậu tiếp tục quan sát bên phải đồi, Walton nhìn thấy một bụi rậm đang chuyển động cách chừng mười thước. Một trong những tên lính Bắc Việt bò lên con đường mòn. Khi Walton đang còn loay hoay với cây CAR-15, thì tên lính Bắc Việt đứng lên với cây AK-47 cầm trên tay. Mặt hắn nhìn giống như con mèo Cheshire. Tên lính địch bắn nguyên tràn khi Walton vẫn còn lê súng.
Bốn viên đạn của tên lính Bắc Việt bắn trúng người lính đoạn hậu, làm anh bị thương nặng. Đạn từ cây súng CAR-15 bắn trúng tên địch, khiến cho thân người hắn bay ngược vào bên trong rừng. Khi cơn nguy hiểm vừa qua đi, Walton lo băng bó cho người bạn Việt, anh kéo bạn lên bên trên đồi, đến ngay chỗ Boggs, làm cho anh ổn định và truyền một bịch máu cho bạn mình. Walton xin phép Boggs bò đến xác tên địch để tìm tài liệu và những tin tức cho tình báo, nhưng Boggs khôn ngoan từ chối. Vài phút sau, làn sóng tấn công đầu tiên của quân địch đánh thẳng vào toán thám sát. Toán sáu người đẩy lùi địch mà không có thương vong.
May mắn cho toán, hai chiếc trực thăng hỏa lực của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù được điều động từ một mục tiêu ở Nam Việt Nam sang thung lũng A Shau. Việc nầy làm cho toán được rảnh tay vài phút. Boggs giựt một trái lựu đạn khói, điều khiển trực thăng đánh vài đợt quanh vị trí phòng thủ. Cứ mỗi khi trực thăng vừa đánh và bay qua, quân địch ngay sườn đồi ngồi chổm dậy và nhắm bắn vào toán. Cunningham bò lên bên trên đồi để nhìn cho rõ hơn. Đây là lần đầu tiên anh đụng với lính Bắc Việt. Đạn của quân địch làm cho đất cát bắn tung vào mặt anh nhiều lần. Rồi Cunningham nhận rõ đây không phải là điều hay, nên anh bò trở xuống, thật nhanh. Sau vài lần bắn phá, hai chiếc trực thăng hết đạn, và bay trở về căn cứ ở Phú Bài. Cunningham đùa cợt, hỏi các tay súng của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù, có muốn đáp xuống để kéo toán lên. Họ từ chối và cho biết trực thăng trên đường bay.
Vài phút sau, Cunningham được báo cho biết một chiếc khu trục A-1E Skyraiders (Spads) đang vào vùng. Boggs đã xin thả bom napalm. Walton đang ngồi bên phải Cunningham, và anh vừa băng xong vết thương cuối cho người lính Việt. Cả hai đang ngồi ngay khoảng rừng thưa. Boggs điều khiển thả bom, sẽ ngay chỗ trống và chạy xuống ngay cái gò, chỗ toán Louisiana đang nằm. Walton không lo lắng gì cả. Từ đằng xa, anh có thể thấy chiếc khu trục bay đến, thấy trái bom bay từ trên cao xuống đất. Sau khi bom chạm đất và nổ, một miếng miểng bom nhỏ bay thẳng đến gò, ngay chỗ Walton và toán đang ngồi. Miểng bom ngừng ngay giữa hai chân Walton. Anh ngồi đấy, liếc miểng sắt còn nóng hổi cả mấy giây. Cunningham ngạc nhiên vì trái bom napalm thả quá gần toán, nhưng lửa và miểng bom không bay ngay vào anh, dù anh và Walton chỉ ngồi cách nhau có vài thước. Mấy trái bom làm cho Cộng quân chậm lại, nhưng chúng sắp sửa tấn công tiếp, lần nầy ngay bên trái Cunningham. Vẫn chưa có ai bị thương. Boggs lo lắng vì vị trí của người lính đoạn hậu bị bỏ trống, nên anh cho lịnh Walton trám vào nơi ấy. Khi Walton bò đi, người lính Việt thế vào chỗ anh, ngay kế bên Cunningham.
Walton di chuyển xa khỏi chu vi phòng thủ. Anh bò được khoảng mười mét thì địch tấn công đợt thứ hai. Toán thám sát vẫn giữ vững được vị trí. Khi Cộng quân mở cuộc tấn công lần thứ ba, Boggs hét to, cho biết toán sắp bị tràn ngập. Walton không thể nhìn thấy Boggs, Cunningham và người lính Việtvì cây rừng quá dầy khiến anh chỉ nhìn xa được chừng nửa thước. Nhưng lại hay vì Walton chỉ căn cứ vào sự chuyển động của lá cây là biết quân địch đang tràn tới.
Ngay đợt tấn công đó, Boggs gọi không yểm. Anh yêu cầu máy bay đánh thẳng xuống toán để chận đứng quân địch. Mấy loại đạn 20 ly xé tan đám Cộng quân, nhưng đạn cũng bay thẳng vào vị trí toán. Cunningham đang ở vào tình thế ngặt nghèo và không thể làm được gì cả. Khi biết được thì anh đã bị bắn trúng hai phát. Một viên xuyên thủng đùi mặt; viên kia bay vào máy truyền tin. Máy bị phá hư, nhưng nó đã cứu anh. Boggs bị miểng của máy làm bị thương. Người lính Việt thế chỗ cho Walton chết ngay tức khắc. Mấy viên đạn 20 ly làm nổ lựu đạn, mấy trái đạn khói, và lựu đạn cay mà người lính Việt mang trên người. Boggs bị trúng thêm nhiều miểng đạn khác, làm cho anh bị nửa mê nửa tỉnh.
Đợi không kích đã ngăn chặn được đà tấn công của Cộng quân nhưng cũng làm cho toán bị khói cay, từ lựu đạn, và từ mấy trái bom napalm và khói súng bao trùm lên người. Walton nhanh chóng kiểm soát vết thương của Boggs và Cunningham. Anh thấy viên đạn 20 ly bắn thủng chân mặt của Cunningham, chỉ còn lại một ít thịt giữ cho chân còn liền nhau. Anh lấy cái đai xanh cầm máu cột chặt vết thương, và dùng con dao xoáy quanh phần đùi để giữ không cho máu tràn ra. Walton cũng giúp chữa cho Cunningham bị cháy cổ họng vì lựu đạn cay.
Biết được máy truyền tin PRC-25 bị hư, Walton móc trong túi chiếc máy truyền tin cấp cứu với tần số cao URC-10, và gọi cho Covey. Anh báo cáo:
- Một chết, ba bị thương và nếu Covey muốn mang họ ra, cần phải làm thật gấp.
Walton không có thì giờ để suy nghĩ khoảng cách ngắn, khoảng 10 m, đã cứu mạng anh.
Cunningham kiểm soát lại khắp người để biết chắc là mình còn sống hay đã chết. Người lính Mũ Xanh nầy có cách thử lạ kỳ. Anh la to. Tiếng la giống như từ nơi xa, thật xa, nhưng nhò thế anh biết mình vẫn còn sống. Tiếng la cũng làm cho Cunningham tỉnh luôn. Anh có lại cảm giác bình thường. Cunningham biết anh cần phải tự lo cho mình, càng cố gắng nhiều càng tốt, cho mình và cho những người khác.
Trong khi Walton lo cứu Cunningham, Covey điều khiển không yểm quanh vị trí toán. Walton dùng máy liên lạc và báo cho Covey biết là hai trong ba người bị thương rất nặng và yêu cầu được triệt thoái. Trên chiếc Covey, Pat Walkins bảo Walton di chuyển những người còn lại của toán đến gần một trảng trống ngay sườn núi.
Tại Phú Bài, trong trại FOB 1, hầu như tất cả mọi người lính Mũ Xanh vây quanh các máy truyền tin PRC-25 nghe Covey nói chuyện với toán thám sát, hay trong phòng trung tâm truyền tin, lắng nghe thêm nhiều tần số khác. Khi những báo cáo đầu được Covey báo về tình trạng của toán, toán Louisiana trông có vẻ bất hạnh.
Tại thung lũng A Shau, những cuộc không tập giúp cho toán được rảnh tay đôi chút, giúp cho Walton và người toán viên Việt còn lại mang các người bị thương đến gần trảng trống hơn. Walkins cho Walton biết anh sẽ điều khiển mấy chiếc phản lực F-4. Chiếc Kingbee đầu tiên sẽ xuống bốc người bị thương nặng nhứt, chiếc thứ hai và thứ ba sẽ giúp triệt thoái những người còn lại.
Walton và người bạn Việt mang người lính đoạn hậu bị thương ra trảng, trong khi Boggs dìu Cunningham. Khi Cộng quân vừa nghe tiếng trực thăng Kingbee, trận đánh lại sôi động lên. Người lính Việt bị thương được đặt ngay trảng trống, cỏ chỉ cao chừng một thước. Chung quanh đất, bụi bay mù mịt vì đạn của địch bắn vào. Đại Úy Thịnh lái chiếc trực thăng đầu và đáp xu6óng ngay vị trí. Càng của trực thăng chỉ cách người lính vài thước.
Cunningham chỉ cảm thấy đau ba lần: lần đầu khi anh bị trúng đạn. Lần thứ hai, anh cảm thấy như một trong những cái cồng to lớn của người Tàu, bị dội tới dội lui, trong âm thanh vang vọng. Lần thứ ba khi Boggs dìu anh chạy tới bãi triệt thoái thì chân bị thương của anh lại bị kẹt vào thân cây. Anh liền hiểu tại sao người ta nói cơn đau có màu sắc. Cunningham thấy ánh sáng nhiều sắc. Lần cuối xảy ra ngay tại chiếc Kingbee, khi Boggs giúp Cunningham bước lên càng trực thăng. Boggs phải quay người lại để bắn vào đám quân địch đang tràn tới. Vì không muốn bị trúng thương tiếp, nên anh dùng phần còn lại của chân mặt, cà chân mình, cố gắng để leo lên tàu. Anh bò đến đuôi tàu. Cuối cùng anh nghĩ mình đã được an toàn.
Cùng thời gian, Walton biết được chiếc Kingbee thứ hai không bay thẳng xuống bãi bốc như chương trình đã định, và rằng quân lính Bắc Việt tiếp tục dùng súng cá nhân bắn dữ dội vào Walton, Boggs và người bạn đồng nhiệm Việt dũng cảm. Walton hiểu tại sao kế hoạch triệt thoái cần ba chiếc trực thăng: thời tiết nóng và bãi bốc lại nằm ngay dãi núi trong thung lũng A Shau. Sức nóng và chiều cao của ngọn núi làm giảm sức nâng của trực thăng, đặc biệt là buổi sáng nắng nóng,cũng như người bị thương nặng nhứt là Cunningham và người lính Việt. Walton gọi cho Walkins, hỏi chiếc trực thăng thứ hai đang ở đâu, và Walkins trả lời, viên phi công không dám bay vào bãi bốc bởi vì quân địch bắn rát quá.
Walton cảm thấy đau lòng. Câu hỏi về sức nặng đã làm cho anh phải bỏ lại người bạn Việt đã hy sinh, vì sức nặng của thân anh ta có thể làm cho những người còn sống gặp nhiều khó khăn khi triệt thoái. Walton và người bạn Việt nhìn lên bầu trời, tìm kiếm trực thăng. Chả có chiếc nào. Quân lính Bắc Việt lại tiếp tục tiến thẳng tới ba người lính của toán ST Louisiana đang phơi mình ngoài trảng trống. Walton biết tình hình quá bất lợi.
“Kingbee đang nhào xuống.”
Đó là Đại Uý Thịnh! Trên trực thăng của ông đã chở người bị thương (Đại Uý Thịnh bay chiếc đầu, ông cho tàu quay lại khi nghe tin chiếc trực thăng kia không dám xuống) và Walton biết không có cách nào mà ông có thể kéo họ lên hết được. Nhưng chiếc Kingbee đang bay xoắn vòng, bay thật nhanh xuống, trước khi lơ lửng ngay bãi bốc. Thịnh đáp ngay chỗ những người còn lại của toán ST Louisiana.
Walton và người lính Việt nhấc Boggs lên tàu và nhảy ngay vào cửa sổ bên phải và bên hông trực thăng, bắn vào quân địch, vì thấy một số tên đang chạy đến trực thăng.
Thật quá đúng. Sức nặng của nhiều người làm Thịnh không thể̉ điều khiển trực thăng lên cao. Vì thế ông nhấc bánh sau khỏi mặt đất và bắt đầu bay thẳng xuống đồi, cố gắng làm cho trực thăng bay nhanh, trong khi bọn Cộng quân nhắm bắn vào tàu. Đến phút cuối, Thịnh điều khiển chiếc trực thăng cũ kỹ Sikorsky bay lên khỏi ngọn cây. Nhưng không may, tàu vẫn chưa bay đủ nhanh nên không thể vươn tới độ cao cần thiết để trực thăng bay lên khỏi núi. Đại Úy Thịnh lại chuyển hướng bay thẳng xuống thung lũng. Cuối cùng, máy bay có đủ sức nâng để bay lên khỏi ngọn núi và bay xa thung lũng A Shau.
Vì Cunningham lết, bò trườn lên trực thăng, làm cho máu từ vết thương chảy mạnh. Anh bắt đầu rơi vào trạng thái hôn mê. Walton dùng thêm một cái đai mới để máu ngưng chảy. Anh chỉ mang có một bịch máu và đã dùng nó cho người bạn Việt, nên anh không có gì để truyền cho Cunningham. Từ đó về sau, Walton luôn mang theo nhiều túi máu trong bất ỳ cuộc hành quân nào.
Khi chiếc Kingbee đáp xuống một bịnh viện nhỏ của Hoa Kỳ tại Phú Bài, Cunningham được mang ra khỏi trực thăng, gần như lõa thể. Anh nhớ vài người bác sĩ nói dây đai quá cao. Anh bị bắn thủng bên trên đầu gối và họ lại lo lắng cái đai bị cột quá cao. Lúc Walton và người toán viên Việt mang người lính Việt bị thương vào trong bịnh viện, một người nào đó nói với Walton, nơi nầy không nhận chữa thương cho người Việt. Walton bảo với họ phải cứu người bạn Việt của anh, hay, nơi nầy sẽ biến thành địa ngục.
Đối với Walton, vở kịch vẫn chưa chấm dứt. Khi họ mang Cunningham vào bên trong, mạng sống anh như chuông treo mành vì mất quá nhiều máu, và bị chấn thương khi mổ xẻ. Một trong mấy tay bác sĩ trẻ lại bị bối rối. Anh ta chưa bao giờ gặp một người lính tác chiến dơ dáy, đầy mồ hôi, mới từ chiến trường về, cứ đứng cạnh bên, soi mói về nghề nghiệp của anh ta. Khi áp huyết của Cunningham xuống quá thấp, đến nổi họ không thể chuyền nước biển vào được, Walton bảo viên bác sĩ cắt thẳng vào gân, cho gân lòi ra, gắn ống thông vào và may lại. Viên bác sĩ biết rằng người y tá thám sát sẽ không rời bỏ chỗ nầy.
Tối hôm đó, sau khi Walton tắm rửa và cạo râu, anh chơi xì phé trong câu lạc bộ trại. Vì thuận tay trái, nên khi Walton thẳng ván bài, tay phải anh giữ mấy lá bài. Khi anh đặt những lá bài xuống bàn, một người thấy cổ tay phải của anh có một vết cắt còn mới. Họ hỏi Walton tại sao lại có vết thương nầy? Walton bối rối vì vết thương nên phải tạm ngưng đánh bài. Hầu hết những người chơi bài là lính thám sát hay những tay ngồi trên chiếc phi cơ quan sát (những người nầy từng là nhân viên nhảy toán). Cuối cùng, Walton cho biết trong lúc bắn nhau với tên lính Bắc Việt, cái tên đã làm người lính đoạn hậu bị thương, một viên đạn AK chạm vào cổ tay của Walton khi anh xoay người và giết chết hắn. Tất cả mọi người ngồi im lặng trong nhiều giây, ngạc nhiên khi biết còn chút xíu là anh bị bắn và may mắn là viên đạn đã không làm anh bị thương nặng. Walton chỉ nhún vai, và tiếp tục chơi bài.
Sáng sớm ngày chủ nhựt, nhiều người lính Mũ Xanh trong trại Phú Bài lái xe tới bịnh viện thăm Boggs, Cunningham, và người lính Việt. Cunningham đang ngủ, nhưng Boggs muốn trở về đơn vị, mặc dầu trên mặt anh, trên hai tay, và trên ngực có nhiều miếng băng. Họ mang cho anh chai rượu whiskey và nói về trận đánh ngày hôm qua. Boggs để ý đến nỗ lực của Walton, khả năng chịu đau mà không than van của Cunningham, lòng dũng cảm và hào hùng của viên phi công Kingbee, Đại Úy Thịnh.
Trong ngày, Đại Tá Jack Warren chỉ huy trưởng C&C và trại FOB 4 cùng nhiều sĩ quan SOG ghé thăm những người sống sót. Họ hỏi Cunningham cần gì. Họ để lại thuốc lá cho anh, chai Gordon Martin. Một y tá của trại FOB 1 tặng anh một hộp quẹt máy. Đó là một trong vài vật mà Cunningham mang về quê hương khi anh rời bỏ Nam [Nam Việt Nam].
* * *
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2002, Cunningham nói,
- “Anh có thể làm tất cả mọi điều đúng hay sai mà không có ảnh hưởng gì cả. Cuộc sống chỉ sai biệt có vài phân.”
Ngay buổi sáng tại thung lũng A Shau, anh ta mang dư thêm một túi lựu đạn, đúng theo chỉ thị của Boggs. Nó nằm ngay dây ba chạc, hơi thòng xuống dưới chân. Viên đạn 20 ly cắt đứt chân anh, chỉ cách túi lựu đạn có vài phân.
- “Nếu viên đạn đó trúng túi lựu đạn, Pete [Boggs] và tôi [Cunnningham]đã mất mạng, ngay trong thung lũng A Shau.”
Sài Gòn nhỏ ngày 12 tháng 7 năm 2014
bietdongquan.com
Sinh Tồn chuyển