Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Một lần chào cuối cùng của đời quân ngũ
8 giờ sáng ngày 28 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây Nam của bộ tư lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ một pháo đội 105 ly của Sư Ðoàn 3.
Với tinh thần đó, tôi muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con ngày 29 Tháng Ba, 1975 tại Ðà Nẵng.
Sau khi liên lạc với vị pháo đội trưởng để bàn hoạch phương thức bảo vệ pháo đội, tôi ra lệnh, giao nhiệm vụ, chỉ định vị trí cho từng đại đội, ban chỉ huy của tiểu đoàn ở gần pháo đội. Khoảng 12 giờ trưa hôm đó, vị đại úy pháo đội trưởng báo cho tôi biết là họ được lịnh rút lui sau. Tôi không thắc mắc vì pháo binh luôn luôn ở sau để yểm trợ. Tuy nhiên, tôi ra lệnh cho đại úy trưởng ban 3 của tôi gọi về tiểu khu hỏi xem chúng tôi có theo họ để bảo vệ súng không?
2 giờ 30 chiều hôm đó, sĩ quan ban 3 của tôi báo cho tôi biết là ban chỉ huy tiểu khu đã thông báo là dời về Non Nước. Lúc này, tôi có phần bi quan vì theo dõi tin tức qua máy trên các tần số của các đơn vị ở Vùng I mà chúng tôi có trong đặc lệnh truyền tin.
4 giờ chiều, tôi hoàn toàn không liên lạc được với Liên Ðoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành chỉ huy mà tiểu đoàn tôi trực thuộc. Tiểu khu cũng biệt vô âm tín. Tôi gọi về trung tâm hành quân của Quân Ðoàn I cũng như của Sư Ðoàn 3, họ quá bận rộn với nhiều đơn vị nên khó chen vào được.
Tôi mời các đại đội trưởng và sĩ quan tham mưu đến cho biết tình hình và bàn kế hoạch. Bây giờ tôi không còn ai chỉ huy nữa nên tôi quyết định rút tiểu đoàn về Hội An để vào tiểu khu xem sự việc đồng thời đó là con đường tương đối an toàn và gần nhất để ra Ðà Nẵng.
Ðơn vị ra đến quốc lộ 1 thì dân, lính họ chạy về Ðà Nẵng quá sức tưởng tượng. Họ đang chạy giặc. Tình hình quá bi đát, một thoáng suy nghĩ trong đầu, tôi ra lệnh tất cả dừng lại ở trong làng cách quốc lộ khoảng 100 mét, chờ lệnh tôi vì tôi sợ lính ra đây thấy cảnh đó thì bỏ đơn vị về lo cho gia đình.
Tôi tiến sát quốc lộ 1 để xem tình hình thì gặp Trung Tá Nguyễn Tối Lạc, quận trưởng Ðức Dục. Ông ta cho biết tất cả các chi khu của Quảng Nam đều bỏ cả rồi, tiểu khu thì về Ðà Nẵng không liên lạc được. Ông ta còn cho biết thêm là Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh Sư Ðoàn 3, vừa cho lệnh ông là thuộc Ðại Tá Vũ Ngọc Hướng, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 3. Ðại Tá Hướng chỉ huy luôn các tiểu đoàn của Tiểu Khu Quảng Nam nữa. Trung Tá Lạc chỉ còn một người mang máy truyền tin, một người lính bảo vệ thôi.
Tôi đang đứng với Trung Tá Lạc thì một chiếc chiến xa M-48 từ trong đi ra thấy có Ðại Tá Hướng ngồi trên pháo tháp. Ông ta thấy tôi liền cho xe dừng lại (tôi là thuộc quyền của ông lúc ông ta còn là tiểu khu phó Quảng Nam) và hỏi tôi:
- Tiểu đoàn của mày đâu mà mày đứng đây?
Tôi trả lời:
- Tiểu đoàn tôi còn nằm trong làng này, đại tá.
Tay tôi chỉ vào trong làng gần đó.
- Có còn đủ không?
- Còn tương đối nguyên. Chưa đụng trận nào lớn cả mà, chỉ gặp du kích thôi. Bảo đảm đại tá. Chắc đại tá biết tiểu đoàn này rồi mà (tiểu đoàn này 2/3 là lính Biệt Kích Tây Hổ hoàn toàn Quốc Dân Ðảng chống Cộng thứ thiệt mà Ðại Tá Hướng biết lúc ông ta là tiểu khu phó ở đây).
- Tao hiểu. Mày đã nhận lệnh của thiếu tướng chưa? (ý ông nói là Th/Tg Hinh, tư lệnh SÐ3)
- Tôi chưa nhận lệnh trực tiếp của thiếu tướng nhưng đã nghe Trung Tá Lạc nói rồi.
- Tốt. Bây giờ ban chỉ huy tiểu khu không còn ai nữa, mày trực thuộc trung đoàn tao. Mày có tần số của tao chưa?
- Có đầy đủ ở đặc lệnh truyền tin rồi, đại tá. Bây giờ đại tá cho lệnh thế nào?
- Theo lệnh thiếu tướng, mày cho tao tiểu đoàn về Hội An phòng thủ với trung đoàn. Ðến nơi, mày vào gặp tao tại ban chỉ huy tiểu khu để nhận lệnh chi tiết.
Tôi từ giã Ðại Tá Hướng trở lui tiểu đoàn trình bày cuộc nói chuyện và lệnh của Ðại Tá Hướng cũng như Trung Tá Lạc cho các sĩ quan nghe. Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi nói: “Bây giờ chúng ta về Hội An như ý định của chúng ta đã nói. Trên vấn đề quân sự, chúng ta đặt dưới quyền của Ðại Tá Hướng, nếu hữu sự, chúng ta có lực lượng quân sự cùng chiến đấu. Về đó tùy tình hình ta xử trí sau. Tại Hội An, chúng ta có các điểm lợi sau:
1. Về địa thế chúng ta rõ như trong bàn tay.
2. Có kho vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men của Trung Tâm Tiếp Vận Quảng Nam của tiểu khu chúng ta. Chúng ta sẽ sử dụng nếu chiến đấu nhiều ngày.
3. Nếu, có lính chết hay bị thương thì bệnh viện Hội An có phương tiện cấp cứu, có bác sĩ Trung Ðoàn 2 và y tá.
4. Liên tỉnh lộ 13 C từ Ðà Nẵng đi Hội An tương đối an toàn để chúng ta về Ðà Nẵng.
Tôi đã trình bày những điểm lợi hại cho các sĩ quan rõ, tôi nói tiếp: “Nếu phải bỏ Ðà Nẵng như ở Huế và Vùng II thì tôi sẽ vào trình diện quân đoàn để được giúp đỡ vì tiểu đoàn mình còn nguyên chưa bị tổn thất thì thế nào quân đoàn cũng lo cho mình vào Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu. Nếu tận cùng mình dùng quân số đông để áp đảo hải quân, yêu cầu được chở vào Nam chiến đấu.”
Bây giờ đã 6 giờ chiều, mặc dù còn ánh nắng mặt trời, dân chúng cũng như binh sĩ chạy về Ðà Nẵng quá nhiều nên di chuyển đơn vị lớn như thế rất khó khăn, dễ bị thất lạc. Tôi ra lệnh cho các đại đội trưởng, trung đội trưởng phải bám sát binh sĩ của mình đừng cho thất lạc. Nếu thất lạc, họ phải đến điểm tập trung là Ty Công Chánh Hội An. Ðó là điểm tập trung của tiểu đoàn, đừng vào tiểu khu. Tôi căn dặn rất kỹ các đại đội phải ban hành lệnh đến từng người lính để nắm rõ điểm tập họp.
6 giờ 30, tiểu đoàn bắt đầu hướng về Hội An. Lính Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, Tiểu Khu Quảng Ngãi, Quảng Tín kéo về như kiến cỏ. Họ không còn người chỉ huy nên hoàn toàn vô trật tự, vô kỷ luật, chỉ cần một hành động vô ý thức làm chạm tự ái, họ có thể bắn mình một cách dễ dàng.
Tôi đến được Hội An lúc 12 giờ đêm. Tại điểm tập trung, hai đại đội đầu đã có mặt. Tôi ra lệnh phòng thủ và đợi tiểu đoàn đến cho đầy đủ. Tôi vào tiểu khu để gặp Ðại Tá Hướng nhận lệnh.
12 giờ 30, tiểu đoàn đã đến đầy đủ. Ðại úy ban 3 tiểu đoàn cho tôi biết quân số lúc đó là 470 người. Các sĩ quan có đủ, có 20 thường dân là thân nhân của các quân nhân của tiểu đoàn theo họ (họ hy vọng nếu có thể vào Sài Gòn thì họ cùng tiểu đoàn vào Nam được dễ dàng hơn) vì lúc ở Ðiện Bàn, các gia đình này ở đó nên họ biết có tiểu đoàn về nên đem theo luôn.
Có 50 quân nhân các đơn vị khác thuộc Tiểu Khu Quảng Nam đã thất lạc đơn vị nay muốn theo chúng tôi. Tôi nói với 50 quân nhân này, tôi chấp thuận cho họ ở với tiểu đoàn với điều kiện phải tuyệt đối tuân hành lệnh của các sĩ quan tiểu đoàn, nếu bất tuân, tôi ra lệnh bắn bỏ, nhất là lúc đụng trận. Tôi sẽ cho họ về đơn vị gốc khi tôi gặp đơn vị đó. Tất cả họ đồng ý và tôi phân chia cho các đại đội tác chiến ngay.
Riêng 20 thường dân (trong số này, tôi đã biết họ vì trước đây tôi có đến nhà họ lúc thuận tiện), tôi ra lệnh Trung Sĩ I Thoảng chịu trách nhiệm vì trung sĩ là hạ sĩ quan Ban 5 của tiểu đoàn (trung úy trưởng ban 5 vắng). Ðồng thời tôi giới thiệu T/S I Thoảng cho họ biết và nói: “Bà con là thân nhân của quân nhân các cấp trong tiểu đoàn tôi. Tôi có nhiệm vụ bảo vệ bà con cũng như bảo vệ lính tôi vậy. Nếu đụng trận, bà con nghe lệnh của T/S I Thoảng để được an toàn, đừng chạy lộn xộn mà chết. Tiểu đoàn đến đâu, tôi đem bà con theo đó.” Họ hiểu ý tôi nên rất hoan hỉ.
Thành phố Hội An bây giờ trống vắng, 99% đều bỏ ra Ðà Nẵng lánh nạn. Tiểu đoàn rời Ty Công Chánh Quảng Nam để đến vị trí phòng thủ theo lệnh Ðại Tá Hướng. Ðó là hướng Bắc Hội An trên đường ra Ðà Nẵng. Trước khi đi, tôi còn để lại một tiểu đội, một máy truyền tin do một trung sĩ của ban 2 chỉ huy để đón nhận những người đến muộn.
Tại vị trí phòng thủ mới, tôi quá mỏi mệt, tinh thần căng thẳng. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì Minh (Hạ Sĩ I Minh là người lo công việc hàng ngày cũng như ăn uống cho tôi mà trong quân đội gọi là tà-lọt) bưng đến một tô cháo cùng một ly cà phê sữa đang nóng và nói:
- Mấy ngày nay thiếu tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước không, lo suy nghĩ nhiều, em thấy thiếu tá ốm đó nghen. Thiếu tá ăn tô cháu hầm bồ câu và uống ly cà phê để có sức đánh giặc chứ.
Tôi đang lo lắng, định bảo dẹp đi, nhưng thấy thuộc cấp của mình thương mình, lo cho mình như thế nên không đành và nói:
- Mấy ông kia ăn chưa? Bồ câu đâu mày có?
- Thưa thiếu tá, lúc nãy ở ty công chánh có chuồng bồ câu có lẽ là của ông trưởng ty đã bỏ đi rồi, nên em bắt 4 con. Em biết Ðại Bàng (danh xưng của tôi ở đặc lệnh truyền tin) sẽ rầy, nhưng giờ này có khỏe mới giết được Việt Cộng chứ Ðại Bàng.
- Thôi được, để đó, đừng mắc võng nữa nghe.
Từ sáng đến giờ, tôi chỉ uống nước, không ăn gì ngoài một tô mì gói có đập vào hai hột gà cũng do Hạ Sĩ I Minh làm mà thôi. Cảm thấy đói, hớp mấy miếng cà phê, ăn được gần nửa tô cháo thì nghe tiếng trực thăng. Tôi nhìn ra thì thấy từ hướng Quân Ðoàn I có hai chiếc máy bay bay khá cao. Tôi bảo trung úy sĩ quan truyền tin mở máy qua tần số quân đoàn liên lạc xem sao. Không liên lạc được, mặc dù anh đã có tất cả đặc lệnh truyền tin trong tay, đã liên lạc nhiều tần số và nhiều giới chức có thể đi bằng máy bay, nhưng vô hiệu.
Tôi biết chắc đó là máy bay quân đoàn, nhưng không biết giới chức nào mà thôi. Lúc này, tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi ra lệnh đại úy trưởng ban 3 gọi các đại đội trưởng về họp, đồng thời thu hồi tiểu đội ở ty công chánh trở về tiểu đoàn. Tôi còn ra lệnh cho Ðại Úy Hà Thúc Thuyên đi với một máy, vài lính bảo vệ đến ban chỉ huy tiểu khu xem Ðại Tá Hướng thế nào mà không liên lạc được.
Bây giờ là 2 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975. Ðại Úy Thuyên báo Trung Ðoàn 2 đã âm thầm ra hướng biển để về Ðà Nẵng. Tiểu đội ở Ty Công Chánh đã đến tiểu đoàn mang theo 9 người lính đến muộn. Tôi cho về lại hai đại đội của họ cả. Như thế, giờ này tiểu đoàn có 479 quân nhân tham chiến chưa kể 50 quân nhân các đơn vị khác đi theo.
Sau một hồi bàn thảo của sĩ quan tham mưu và các đại đội trưởng, tất cả quyết định rút về Ðà Nẵng, vào trình diện quân đoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý và trình bày: “Bây giờ còn sớm, chưa được 3 giờ, chúng ta đến chùa Non Nước sẽ gặp đơn vị phòng thủ quân đoàn ở đó. Trời chưa sáng, họ không nhận diện được ta có thể ngộ nhận và bắn lầm. Tôi quyết định 4 giờ sáng chúng ta xuất phát theo đội hình Ðại Ðội 1 đi đầu, Ðại Ðội 3 bên trái, Ðại Ðội 4 bên phải; Ðại Úy Thuyên, tiểu đoàn phó, đi với đại đội này vì có Trung Ðoàn 2 đi ra biển, nếu gặp tiện việc liên lạc hàng ngang tránh ngộ nhận; Ðại Ðội 2 đi sau, ban chỉ huy tiểu đoàn đi giữa, gia đình đi sau ban chỉ huy tiểu đoàn. Trên đường đi, nếu chạm địch, chúng ta phải yểm trợ nhau đưa nhau về Ðà Nẵng. Tất cả, nếu không ai có ý kiến gì khác thì về đơn vị chuẩn bị lên đường khi có lệnh”.
Ðúng 4 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn bắt đầu di chuyển thứ tự theo lệnh như đã phân nhiệm. Trên đường đi, chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chỉ gặp vài du kích bắn lẻ tẻ, vô sự, các đại đội phản ứng nhưng vẫn tiến quân. Gần 9 giờ sáng, đại đội đầu do Trung Úy Thành chỉ huy báo cáo là đã đến Non Nước, gặp đơn vị bạn, đã nhận diện và nói chuyện với nhau. Trung Úy Thành nói là đã gặp một đại úy thủy quân lục chiến đang ngồi trên chiến xa nói là họ được lệnh không cho một quân nhân nào vào Ðà Nẵng mà mang súng, muốn vào phải bỏ súng ở đây. Tôi nghe ngạc nhiên. Lính mà không cho mang súng thì đánh giặc bằng gì, ôm mà cắn hả, lệnh gì kỳ cục vậy!
Tôi nói cho Trung Úy Thành ra lệnh cho binh sĩ đứng tại chỗ, cấm phản ứng để tôi lên tiếp xúc. Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý là các đại đội thu hẹp gần tiểu đoàn, bố trí tại chỗ chờ lệnh và nói chuyện Ðại Úy Thuyên đến gặp tôi. Trên con đường đến gặp đại úy thủy quân lục chiến, tôi suy nghĩ: Tình hình an ninh Ðà Nẵng rất xấu, đã có Việt Cộng cải trang thành lính xâm nhập rồi, nên mới có lệnh đó.
Tôi gặp vị đại úy thủy quân lục chiến và trình bày sự việc để xin được vào Ðà Nẵng. Ông ta dứt khoát và bảo đó là lệnh, không thể sai được. Tôi cũng biết lệnh của quân đội, tôi nói tình lý cho đại úy thủy quân lục chiến và gần như năn nỉ. Ông ta mềm lòng và nói để hỏi lại cấp trên.
Tôi tìm hiểu Thiếu Tá Ðịnh là cấp trên của ông ta vì Thiếu Tá Tá Ðịnh học chung một khóa Bộ Binh Cao Cấp với tôi năm 1973, ngủ chung một phòng, cũng người Huế nên chúng tôi cũng thân nhau. Tôi cũng nói cho ông ta biết là tôi cũng bạn thân với Thiếu Tá Ðịnh, tiểu đoàn trưởng thủy quân lục chiến. Vị đại úy này xác nhận Thiếu Tá Ðịnh là tiểu đoàn trưởng của ông ta (điều này tôi đã biết, nhưng giả như không biết để khỏi chạm tự ái). Ông ta nói chuyện với Thiếu Tá Ðịnh, sau đó trao máy cho tôi để nói chuyện.
Thiếu Tá Ðịnh cho tôi biết quân đoàn đã đi hết, đã bỏ ngõ, thủy quân lục chiến cũng đang tự tìm cách về Sài Gòn, chưa biết tính sao đây. Thế là hết! Tôi trả máy lại cho đại úy thủy quân lục chiến.
Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý gọi tất cả sĩ quan đến gặp tôi. Bây giờ là 9 giờ 30 sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975 tại chùa Non Nước, Ðà Nẵng. Vị đại úy thủy quân lục chiến cũng báo cho tôi biết là tôi được tự do vào Ðà Nẵng. Tôi chỉ nói cám ơn. Chiến xa nổ máy quay đầu chạy lui về Ðà Nẵng có tùng thiết thủy quân lục chiến theo. Thiếu Tá Ðịnh thủy quân lục chiến cũng cho tôi biết không còn phương tiện vào Sài Gòn nữa, chính đơn vị ông ta cũng phải tự lo liệu lấy. Không ai chỉ huy nữa. Hải quân ở Tiên Sa cũng nhổ neo hết rồi.
Tất cả sĩ quan đã có mặt. Tôi trình bày tình hình quân đoàn, hải quân do Thiếu Tá Ðịnh cho biết và chính ông ta cũng không biết phải xử trí như thế nào. Tôi nói:
- Tôi đã cùng quân nhân các cấp trong tiểu đoàn chiến đấu bên nhau bấy lâu nay, nhất là sau Tết cho đến bây giờ, tình hình chiến sự sôi động, gian lao khổ cực cùng anh em. Tôi đã đoán được tình hình, cố gắng đưa tiểu đoàn về đây để được cùng nhau vào Sài Gòn tiếp tục chiến đấu. Nhưng bây giờ, sự việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta, tôi rất đau khổ về sự việc này.
Tôi cũng kể về sự tiếp xúc của tôi và Thiếu Tá Ðịnh thủy quân lục chiến, sự suy luận của tôi, sự hiểu biết về tình hình của tôi cho tất cả nghe, và tôi nói tiếp:
- Không nên tập trung cả đại đội, sợ bị tấn công bất thường, chỉ từng trung đội, giải thích cho họ hiểu, thông cả tìm cách vào Sài Gòn hoặc về gia đình tùy ý. Quyền chỉ huy bây giờ tuy nghi các anh lo liệu. Nếu ai về nhà thì vũ khí nên phá hủy đừng để vào tay Việt Cộng. Các bạn tự do thi hành theo ý mình, điều cần nhất là phải an ủi, giải thích cho lính hiểu tâm trạng của chúng ta bây giờ.
Có nhiều người lưỡng lự chưa muốn đi. Lúc này, tôi như cái xác không hồn, ngồi xuống đất, dựa vào cổng trụ cửa ngõ của một nhà bên đường xem phản ứng của quân nhân các cấp của tiểu đoàn như thế nào. Các sĩ quan đã đến chia xẻ sự đau khổ của tôi, mỗi người một ý.
10 giờ 30 sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung đội tình báo của ban 2 vẫn đứng quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân.
Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng đến đứng trước mặt tôi nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồ nói: ”Chắc em không vào Sài Gòn đâu thiếu tá. Cả quân đoàn không một trận đánh nào mà đã bỏ đi cả, em thấy chán quá rồi! Em chúc thiếu tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được Sài Gòn.”
Cái xác không hồn của tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã, nói:
- Tao bây giờ không biết tính sao, tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây để cùng vào Nam song không ngờ như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay tao rồi.
Vợ Trung Sĩ I Thoảng và hai con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi, cùng đi với tiểu đoàn từ hôm qua. Chị ta bước tới trước mặt tôi và nói: “Em chúc thiếu tá lên đường bình an, vào cho được Sài Gòn nghe thiếu tá. Chứ Việt Cộng, đến cỡ thiếu tá, nó giết chứ không tha đâu.”
Tôi đứng dậy xoa đầu hai đứa nhỏ đang đứng bên mẹ, có lẻ đó là phản ứng lịch sự đối với đàn bà chứ tôi có đến nhà chị ta mấy lần rồi nên cũng thường thôi. Tôi nói:
- Tôi cũng không biết có đi được không, đến đâu hay đó. Thoảng (Trung Sĩ I Thoảng thua tôi khoảng 5 tuổi) thì chắc nó không giết đâu vì nó cấp bậc nhỏ mà nó là chiến tranh chính trị ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
- Cám ơn thiếu tá. Chúc thiếu tá thượng lộ bình an.
Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần nữa. Tôi cũng không chào lại, đưa tay bắt và nói:
- Thôi mày về đi, tùy tình hình địa phương mà sống chắc không can gì đâu.
Anh ta đến chào Ðại Úy Hà Thúc Thuyên, tiểu đoàn phó, các đại úy trưởng ban 2 và ban 3 tiểu đoàn rồi từ giã ra đi. Ðến lúc này chỉ còn những sĩ quan đó và khoảng 20 lính của trung đội tình báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi xuống đất dựa vào trụ vôi. Ðại Úy Thuyên đến nói: “Thôi mình cứ về Ðà Nẵng rồi hãy tính”.
Tôi đang chán nản chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe tiếng nổ lớn phía sau nhà tôi đang ngồi. Lính tôi ngồi xuống trong thế sẵn sàng tác chiến. Tôi nói: “Minh, mày ra xem cái gì đó”. Minh đi với hai người lính nữa, sau hơn 5 phút chạy lui, trả lời: “Thiếu Tá ơi! Ông Trung Sĩ Thoảng tự tử bằng lựu đạn với vợ con ông ta rồi!”
Tôi quá bàng hoàng và xúc động, tự nhiên bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên la đau đớn, sự nhắn gửi trối trăn của thuộc cấp sắp chết mặc dù tôi rất xúc động, tôi cũng có trái tim biết đau khổ nhưng tôi tự kềm chế không bao giờ khóc, nhiều lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về tình cảm của tôi. Thế mà hôm nay không hiểu sao tôi lại bậc khóc, có lẽ đây là lần khóc đầu tiên và cũng là lần khóc cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối với thuộc cấp. Tôi nói:
- Nó chết ở đâu?
- Ổng chết ở nhà kia.
Theo tay chỉ của Minh thì sau căn nhà đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người lính bảo vệ tôi cũng đi theo. Căn nhà tôn nhỏ xây vách chung quanh. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi thể không toàn vẹn, một xách áo quần, mền còn bỏ lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, da thịt tung tóe dính cả vào tường.
Tôi không nói gì, quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các binh sĩ theo tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường. Người lính đi theo sau tôi nói:
- Ông Thoảng và vợ ông là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Ðảng đó thiếu tá.
Bây giờ là 12 giờ ngày 29 Tháng Ba, 1975.
Một trung sĩ cấp bậc quá nhỏ so với tôi. Một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng có lúc gọi bằng “thằng”, một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi thế cho thân mật, có những lỗi lầm mà tôi đã rầy la đôi khi còn nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải gọi là ông. Ông Thoảng với lòng tôn kính vì đây là một vị anh hùng hơn tôi rất nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với Cộng Sản.
Hôm nay, tôi viết để vinh danh một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho con cháu sau này biết đến.
Xin nghiêng mình tôn vinh một vị anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hai giờ chiều ngày 29 Tháng Ba, 1975, Việt Cộng đã treo cờ ở Tòa Thị Chính Ðà Nẵng.
Trương Quang Chung
(Khóa 11 – Thủ Ðức)
hung-viet.org
Sinh Tồn chuyển
Tác giả: Trương Quang Chung
Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, người Việt tản mát trên khắp thế
giới để tỵ nạn cộng sản. Trên sách vở, báo chí, hồi ký, bút ký, trên đài
truyền thanh, truyền hình, trong các đại nhạc hội, những lúc hội họp
các đoàn thể chính trị hay các tổ chức khác, trong những lúc ngồi nói
chuyện quá khứ với nhau, đôi lúc cũng nhắc đến những cái chết của những
vị tướng lãnh hay các sĩ quan cao cấp khác trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Những cái chết đó phải được vinh danh một cách trang trọng xứng
đáng, phải được ghi vào lịch sử để con cháu chúng ta sau này biết đến sự
tuẫn tiết của cha, anh họ.Với tinh thần đó, tôi muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con ngày 29 Tháng Ba, 1975 tại Ðà Nẵng.
***
8 giờ sáng ngày 28 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây Nam của bộ tư lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ một pháo đội 105 ly của Sư Ðoàn 3. Mở bản đồ thì biết đó là trục lộ 14 C từ quân Ðiện Bàn đi Ðại Lộc, Thượng Ðức thuộc tỉnh Quảng Nam. Tiểu đoàn chịu trách nhiệm từ tháp Bằng An đến Phong Thử (khoảng 2 km). Tiểu đoàn di chuyển đến địa điểm lúc 10 giờ sáng, đã thấy vài khẩu đại bác 105 ly đã có sẵn ở các ruộng khô các tỉnh lộ 14 C khoảng 50 km.Sau khi liên lạc với vị pháo đội trưởng để bàn hoạch phương thức bảo vệ pháo đội, tôi ra lệnh, giao nhiệm vụ, chỉ định vị trí cho từng đại đội, ban chỉ huy của tiểu đoàn ở gần pháo đội. Khoảng 12 giờ trưa hôm đó, vị đại úy pháo đội trưởng báo cho tôi biết là họ được lịnh rút lui sau. Tôi không thắc mắc vì pháo binh luôn luôn ở sau để yểm trợ. Tuy nhiên, tôi ra lệnh cho đại úy trưởng ban 3 của tôi gọi về tiểu khu hỏi xem chúng tôi có theo họ để bảo vệ súng không?
2 giờ 30 chiều hôm đó, sĩ quan ban 3 của tôi báo cho tôi biết là ban chỉ huy tiểu khu đã thông báo là dời về Non Nước. Lúc này, tôi có phần bi quan vì theo dõi tin tức qua máy trên các tần số của các đơn vị ở Vùng I mà chúng tôi có trong đặc lệnh truyền tin.
4 giờ chiều, tôi hoàn toàn không liên lạc được với Liên Ðoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành chỉ huy mà tiểu đoàn tôi trực thuộc. Tiểu khu cũng biệt vô âm tín. Tôi gọi về trung tâm hành quân của Quân Ðoàn I cũng như của Sư Ðoàn 3, họ quá bận rộn với nhiều đơn vị nên khó chen vào được.
Tôi mời các đại đội trưởng và sĩ quan tham mưu đến cho biết tình hình và bàn kế hoạch. Bây giờ tôi không còn ai chỉ huy nữa nên tôi quyết định rút tiểu đoàn về Hội An để vào tiểu khu xem sự việc đồng thời đó là con đường tương đối an toàn và gần nhất để ra Ðà Nẵng.
Ðơn vị ra đến quốc lộ 1 thì dân, lính họ chạy về Ðà Nẵng quá sức tưởng tượng. Họ đang chạy giặc. Tình hình quá bi đát, một thoáng suy nghĩ trong đầu, tôi ra lệnh tất cả dừng lại ở trong làng cách quốc lộ khoảng 100 mét, chờ lệnh tôi vì tôi sợ lính ra đây thấy cảnh đó thì bỏ đơn vị về lo cho gia đình.
Tôi tiến sát quốc lộ 1 để xem tình hình thì gặp Trung Tá Nguyễn Tối Lạc, quận trưởng Ðức Dục. Ông ta cho biết tất cả các chi khu của Quảng Nam đều bỏ cả rồi, tiểu khu thì về Ðà Nẵng không liên lạc được. Ông ta còn cho biết thêm là Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh Sư Ðoàn 3, vừa cho lệnh ông là thuộc Ðại Tá Vũ Ngọc Hướng, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 3. Ðại Tá Hướng chỉ huy luôn các tiểu đoàn của Tiểu Khu Quảng Nam nữa. Trung Tá Lạc chỉ còn một người mang máy truyền tin, một người lính bảo vệ thôi.
Tôi đang đứng với Trung Tá Lạc thì một chiếc chiến xa M-48 từ trong đi ra thấy có Ðại Tá Hướng ngồi trên pháo tháp. Ông ta thấy tôi liền cho xe dừng lại (tôi là thuộc quyền của ông lúc ông ta còn là tiểu khu phó Quảng Nam) và hỏi tôi:
- Tiểu đoàn của mày đâu mà mày đứng đây?
Tôi trả lời:
- Tiểu đoàn tôi còn nằm trong làng này, đại tá.
Tay tôi chỉ vào trong làng gần đó.
- Có còn đủ không?
- Còn tương đối nguyên. Chưa đụng trận nào lớn cả mà, chỉ gặp du kích thôi. Bảo đảm đại tá. Chắc đại tá biết tiểu đoàn này rồi mà (tiểu đoàn này 2/3 là lính Biệt Kích Tây Hổ hoàn toàn Quốc Dân Ðảng chống Cộng thứ thiệt mà Ðại Tá Hướng biết lúc ông ta là tiểu khu phó ở đây).
- Tao hiểu. Mày đã nhận lệnh của thiếu tướng chưa? (ý ông nói là Th/Tg Hinh, tư lệnh SÐ3)
- Tôi chưa nhận lệnh trực tiếp của thiếu tướng nhưng đã nghe Trung Tá Lạc nói rồi.
- Tốt. Bây giờ ban chỉ huy tiểu khu không còn ai nữa, mày trực thuộc trung đoàn tao. Mày có tần số của tao chưa?
- Có đầy đủ ở đặc lệnh truyền tin rồi, đại tá. Bây giờ đại tá cho lệnh thế nào?
- Theo lệnh thiếu tướng, mày cho tao tiểu đoàn về Hội An phòng thủ với trung đoàn. Ðến nơi, mày vào gặp tao tại ban chỉ huy tiểu khu để nhận lệnh chi tiết.
Tôi từ giã Ðại Tá Hướng trở lui tiểu đoàn trình bày cuộc nói chuyện và lệnh của Ðại Tá Hướng cũng như Trung Tá Lạc cho các sĩ quan nghe. Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi nói: “Bây giờ chúng ta về Hội An như ý định của chúng ta đã nói. Trên vấn đề quân sự, chúng ta đặt dưới quyền của Ðại Tá Hướng, nếu hữu sự, chúng ta có lực lượng quân sự cùng chiến đấu. Về đó tùy tình hình ta xử trí sau. Tại Hội An, chúng ta có các điểm lợi sau:
1. Về địa thế chúng ta rõ như trong bàn tay.
2. Có kho vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men của Trung Tâm Tiếp Vận Quảng Nam của tiểu khu chúng ta. Chúng ta sẽ sử dụng nếu chiến đấu nhiều ngày.
3. Nếu, có lính chết hay bị thương thì bệnh viện Hội An có phương tiện cấp cứu, có bác sĩ Trung Ðoàn 2 và y tá.
4. Liên tỉnh lộ 13 C từ Ðà Nẵng đi Hội An tương đối an toàn để chúng ta về Ðà Nẵng.
Tôi đã trình bày những điểm lợi hại cho các sĩ quan rõ, tôi nói tiếp: “Nếu phải bỏ Ðà Nẵng như ở Huế và Vùng II thì tôi sẽ vào trình diện quân đoàn để được giúp đỡ vì tiểu đoàn mình còn nguyên chưa bị tổn thất thì thế nào quân đoàn cũng lo cho mình vào Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu. Nếu tận cùng mình dùng quân số đông để áp đảo hải quân, yêu cầu được chở vào Nam chiến đấu.”
Bây giờ đã 6 giờ chiều, mặc dù còn ánh nắng mặt trời, dân chúng cũng như binh sĩ chạy về Ðà Nẵng quá nhiều nên di chuyển đơn vị lớn như thế rất khó khăn, dễ bị thất lạc. Tôi ra lệnh cho các đại đội trưởng, trung đội trưởng phải bám sát binh sĩ của mình đừng cho thất lạc. Nếu thất lạc, họ phải đến điểm tập trung là Ty Công Chánh Hội An. Ðó là điểm tập trung của tiểu đoàn, đừng vào tiểu khu. Tôi căn dặn rất kỹ các đại đội phải ban hành lệnh đến từng người lính để nắm rõ điểm tập họp.
6 giờ 30, tiểu đoàn bắt đầu hướng về Hội An. Lính Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, Tiểu Khu Quảng Ngãi, Quảng Tín kéo về như kiến cỏ. Họ không còn người chỉ huy nên hoàn toàn vô trật tự, vô kỷ luật, chỉ cần một hành động vô ý thức làm chạm tự ái, họ có thể bắn mình một cách dễ dàng.
Tôi đến được Hội An lúc 12 giờ đêm. Tại điểm tập trung, hai đại đội đầu đã có mặt. Tôi ra lệnh phòng thủ và đợi tiểu đoàn đến cho đầy đủ. Tôi vào tiểu khu để gặp Ðại Tá Hướng nhận lệnh.
12 giờ 30, tiểu đoàn đã đến đầy đủ. Ðại úy ban 3 tiểu đoàn cho tôi biết quân số lúc đó là 470 người. Các sĩ quan có đủ, có 20 thường dân là thân nhân của các quân nhân của tiểu đoàn theo họ (họ hy vọng nếu có thể vào Sài Gòn thì họ cùng tiểu đoàn vào Nam được dễ dàng hơn) vì lúc ở Ðiện Bàn, các gia đình này ở đó nên họ biết có tiểu đoàn về nên đem theo luôn.
Có 50 quân nhân các đơn vị khác thuộc Tiểu Khu Quảng Nam đã thất lạc đơn vị nay muốn theo chúng tôi. Tôi nói với 50 quân nhân này, tôi chấp thuận cho họ ở với tiểu đoàn với điều kiện phải tuyệt đối tuân hành lệnh của các sĩ quan tiểu đoàn, nếu bất tuân, tôi ra lệnh bắn bỏ, nhất là lúc đụng trận. Tôi sẽ cho họ về đơn vị gốc khi tôi gặp đơn vị đó. Tất cả họ đồng ý và tôi phân chia cho các đại đội tác chiến ngay.
Riêng 20 thường dân (trong số này, tôi đã biết họ vì trước đây tôi có đến nhà họ lúc thuận tiện), tôi ra lệnh Trung Sĩ I Thoảng chịu trách nhiệm vì trung sĩ là hạ sĩ quan Ban 5 của tiểu đoàn (trung úy trưởng ban 5 vắng). Ðồng thời tôi giới thiệu T/S I Thoảng cho họ biết và nói: “Bà con là thân nhân của quân nhân các cấp trong tiểu đoàn tôi. Tôi có nhiệm vụ bảo vệ bà con cũng như bảo vệ lính tôi vậy. Nếu đụng trận, bà con nghe lệnh của T/S I Thoảng để được an toàn, đừng chạy lộn xộn mà chết. Tiểu đoàn đến đâu, tôi đem bà con theo đó.” Họ hiểu ý tôi nên rất hoan hỉ.
Thành phố Hội An bây giờ trống vắng, 99% đều bỏ ra Ðà Nẵng lánh nạn. Tiểu đoàn rời Ty Công Chánh Quảng Nam để đến vị trí phòng thủ theo lệnh Ðại Tá Hướng. Ðó là hướng Bắc Hội An trên đường ra Ðà Nẵng. Trước khi đi, tôi còn để lại một tiểu đội, một máy truyền tin do một trung sĩ của ban 2 chỉ huy để đón nhận những người đến muộn.
Tại vị trí phòng thủ mới, tôi quá mỏi mệt, tinh thần căng thẳng. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì Minh (Hạ Sĩ I Minh là người lo công việc hàng ngày cũng như ăn uống cho tôi mà trong quân đội gọi là tà-lọt) bưng đến một tô cháo cùng một ly cà phê sữa đang nóng và nói:
- Mấy ngày nay thiếu tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước không, lo suy nghĩ nhiều, em thấy thiếu tá ốm đó nghen. Thiếu tá ăn tô cháu hầm bồ câu và uống ly cà phê để có sức đánh giặc chứ.
Tôi đang lo lắng, định bảo dẹp đi, nhưng thấy thuộc cấp của mình thương mình, lo cho mình như thế nên không đành và nói:
- Mấy ông kia ăn chưa? Bồ câu đâu mày có?
- Thưa thiếu tá, lúc nãy ở ty công chánh có chuồng bồ câu có lẽ là của ông trưởng ty đã bỏ đi rồi, nên em bắt 4 con. Em biết Ðại Bàng (danh xưng của tôi ở đặc lệnh truyền tin) sẽ rầy, nhưng giờ này có khỏe mới giết được Việt Cộng chứ Ðại Bàng.
- Thôi được, để đó, đừng mắc võng nữa nghe.
Từ sáng đến giờ, tôi chỉ uống nước, không ăn gì ngoài một tô mì gói có đập vào hai hột gà cũng do Hạ Sĩ I Minh làm mà thôi. Cảm thấy đói, hớp mấy miếng cà phê, ăn được gần nửa tô cháo thì nghe tiếng trực thăng. Tôi nhìn ra thì thấy từ hướng Quân Ðoàn I có hai chiếc máy bay bay khá cao. Tôi bảo trung úy sĩ quan truyền tin mở máy qua tần số quân đoàn liên lạc xem sao. Không liên lạc được, mặc dù anh đã có tất cả đặc lệnh truyền tin trong tay, đã liên lạc nhiều tần số và nhiều giới chức có thể đi bằng máy bay, nhưng vô hiệu.
Tôi biết chắc đó là máy bay quân đoàn, nhưng không biết giới chức nào mà thôi. Lúc này, tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi ra lệnh đại úy trưởng ban 3 gọi các đại đội trưởng về họp, đồng thời thu hồi tiểu đội ở ty công chánh trở về tiểu đoàn. Tôi còn ra lệnh cho Ðại Úy Hà Thúc Thuyên đi với một máy, vài lính bảo vệ đến ban chỉ huy tiểu khu xem Ðại Tá Hướng thế nào mà không liên lạc được.
Bây giờ là 2 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975. Ðại Úy Thuyên báo Trung Ðoàn 2 đã âm thầm ra hướng biển để về Ðà Nẵng. Tiểu đội ở Ty Công Chánh đã đến tiểu đoàn mang theo 9 người lính đến muộn. Tôi cho về lại hai đại đội của họ cả. Như thế, giờ này tiểu đoàn có 479 quân nhân tham chiến chưa kể 50 quân nhân các đơn vị khác đi theo.
Sau một hồi bàn thảo của sĩ quan tham mưu và các đại đội trưởng, tất cả quyết định rút về Ðà Nẵng, vào trình diện quân đoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý và trình bày: “Bây giờ còn sớm, chưa được 3 giờ, chúng ta đến chùa Non Nước sẽ gặp đơn vị phòng thủ quân đoàn ở đó. Trời chưa sáng, họ không nhận diện được ta có thể ngộ nhận và bắn lầm. Tôi quyết định 4 giờ sáng chúng ta xuất phát theo đội hình Ðại Ðội 1 đi đầu, Ðại Ðội 3 bên trái, Ðại Ðội 4 bên phải; Ðại Úy Thuyên, tiểu đoàn phó, đi với đại đội này vì có Trung Ðoàn 2 đi ra biển, nếu gặp tiện việc liên lạc hàng ngang tránh ngộ nhận; Ðại Ðội 2 đi sau, ban chỉ huy tiểu đoàn đi giữa, gia đình đi sau ban chỉ huy tiểu đoàn. Trên đường đi, nếu chạm địch, chúng ta phải yểm trợ nhau đưa nhau về Ðà Nẵng. Tất cả, nếu không ai có ý kiến gì khác thì về đơn vị chuẩn bị lên đường khi có lệnh”.
Ðúng 4 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn bắt đầu di chuyển thứ tự theo lệnh như đã phân nhiệm. Trên đường đi, chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chỉ gặp vài du kích bắn lẻ tẻ, vô sự, các đại đội phản ứng nhưng vẫn tiến quân. Gần 9 giờ sáng, đại đội đầu do Trung Úy Thành chỉ huy báo cáo là đã đến Non Nước, gặp đơn vị bạn, đã nhận diện và nói chuyện với nhau. Trung Úy Thành nói là đã gặp một đại úy thủy quân lục chiến đang ngồi trên chiến xa nói là họ được lệnh không cho một quân nhân nào vào Ðà Nẵng mà mang súng, muốn vào phải bỏ súng ở đây. Tôi nghe ngạc nhiên. Lính mà không cho mang súng thì đánh giặc bằng gì, ôm mà cắn hả, lệnh gì kỳ cục vậy!
Tôi nói cho Trung Úy Thành ra lệnh cho binh sĩ đứng tại chỗ, cấm phản ứng để tôi lên tiếp xúc. Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý là các đại đội thu hẹp gần tiểu đoàn, bố trí tại chỗ chờ lệnh và nói chuyện Ðại Úy Thuyên đến gặp tôi. Trên con đường đến gặp đại úy thủy quân lục chiến, tôi suy nghĩ: Tình hình an ninh Ðà Nẵng rất xấu, đã có Việt Cộng cải trang thành lính xâm nhập rồi, nên mới có lệnh đó.
Tôi gặp vị đại úy thủy quân lục chiến và trình bày sự việc để xin được vào Ðà Nẵng. Ông ta dứt khoát và bảo đó là lệnh, không thể sai được. Tôi cũng biết lệnh của quân đội, tôi nói tình lý cho đại úy thủy quân lục chiến và gần như năn nỉ. Ông ta mềm lòng và nói để hỏi lại cấp trên.
Tôi tìm hiểu Thiếu Tá Ðịnh là cấp trên của ông ta vì Thiếu Tá Tá Ðịnh học chung một khóa Bộ Binh Cao Cấp với tôi năm 1973, ngủ chung một phòng, cũng người Huế nên chúng tôi cũng thân nhau. Tôi cũng nói cho ông ta biết là tôi cũng bạn thân với Thiếu Tá Ðịnh, tiểu đoàn trưởng thủy quân lục chiến. Vị đại úy này xác nhận Thiếu Tá Ðịnh là tiểu đoàn trưởng của ông ta (điều này tôi đã biết, nhưng giả như không biết để khỏi chạm tự ái). Ông ta nói chuyện với Thiếu Tá Ðịnh, sau đó trao máy cho tôi để nói chuyện.
Thiếu Tá Ðịnh cho tôi biết quân đoàn đã đi hết, đã bỏ ngõ, thủy quân lục chiến cũng đang tự tìm cách về Sài Gòn, chưa biết tính sao đây. Thế là hết! Tôi trả máy lại cho đại úy thủy quân lục chiến.
Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý gọi tất cả sĩ quan đến gặp tôi. Bây giờ là 9 giờ 30 sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975 tại chùa Non Nước, Ðà Nẵng. Vị đại úy thủy quân lục chiến cũng báo cho tôi biết là tôi được tự do vào Ðà Nẵng. Tôi chỉ nói cám ơn. Chiến xa nổ máy quay đầu chạy lui về Ðà Nẵng có tùng thiết thủy quân lục chiến theo. Thiếu Tá Ðịnh thủy quân lục chiến cũng cho tôi biết không còn phương tiện vào Sài Gòn nữa, chính đơn vị ông ta cũng phải tự lo liệu lấy. Không ai chỉ huy nữa. Hải quân ở Tiên Sa cũng nhổ neo hết rồi.
Tất cả sĩ quan đã có mặt. Tôi trình bày tình hình quân đoàn, hải quân do Thiếu Tá Ðịnh cho biết và chính ông ta cũng không biết phải xử trí như thế nào. Tôi nói:
- Tôi đã cùng quân nhân các cấp trong tiểu đoàn chiến đấu bên nhau bấy lâu nay, nhất là sau Tết cho đến bây giờ, tình hình chiến sự sôi động, gian lao khổ cực cùng anh em. Tôi đã đoán được tình hình, cố gắng đưa tiểu đoàn về đây để được cùng nhau vào Sài Gòn tiếp tục chiến đấu. Nhưng bây giờ, sự việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta, tôi rất đau khổ về sự việc này.
Tôi cũng kể về sự tiếp xúc của tôi và Thiếu Tá Ðịnh thủy quân lục chiến, sự suy luận của tôi, sự hiểu biết về tình hình của tôi cho tất cả nghe, và tôi nói tiếp:
- Không nên tập trung cả đại đội, sợ bị tấn công bất thường, chỉ từng trung đội, giải thích cho họ hiểu, thông cả tìm cách vào Sài Gòn hoặc về gia đình tùy ý. Quyền chỉ huy bây giờ tuy nghi các anh lo liệu. Nếu ai về nhà thì vũ khí nên phá hủy đừng để vào tay Việt Cộng. Các bạn tự do thi hành theo ý mình, điều cần nhất là phải an ủi, giải thích cho lính hiểu tâm trạng của chúng ta bây giờ.
Có nhiều người lưỡng lự chưa muốn đi. Lúc này, tôi như cái xác không hồn, ngồi xuống đất, dựa vào cổng trụ cửa ngõ của một nhà bên đường xem phản ứng của quân nhân các cấp của tiểu đoàn như thế nào. Các sĩ quan đã đến chia xẻ sự đau khổ của tôi, mỗi người một ý.
10 giờ 30 sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung đội tình báo của ban 2 vẫn đứng quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân.
Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng đến đứng trước mặt tôi nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồ nói: ”Chắc em không vào Sài Gòn đâu thiếu tá. Cả quân đoàn không một trận đánh nào mà đã bỏ đi cả, em thấy chán quá rồi! Em chúc thiếu tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được Sài Gòn.”
Cái xác không hồn của tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã, nói:
- Tao bây giờ không biết tính sao, tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây để cùng vào Nam song không ngờ như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay tao rồi.
Vợ Trung Sĩ I Thoảng và hai con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi, cùng đi với tiểu đoàn từ hôm qua. Chị ta bước tới trước mặt tôi và nói: “Em chúc thiếu tá lên đường bình an, vào cho được Sài Gòn nghe thiếu tá. Chứ Việt Cộng, đến cỡ thiếu tá, nó giết chứ không tha đâu.”
Tôi đứng dậy xoa đầu hai đứa nhỏ đang đứng bên mẹ, có lẻ đó là phản ứng lịch sự đối với đàn bà chứ tôi có đến nhà chị ta mấy lần rồi nên cũng thường thôi. Tôi nói:
- Tôi cũng không biết có đi được không, đến đâu hay đó. Thoảng (Trung Sĩ I Thoảng thua tôi khoảng 5 tuổi) thì chắc nó không giết đâu vì nó cấp bậc nhỏ mà nó là chiến tranh chính trị ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
- Cám ơn thiếu tá. Chúc thiếu tá thượng lộ bình an.
Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần nữa. Tôi cũng không chào lại, đưa tay bắt và nói:
- Thôi mày về đi, tùy tình hình địa phương mà sống chắc không can gì đâu.
Anh ta đến chào Ðại Úy Hà Thúc Thuyên, tiểu đoàn phó, các đại úy trưởng ban 2 và ban 3 tiểu đoàn rồi từ giã ra đi. Ðến lúc này chỉ còn những sĩ quan đó và khoảng 20 lính của trung đội tình báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi xuống đất dựa vào trụ vôi. Ðại Úy Thuyên đến nói: “Thôi mình cứ về Ðà Nẵng rồi hãy tính”.
Tôi đang chán nản chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe tiếng nổ lớn phía sau nhà tôi đang ngồi. Lính tôi ngồi xuống trong thế sẵn sàng tác chiến. Tôi nói: “Minh, mày ra xem cái gì đó”. Minh đi với hai người lính nữa, sau hơn 5 phút chạy lui, trả lời: “Thiếu Tá ơi! Ông Trung Sĩ Thoảng tự tử bằng lựu đạn với vợ con ông ta rồi!”
Tôi quá bàng hoàng và xúc động, tự nhiên bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên la đau đớn, sự nhắn gửi trối trăn của thuộc cấp sắp chết mặc dù tôi rất xúc động, tôi cũng có trái tim biết đau khổ nhưng tôi tự kềm chế không bao giờ khóc, nhiều lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về tình cảm của tôi. Thế mà hôm nay không hiểu sao tôi lại bậc khóc, có lẽ đây là lần khóc đầu tiên và cũng là lần khóc cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối với thuộc cấp. Tôi nói:
- Nó chết ở đâu?
- Ổng chết ở nhà kia.
Theo tay chỉ của Minh thì sau căn nhà đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người lính bảo vệ tôi cũng đi theo. Căn nhà tôn nhỏ xây vách chung quanh. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi thể không toàn vẹn, một xách áo quần, mền còn bỏ lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, da thịt tung tóe dính cả vào tường.
Tôi không nói gì, quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các binh sĩ theo tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường. Người lính đi theo sau tôi nói:
- Ông Thoảng và vợ ông là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Ðảng đó thiếu tá.
Bây giờ là 12 giờ ngày 29 Tháng Ba, 1975.
Một trung sĩ cấp bậc quá nhỏ so với tôi. Một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng có lúc gọi bằng “thằng”, một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi thế cho thân mật, có những lỗi lầm mà tôi đã rầy la đôi khi còn nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải gọi là ông. Ông Thoảng với lòng tôn kính vì đây là một vị anh hùng hơn tôi rất nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với Cộng Sản.
Hôm nay, tôi viết để vinh danh một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho con cháu sau này biết đến.
Xin nghiêng mình tôn vinh một vị anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hai giờ chiều ngày 29 Tháng Ba, 1975, Việt Cộng đã treo cờ ở Tòa Thị Chính Ðà Nẵng.
Trương Quang Chung
(Khóa 11 – Thủ Ðức)
hung-viet.org
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Một lần chào cuối cùng của đời quân ngũ
8 giờ sáng ngày 28 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây Nam của bộ tư lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ một pháo đội 105 ly của Sư Ðoàn 3.
Tác giả: Trương Quang Chung
Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, người Việt tản mát trên khắp thế
giới để tỵ nạn cộng sản. Trên sách vở, báo chí, hồi ký, bút ký, trên đài
truyền thanh, truyền hình, trong các đại nhạc hội, những lúc hội họp
các đoàn thể chính trị hay các tổ chức khác, trong những lúc ngồi nói
chuyện quá khứ với nhau, đôi lúc cũng nhắc đến những cái chết của những
vị tướng lãnh hay các sĩ quan cao cấp khác trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Những cái chết đó phải được vinh danh một cách trang trọng xứng
đáng, phải được ghi vào lịch sử để con cháu chúng ta sau này biết đến sự
tuẫn tiết của cha, anh họ.Với tinh thần đó, tôi muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con ngày 29 Tháng Ba, 1975 tại Ðà Nẵng.
***
8 giờ sáng ngày 28 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây Nam của bộ tư lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ một pháo đội 105 ly của Sư Ðoàn 3. Mở bản đồ thì biết đó là trục lộ 14 C từ quân Ðiện Bàn đi Ðại Lộc, Thượng Ðức thuộc tỉnh Quảng Nam. Tiểu đoàn chịu trách nhiệm từ tháp Bằng An đến Phong Thử (khoảng 2 km). Tiểu đoàn di chuyển đến địa điểm lúc 10 giờ sáng, đã thấy vài khẩu đại bác 105 ly đã có sẵn ở các ruộng khô các tỉnh lộ 14 C khoảng 50 km.Sau khi liên lạc với vị pháo đội trưởng để bàn hoạch phương thức bảo vệ pháo đội, tôi ra lệnh, giao nhiệm vụ, chỉ định vị trí cho từng đại đội, ban chỉ huy của tiểu đoàn ở gần pháo đội. Khoảng 12 giờ trưa hôm đó, vị đại úy pháo đội trưởng báo cho tôi biết là họ được lịnh rút lui sau. Tôi không thắc mắc vì pháo binh luôn luôn ở sau để yểm trợ. Tuy nhiên, tôi ra lệnh cho đại úy trưởng ban 3 của tôi gọi về tiểu khu hỏi xem chúng tôi có theo họ để bảo vệ súng không?
2 giờ 30 chiều hôm đó, sĩ quan ban 3 của tôi báo cho tôi biết là ban chỉ huy tiểu khu đã thông báo là dời về Non Nước. Lúc này, tôi có phần bi quan vì theo dõi tin tức qua máy trên các tần số của các đơn vị ở Vùng I mà chúng tôi có trong đặc lệnh truyền tin.
4 giờ chiều, tôi hoàn toàn không liên lạc được với Liên Ðoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành chỉ huy mà tiểu đoàn tôi trực thuộc. Tiểu khu cũng biệt vô âm tín. Tôi gọi về trung tâm hành quân của Quân Ðoàn I cũng như của Sư Ðoàn 3, họ quá bận rộn với nhiều đơn vị nên khó chen vào được.
Tôi mời các đại đội trưởng và sĩ quan tham mưu đến cho biết tình hình và bàn kế hoạch. Bây giờ tôi không còn ai chỉ huy nữa nên tôi quyết định rút tiểu đoàn về Hội An để vào tiểu khu xem sự việc đồng thời đó là con đường tương đối an toàn và gần nhất để ra Ðà Nẵng.
Ðơn vị ra đến quốc lộ 1 thì dân, lính họ chạy về Ðà Nẵng quá sức tưởng tượng. Họ đang chạy giặc. Tình hình quá bi đát, một thoáng suy nghĩ trong đầu, tôi ra lệnh tất cả dừng lại ở trong làng cách quốc lộ khoảng 100 mét, chờ lệnh tôi vì tôi sợ lính ra đây thấy cảnh đó thì bỏ đơn vị về lo cho gia đình.
Tôi tiến sát quốc lộ 1 để xem tình hình thì gặp Trung Tá Nguyễn Tối Lạc, quận trưởng Ðức Dục. Ông ta cho biết tất cả các chi khu của Quảng Nam đều bỏ cả rồi, tiểu khu thì về Ðà Nẵng không liên lạc được. Ông ta còn cho biết thêm là Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh Sư Ðoàn 3, vừa cho lệnh ông là thuộc Ðại Tá Vũ Ngọc Hướng, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 3. Ðại Tá Hướng chỉ huy luôn các tiểu đoàn của Tiểu Khu Quảng Nam nữa. Trung Tá Lạc chỉ còn một người mang máy truyền tin, một người lính bảo vệ thôi.
Tôi đang đứng với Trung Tá Lạc thì một chiếc chiến xa M-48 từ trong đi ra thấy có Ðại Tá Hướng ngồi trên pháo tháp. Ông ta thấy tôi liền cho xe dừng lại (tôi là thuộc quyền của ông lúc ông ta còn là tiểu khu phó Quảng Nam) và hỏi tôi:
- Tiểu đoàn của mày đâu mà mày đứng đây?
Tôi trả lời:
- Tiểu đoàn tôi còn nằm trong làng này, đại tá.
Tay tôi chỉ vào trong làng gần đó.
- Có còn đủ không?
- Còn tương đối nguyên. Chưa đụng trận nào lớn cả mà, chỉ gặp du kích thôi. Bảo đảm đại tá. Chắc đại tá biết tiểu đoàn này rồi mà (tiểu đoàn này 2/3 là lính Biệt Kích Tây Hổ hoàn toàn Quốc Dân Ðảng chống Cộng thứ thiệt mà Ðại Tá Hướng biết lúc ông ta là tiểu khu phó ở đây).
- Tao hiểu. Mày đã nhận lệnh của thiếu tướng chưa? (ý ông nói là Th/Tg Hinh, tư lệnh SÐ3)
- Tôi chưa nhận lệnh trực tiếp của thiếu tướng nhưng đã nghe Trung Tá Lạc nói rồi.
- Tốt. Bây giờ ban chỉ huy tiểu khu không còn ai nữa, mày trực thuộc trung đoàn tao. Mày có tần số của tao chưa?
- Có đầy đủ ở đặc lệnh truyền tin rồi, đại tá. Bây giờ đại tá cho lệnh thế nào?
- Theo lệnh thiếu tướng, mày cho tao tiểu đoàn về Hội An phòng thủ với trung đoàn. Ðến nơi, mày vào gặp tao tại ban chỉ huy tiểu khu để nhận lệnh chi tiết.
Tôi từ giã Ðại Tá Hướng trở lui tiểu đoàn trình bày cuộc nói chuyện và lệnh của Ðại Tá Hướng cũng như Trung Tá Lạc cho các sĩ quan nghe. Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi nói: “Bây giờ chúng ta về Hội An như ý định của chúng ta đã nói. Trên vấn đề quân sự, chúng ta đặt dưới quyền của Ðại Tá Hướng, nếu hữu sự, chúng ta có lực lượng quân sự cùng chiến đấu. Về đó tùy tình hình ta xử trí sau. Tại Hội An, chúng ta có các điểm lợi sau:
1. Về địa thế chúng ta rõ như trong bàn tay.
2. Có kho vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men của Trung Tâm Tiếp Vận Quảng Nam của tiểu khu chúng ta. Chúng ta sẽ sử dụng nếu chiến đấu nhiều ngày.
3. Nếu, có lính chết hay bị thương thì bệnh viện Hội An có phương tiện cấp cứu, có bác sĩ Trung Ðoàn 2 và y tá.
4. Liên tỉnh lộ 13 C từ Ðà Nẵng đi Hội An tương đối an toàn để chúng ta về Ðà Nẵng.
Tôi đã trình bày những điểm lợi hại cho các sĩ quan rõ, tôi nói tiếp: “Nếu phải bỏ Ðà Nẵng như ở Huế và Vùng II thì tôi sẽ vào trình diện quân đoàn để được giúp đỡ vì tiểu đoàn mình còn nguyên chưa bị tổn thất thì thế nào quân đoàn cũng lo cho mình vào Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu. Nếu tận cùng mình dùng quân số đông để áp đảo hải quân, yêu cầu được chở vào Nam chiến đấu.”
Bây giờ đã 6 giờ chiều, mặc dù còn ánh nắng mặt trời, dân chúng cũng như binh sĩ chạy về Ðà Nẵng quá nhiều nên di chuyển đơn vị lớn như thế rất khó khăn, dễ bị thất lạc. Tôi ra lệnh cho các đại đội trưởng, trung đội trưởng phải bám sát binh sĩ của mình đừng cho thất lạc. Nếu thất lạc, họ phải đến điểm tập trung là Ty Công Chánh Hội An. Ðó là điểm tập trung của tiểu đoàn, đừng vào tiểu khu. Tôi căn dặn rất kỹ các đại đội phải ban hành lệnh đến từng người lính để nắm rõ điểm tập họp.
6 giờ 30, tiểu đoàn bắt đầu hướng về Hội An. Lính Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, Tiểu Khu Quảng Ngãi, Quảng Tín kéo về như kiến cỏ. Họ không còn người chỉ huy nên hoàn toàn vô trật tự, vô kỷ luật, chỉ cần một hành động vô ý thức làm chạm tự ái, họ có thể bắn mình một cách dễ dàng.
Tôi đến được Hội An lúc 12 giờ đêm. Tại điểm tập trung, hai đại đội đầu đã có mặt. Tôi ra lệnh phòng thủ và đợi tiểu đoàn đến cho đầy đủ. Tôi vào tiểu khu để gặp Ðại Tá Hướng nhận lệnh.
12 giờ 30, tiểu đoàn đã đến đầy đủ. Ðại úy ban 3 tiểu đoàn cho tôi biết quân số lúc đó là 470 người. Các sĩ quan có đủ, có 20 thường dân là thân nhân của các quân nhân của tiểu đoàn theo họ (họ hy vọng nếu có thể vào Sài Gòn thì họ cùng tiểu đoàn vào Nam được dễ dàng hơn) vì lúc ở Ðiện Bàn, các gia đình này ở đó nên họ biết có tiểu đoàn về nên đem theo luôn.
Có 50 quân nhân các đơn vị khác thuộc Tiểu Khu Quảng Nam đã thất lạc đơn vị nay muốn theo chúng tôi. Tôi nói với 50 quân nhân này, tôi chấp thuận cho họ ở với tiểu đoàn với điều kiện phải tuyệt đối tuân hành lệnh của các sĩ quan tiểu đoàn, nếu bất tuân, tôi ra lệnh bắn bỏ, nhất là lúc đụng trận. Tôi sẽ cho họ về đơn vị gốc khi tôi gặp đơn vị đó. Tất cả họ đồng ý và tôi phân chia cho các đại đội tác chiến ngay.
Riêng 20 thường dân (trong số này, tôi đã biết họ vì trước đây tôi có đến nhà họ lúc thuận tiện), tôi ra lệnh Trung Sĩ I Thoảng chịu trách nhiệm vì trung sĩ là hạ sĩ quan Ban 5 của tiểu đoàn (trung úy trưởng ban 5 vắng). Ðồng thời tôi giới thiệu T/S I Thoảng cho họ biết và nói: “Bà con là thân nhân của quân nhân các cấp trong tiểu đoàn tôi. Tôi có nhiệm vụ bảo vệ bà con cũng như bảo vệ lính tôi vậy. Nếu đụng trận, bà con nghe lệnh của T/S I Thoảng để được an toàn, đừng chạy lộn xộn mà chết. Tiểu đoàn đến đâu, tôi đem bà con theo đó.” Họ hiểu ý tôi nên rất hoan hỉ.
Thành phố Hội An bây giờ trống vắng, 99% đều bỏ ra Ðà Nẵng lánh nạn. Tiểu đoàn rời Ty Công Chánh Quảng Nam để đến vị trí phòng thủ theo lệnh Ðại Tá Hướng. Ðó là hướng Bắc Hội An trên đường ra Ðà Nẵng. Trước khi đi, tôi còn để lại một tiểu đội, một máy truyền tin do một trung sĩ của ban 2 chỉ huy để đón nhận những người đến muộn.
Tại vị trí phòng thủ mới, tôi quá mỏi mệt, tinh thần căng thẳng. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì Minh (Hạ Sĩ I Minh là người lo công việc hàng ngày cũng như ăn uống cho tôi mà trong quân đội gọi là tà-lọt) bưng đến một tô cháo cùng một ly cà phê sữa đang nóng và nói:
- Mấy ngày nay thiếu tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước không, lo suy nghĩ nhiều, em thấy thiếu tá ốm đó nghen. Thiếu tá ăn tô cháu hầm bồ câu và uống ly cà phê để có sức đánh giặc chứ.
Tôi đang lo lắng, định bảo dẹp đi, nhưng thấy thuộc cấp của mình thương mình, lo cho mình như thế nên không đành và nói:
- Mấy ông kia ăn chưa? Bồ câu đâu mày có?
- Thưa thiếu tá, lúc nãy ở ty công chánh có chuồng bồ câu có lẽ là của ông trưởng ty đã bỏ đi rồi, nên em bắt 4 con. Em biết Ðại Bàng (danh xưng của tôi ở đặc lệnh truyền tin) sẽ rầy, nhưng giờ này có khỏe mới giết được Việt Cộng chứ Ðại Bàng.
- Thôi được, để đó, đừng mắc võng nữa nghe.
Từ sáng đến giờ, tôi chỉ uống nước, không ăn gì ngoài một tô mì gói có đập vào hai hột gà cũng do Hạ Sĩ I Minh làm mà thôi. Cảm thấy đói, hớp mấy miếng cà phê, ăn được gần nửa tô cháo thì nghe tiếng trực thăng. Tôi nhìn ra thì thấy từ hướng Quân Ðoàn I có hai chiếc máy bay bay khá cao. Tôi bảo trung úy sĩ quan truyền tin mở máy qua tần số quân đoàn liên lạc xem sao. Không liên lạc được, mặc dù anh đã có tất cả đặc lệnh truyền tin trong tay, đã liên lạc nhiều tần số và nhiều giới chức có thể đi bằng máy bay, nhưng vô hiệu.
Tôi biết chắc đó là máy bay quân đoàn, nhưng không biết giới chức nào mà thôi. Lúc này, tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi ra lệnh đại úy trưởng ban 3 gọi các đại đội trưởng về họp, đồng thời thu hồi tiểu đội ở ty công chánh trở về tiểu đoàn. Tôi còn ra lệnh cho Ðại Úy Hà Thúc Thuyên đi với một máy, vài lính bảo vệ đến ban chỉ huy tiểu khu xem Ðại Tá Hướng thế nào mà không liên lạc được.
Bây giờ là 2 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975. Ðại Úy Thuyên báo Trung Ðoàn 2 đã âm thầm ra hướng biển để về Ðà Nẵng. Tiểu đội ở Ty Công Chánh đã đến tiểu đoàn mang theo 9 người lính đến muộn. Tôi cho về lại hai đại đội của họ cả. Như thế, giờ này tiểu đoàn có 479 quân nhân tham chiến chưa kể 50 quân nhân các đơn vị khác đi theo.
Sau một hồi bàn thảo của sĩ quan tham mưu và các đại đội trưởng, tất cả quyết định rút về Ðà Nẵng, vào trình diện quân đoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý và trình bày: “Bây giờ còn sớm, chưa được 3 giờ, chúng ta đến chùa Non Nước sẽ gặp đơn vị phòng thủ quân đoàn ở đó. Trời chưa sáng, họ không nhận diện được ta có thể ngộ nhận và bắn lầm. Tôi quyết định 4 giờ sáng chúng ta xuất phát theo đội hình Ðại Ðội 1 đi đầu, Ðại Ðội 3 bên trái, Ðại Ðội 4 bên phải; Ðại Úy Thuyên, tiểu đoàn phó, đi với đại đội này vì có Trung Ðoàn 2 đi ra biển, nếu gặp tiện việc liên lạc hàng ngang tránh ngộ nhận; Ðại Ðội 2 đi sau, ban chỉ huy tiểu đoàn đi giữa, gia đình đi sau ban chỉ huy tiểu đoàn. Trên đường đi, nếu chạm địch, chúng ta phải yểm trợ nhau đưa nhau về Ðà Nẵng. Tất cả, nếu không ai có ý kiến gì khác thì về đơn vị chuẩn bị lên đường khi có lệnh”.
Ðúng 4 giờ sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, tiểu đoàn bắt đầu di chuyển thứ tự theo lệnh như đã phân nhiệm. Trên đường đi, chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chỉ gặp vài du kích bắn lẻ tẻ, vô sự, các đại đội phản ứng nhưng vẫn tiến quân. Gần 9 giờ sáng, đại đội đầu do Trung Úy Thành chỉ huy báo cáo là đã đến Non Nước, gặp đơn vị bạn, đã nhận diện và nói chuyện với nhau. Trung Úy Thành nói là đã gặp một đại úy thủy quân lục chiến đang ngồi trên chiến xa nói là họ được lệnh không cho một quân nhân nào vào Ðà Nẵng mà mang súng, muốn vào phải bỏ súng ở đây. Tôi nghe ngạc nhiên. Lính mà không cho mang súng thì đánh giặc bằng gì, ôm mà cắn hả, lệnh gì kỳ cục vậy!
Tôi nói cho Trung Úy Thành ra lệnh cho binh sĩ đứng tại chỗ, cấm phản ứng để tôi lên tiếp xúc. Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý là các đại đội thu hẹp gần tiểu đoàn, bố trí tại chỗ chờ lệnh và nói chuyện Ðại Úy Thuyên đến gặp tôi. Trên con đường đến gặp đại úy thủy quân lục chiến, tôi suy nghĩ: Tình hình an ninh Ðà Nẵng rất xấu, đã có Việt Cộng cải trang thành lính xâm nhập rồi, nên mới có lệnh đó.
Tôi gặp vị đại úy thủy quân lục chiến và trình bày sự việc để xin được vào Ðà Nẵng. Ông ta dứt khoát và bảo đó là lệnh, không thể sai được. Tôi cũng biết lệnh của quân đội, tôi nói tình lý cho đại úy thủy quân lục chiến và gần như năn nỉ. Ông ta mềm lòng và nói để hỏi lại cấp trên.
Tôi tìm hiểu Thiếu Tá Ðịnh là cấp trên của ông ta vì Thiếu Tá Tá Ðịnh học chung một khóa Bộ Binh Cao Cấp với tôi năm 1973, ngủ chung một phòng, cũng người Huế nên chúng tôi cũng thân nhau. Tôi cũng nói cho ông ta biết là tôi cũng bạn thân với Thiếu Tá Ðịnh, tiểu đoàn trưởng thủy quân lục chiến. Vị đại úy này xác nhận Thiếu Tá Ðịnh là tiểu đoàn trưởng của ông ta (điều này tôi đã biết, nhưng giả như không biết để khỏi chạm tự ái). Ông ta nói chuyện với Thiếu Tá Ðịnh, sau đó trao máy cho tôi để nói chuyện.
Thiếu Tá Ðịnh cho tôi biết quân đoàn đã đi hết, đã bỏ ngõ, thủy quân lục chiến cũng đang tự tìm cách về Sài Gòn, chưa biết tính sao đây. Thế là hết! Tôi trả máy lại cho đại úy thủy quân lục chiến.
Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý gọi tất cả sĩ quan đến gặp tôi. Bây giờ là 9 giờ 30 sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975 tại chùa Non Nước, Ðà Nẵng. Vị đại úy thủy quân lục chiến cũng báo cho tôi biết là tôi được tự do vào Ðà Nẵng. Tôi chỉ nói cám ơn. Chiến xa nổ máy quay đầu chạy lui về Ðà Nẵng có tùng thiết thủy quân lục chiến theo. Thiếu Tá Ðịnh thủy quân lục chiến cũng cho tôi biết không còn phương tiện vào Sài Gòn nữa, chính đơn vị ông ta cũng phải tự lo liệu lấy. Không ai chỉ huy nữa. Hải quân ở Tiên Sa cũng nhổ neo hết rồi.
Tất cả sĩ quan đã có mặt. Tôi trình bày tình hình quân đoàn, hải quân do Thiếu Tá Ðịnh cho biết và chính ông ta cũng không biết phải xử trí như thế nào. Tôi nói:
- Tôi đã cùng quân nhân các cấp trong tiểu đoàn chiến đấu bên nhau bấy lâu nay, nhất là sau Tết cho đến bây giờ, tình hình chiến sự sôi động, gian lao khổ cực cùng anh em. Tôi đã đoán được tình hình, cố gắng đưa tiểu đoàn về đây để được cùng nhau vào Sài Gòn tiếp tục chiến đấu. Nhưng bây giờ, sự việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta, tôi rất đau khổ về sự việc này.
Tôi cũng kể về sự tiếp xúc của tôi và Thiếu Tá Ðịnh thủy quân lục chiến, sự suy luận của tôi, sự hiểu biết về tình hình của tôi cho tất cả nghe, và tôi nói tiếp:
- Không nên tập trung cả đại đội, sợ bị tấn công bất thường, chỉ từng trung đội, giải thích cho họ hiểu, thông cả tìm cách vào Sài Gòn hoặc về gia đình tùy ý. Quyền chỉ huy bây giờ tuy nghi các anh lo liệu. Nếu ai về nhà thì vũ khí nên phá hủy đừng để vào tay Việt Cộng. Các bạn tự do thi hành theo ý mình, điều cần nhất là phải an ủi, giải thích cho lính hiểu tâm trạng của chúng ta bây giờ.
Có nhiều người lưỡng lự chưa muốn đi. Lúc này, tôi như cái xác không hồn, ngồi xuống đất, dựa vào cổng trụ cửa ngõ của một nhà bên đường xem phản ứng của quân nhân các cấp của tiểu đoàn như thế nào. Các sĩ quan đã đến chia xẻ sự đau khổ của tôi, mỗi người một ý.
10 giờ 30 sáng ngày 29 Tháng Ba, 1975, tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung đội tình báo của ban 2 vẫn đứng quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân.
Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng đến đứng trước mặt tôi nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồ nói: ”Chắc em không vào Sài Gòn đâu thiếu tá. Cả quân đoàn không một trận đánh nào mà đã bỏ đi cả, em thấy chán quá rồi! Em chúc thiếu tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được Sài Gòn.”
Cái xác không hồn của tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã, nói:
- Tao bây giờ không biết tính sao, tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây để cùng vào Nam song không ngờ như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay tao rồi.
Vợ Trung Sĩ I Thoảng và hai con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi, cùng đi với tiểu đoàn từ hôm qua. Chị ta bước tới trước mặt tôi và nói: “Em chúc thiếu tá lên đường bình an, vào cho được Sài Gòn nghe thiếu tá. Chứ Việt Cộng, đến cỡ thiếu tá, nó giết chứ không tha đâu.”
Tôi đứng dậy xoa đầu hai đứa nhỏ đang đứng bên mẹ, có lẻ đó là phản ứng lịch sự đối với đàn bà chứ tôi có đến nhà chị ta mấy lần rồi nên cũng thường thôi. Tôi nói:
- Tôi cũng không biết có đi được không, đến đâu hay đó. Thoảng (Trung Sĩ I Thoảng thua tôi khoảng 5 tuổi) thì chắc nó không giết đâu vì nó cấp bậc nhỏ mà nó là chiến tranh chính trị ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
- Cám ơn thiếu tá. Chúc thiếu tá thượng lộ bình an.
Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần nữa. Tôi cũng không chào lại, đưa tay bắt và nói:
- Thôi mày về đi, tùy tình hình địa phương mà sống chắc không can gì đâu.
Anh ta đến chào Ðại Úy Hà Thúc Thuyên, tiểu đoàn phó, các đại úy trưởng ban 2 và ban 3 tiểu đoàn rồi từ giã ra đi. Ðến lúc này chỉ còn những sĩ quan đó và khoảng 20 lính của trung đội tình báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi xuống đất dựa vào trụ vôi. Ðại Úy Thuyên đến nói: “Thôi mình cứ về Ðà Nẵng rồi hãy tính”.
Tôi đang chán nản chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe tiếng nổ lớn phía sau nhà tôi đang ngồi. Lính tôi ngồi xuống trong thế sẵn sàng tác chiến. Tôi nói: “Minh, mày ra xem cái gì đó”. Minh đi với hai người lính nữa, sau hơn 5 phút chạy lui, trả lời: “Thiếu Tá ơi! Ông Trung Sĩ Thoảng tự tử bằng lựu đạn với vợ con ông ta rồi!”
Tôi quá bàng hoàng và xúc động, tự nhiên bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên la đau đớn, sự nhắn gửi trối trăn của thuộc cấp sắp chết mặc dù tôi rất xúc động, tôi cũng có trái tim biết đau khổ nhưng tôi tự kềm chế không bao giờ khóc, nhiều lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về tình cảm của tôi. Thế mà hôm nay không hiểu sao tôi lại bậc khóc, có lẽ đây là lần khóc đầu tiên và cũng là lần khóc cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối với thuộc cấp. Tôi nói:
- Nó chết ở đâu?
- Ổng chết ở nhà kia.
Theo tay chỉ của Minh thì sau căn nhà đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người lính bảo vệ tôi cũng đi theo. Căn nhà tôn nhỏ xây vách chung quanh. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi thể không toàn vẹn, một xách áo quần, mền còn bỏ lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, da thịt tung tóe dính cả vào tường.
Tôi không nói gì, quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các binh sĩ theo tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường. Người lính đi theo sau tôi nói:
- Ông Thoảng và vợ ông là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Ðảng đó thiếu tá.
Bây giờ là 12 giờ ngày 29 Tháng Ba, 1975.
Một trung sĩ cấp bậc quá nhỏ so với tôi. Một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng có lúc gọi bằng “thằng”, một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi thế cho thân mật, có những lỗi lầm mà tôi đã rầy la đôi khi còn nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải gọi là ông. Ông Thoảng với lòng tôn kính vì đây là một vị anh hùng hơn tôi rất nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với Cộng Sản.
Hôm nay, tôi viết để vinh danh một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho con cháu sau này biết đến.
Xin nghiêng mình tôn vinh một vị anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hai giờ chiều ngày 29 Tháng Ba, 1975, Việt Cộng đã treo cờ ở Tòa Thị Chính Ðà Nẵng.
Trương Quang Chung
(Khóa 11 – Thủ Ðức)
hung-viet.org
Sinh Tồn chuyển