Di Sản Hồ Chí Minh
Nguyễn Minh Tuấn - Trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết
Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2 loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là “trí thức vô trách nhiệm”.
“Trí thức và vai trò của trí thức” hay “câu chuyện về trí thức” là một
đề tài không mới, nhưng chưa bao giờ cũ. Đây cũng là một đề tài rất phức
tạp và dễ gây tranh cãi, nhưng là một đề tài đầy ý nghĩa đối với bất cứ
xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào. Có rất nhiều góc nhìn khác nhau
về trí thức, mỗi góc nhìn lại cho ta một cách hiểu về trí thức và vai
trò của trí thức. Nếu ta có được nhiều góc nhìn về một vấn đề thì ta sẽ
có cơ hội hiểu vấn đề đó một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, vì khi đó không
chỉ thấy “cây”, mà còn thấy “rừng”.
Trong phạm vi bài viết này, từ một góc nhìn, tôi cho rằng, trí thức là
người có trí và luôn dùng cái trí của mình để góp phần thức tỉnh xã hội
nhằm hướng mọi người đến cái đúng và cái đẹp.
Nếu ai đó “có trí” (sự hiểu biết) nhưng lại “không thức” (không thức
tỉnh xã hội) mà để cho xã hội “ngủ” thì bị gọi là “trí ngủ”, chứ không
phải là “trí thức”. Nếu ai đó thích làm cái việc của trí thức là “đánh
thức xã hội” nhưng lại “thiểu trí”, “lệch trí” hay “vô trí” thì gọi là
“trí dỏm” (cũng có học hàm, học vị nhưng đầu óc lại trống rỗng, hoặc
cũng có chút hiểu biết nhưng hiểu biết đó lại thể hiện sự lệch lạc và ẫu
trĩ). Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động
cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2
loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là
“trí thức vô trách nhiệm”.
Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người “trí thức”, đó
là: (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) “thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục
đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến
cái chân-thiện-mỹ). Nếu không hội đủ cả 3 điều kiện này (mà chỉ có 1 hay
2 trong 3 điều kiện) thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí
gian”, chứ không phải là “trí thức”. Hay nói một cách nôm na, trí thức
là người “có Trí”, “có Thức” và “có Tâm” (có 3T).
Từ cách hiểu này, chúng ta có thể thấy rằng, bàn về trí thức hay bàn về
vai trò của trí thức thực chất cũng chính là bàn về trách nhiệm xã hội
của những người hiểu biết.
Tôi rất thích một câu nói của Einstein “Thế giới này là một nơi nguy
hiểm, không phải vì những kẻ xấu xa mà vì những người chỉ biết đứng nhìn
và không làm gì cả”. Câu nói này nói về trách nhiệm xã hội (trách nhiệm
“làm người”) của một người bình thường đối với cái xã hội hay cái cộng
đồng mà mình đang sống. Một người bình thường vô cảm thì đáng phê phán,
còn một người có hiểu biết sâu sắc và được lắng nghe mà yên lặng thì còn
đáng phê phán hơn. Một người bình thường còn có trách nhiệm xã hội như
vậy, đối với những người có hiểu biết thì trách nhiệm xã hội này còn lớn
hơn.
Nói cách khác, vai trò của những người có hiểu biết là: dùng sự hiểu
biết (và cả uy tín) của mình để góp phần giúp cộng đồng phân định rõ hơn
sự đúng-sai, phải trái, chân-giả, thiện-ác, hay-dở, tốt-xấu, nên-không
nên… trước những vấn đề chung mà xã hội đã, đang và sẽ gặp phải hay trải
qua; dùng sự hiểu biết của mình để truyền bá tinh thần, tư tưởng, quan
điểm mà mình tin là cần thiết để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển
theo hướng tiến bộ; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần xác lập những
chuẩn mực xã hội, những thang giá trị xã hội và đồng thời ra sức bảo vệ
những chuẩn mực và giá trị đó; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần
định hướng, định hình xã hội… Tất nhiên sự phân định, sự truyền bá, sự
xác lập hay sự định hướng, định hình này cũng cần phải dựa trên cái nền
là những giá trị vượt không gian và vượt thời gian, những giá trị có
tính phổ quát của thế giới đương đại hay thế giới tương lai.
Và tất nhiên, để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thì người hiểu
biết có thể nói, có thể viết, hay có thể làm gì đó (bởi lẽ không phải
tất cả những người hiểu biết đều giỏi nói hay giỏi viết). Vì làm một
điều tốt cũng là cách gián tiếp góp phần đấu tranh tiêu diệt cái xấu;
làm một điều đúng, cũng là cách gián tiếp góp phần chỉ cho người khác
thấy những cái sai…
Thêm nữa, khi nói đến trí thức là nói đến vấn đề “chân lý”. Không ai
được phép độc quyền chân lý, nhưng ai cũng được quyền góp phần xác lập
chân lý. Giới trí thức thường tự phân biệt giới mình với những giới khác
ở chỗ luôn nỗ lực khám phá chân lý, xác lập chân lý và bảo vệ chân lý.
Đó cũng là lý do vì sao mà người ta thường nói, chân lý thường không
thuộc về số đông hay “kẻ mạnh”, mà thường thuộc về những người có hiểu
biết (hay còn gọi là giới trí thức, giới tinh hoa). Nếu chân lý có thuộc
về “kẻ mạnh” (nhưng thiếu hiểu biết) thì điều đó chắc chắn cũng chỉ là
tạm thời mà thôi.
Khi bàn về trí thức thì người ta thường bàn về vai trò, trách nhiệm,
công việc, sứ mệnh, thiên chức của trí thức. Tuy nhiên, cũng cần phải
bàn về “điểm mù” của trí thức, dù trí thức có cái trí hơn người. Bởi lẽ,
trí thức cũng là con người, mà đã là con người thì cũng sẽ có cái nhầm,
có lúc sai mà mình không hề biết; Bởi lẽ, trí thức cho dù có trí thế
nào đi nữa thì sự hiểu biết vẫn chỉ là hữu hạn. Điểm mù ở đây được hiểu
là “mình không biết cái mà mình không biết” hay “mình cứ tưởng mình hiểu
rất rõ một thứ nhưng thực ra mình chẳng hiểu gì cả hay hiểu một cách
lệch lạc”. Khi chia sẻ, tranh luận hay góp ý sẽ giúp mỗi người nhìn thấy
điểm mù của người và của mình. Khi nhận ra điểm mù của mình cũng là lúc
“mình biết rõ cái mà mình không biết”; và khi nhận ra những “cái mà
mình không biết” cũng là lúc cảm thấy mình thực sự hiểu biết. Đó cũng là
điều kiện để mình có thể hiểu biết thực sự và là cơ hội để đẩy nhận
thức và hiểu biết của mình đi xa hơn.
Do vậy, cùng với trách nhiệm “thức tỉnh xã hội” thì trí thức cũng có một
trách nhiệm với bản thân là liên tục “phản tỉnh chính mình”, phản tỉnh
với những điểm mù (nếu có) của mình. Nếu không liên tục “phản tỉnh chính
mình” hay thậm chí là “phản tư chính mình” thì người hiểu biết sẽ dễ
trở thành người ít hiểu biết hay người ấu trĩ trong một số vấn đề (kể cả
những vấn đề thuộc chuyên môn hay sở trường của mình), và khi đó sẽ
không chỉ khó thực hiện được tốt cái vai trò “thức tỉnh xã hội” vốn có
của mình, mà còn có thể gây nguy hại cho xã hội.
Ở bất cứ xã hội nào thì sứ mệnh của trí thức vẫn thế. Và đối với những
xã hội mà trong đó còn đầy rẫy sự bất thường thì một trong những sứ mệnh
lớn nhất của trí thức chắc hẳn là góp phần đưa sự bất thường đó trở về
sự bình thường. Nói cách khác, trong những xã hội mà sự bất thường của
sự việc, sự vô minh của cái đầu, vô cảm của trái tim đang bao trùm thì
trách nhiệm của người trí thức, của những người có hiểu biết còn nặng nề
hơn (vì có quá nhiều cái cần phải khai sáng, cần phải thức tỉnh) và
nguy hiểm hơn (vì không dễ dàng gì để làm cái chuyện khai sáng hay thức
tỉnh trong những xã hội này).
Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…
Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…
Sài Gòn, 25/01/2012
Sau khi GS. Ngô Bảo Châu chia sẻ ý kiến của mình trên Báo Tuổi trẻ đã
có rất nhiều những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau luận bàn
về vấn đề thế nào là “trí thức”. Tạm gác lại những khía cạnh khác, chỉ
xét riêng về khía cạnh trao đổi thuật ngữ thì thấy có hai luồng ý kiến:
Người thì đồng tình cho rằng trí thức là lao động trí óc, việc đánh giá
là dựa trên kết quả, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.
Người thì phản đối cho rằng trí thức không chỉ là người chú trọng đến
chuyên môn hẹp của mình, mà cần phải là một nhà khoa học có lương tri,
nhìn thẳng vào thực trạng xã hội, dấn thân vì cộng đồng, phản biện, lên
tiếng vì dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Tôi nghĩ mỗi người vốn dĩ không ai giống ai, từng người tùy theo sức
lực, khả năng, sự đam mê mà lựa chọn cách thức, con đường đi riêng cho
mình. Những trí thức có cách cống hiến bằng chính kết quả lao động hoặc
bằng những hành động cụ thể của mình góp ích cho xã hội thì đã là đáng
quí.
Những trí thức mà không những giỏi chuyên môn, ngoài ra còn thể hiện sự
cảm thông trước nỗi đau của người dân, dám lên tiếng phản biện, dùng trí
của mình để dẫn dắt, thức tỉnh xã hội thì lẽ dĩ nhiên sẽ còn đáng quí
hơn. Như vậy, có thể thấy về bản chất giữa các khái niệm “trí thức” hay
“trí thức của công chúng” theo tôi không hề có sự mâu thuẫn.
Phản biện xã hội thời nào cũng cần, vì đó chính là tác nhân quan trọng
thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên khi liên hệ với trường hợp Việt
Nam cũng nên đặt ngược lại vấn đề liệu dư luận xã hội, thể chế ở Việt
Nam đã đủ rộng lượng, đủ khoan dung, luật pháp Việt nam đã đủ thông
thoáng để mở đường cho phản biện và tiếp thu phản biện chưa? Cần phải
làm gì để cải thiện tình hình hiện nay và cần bắt đầu từ đâu?
Nguyễn Minh Tuấn
(Blog Nguyễn An Dân)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
Nguyễn Minh Tuấn - Trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết
Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2 loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là “trí thức vô trách nhiệm”.
“Trí thức và vai trò của trí thức” hay “câu chuyện về trí thức” là một
đề tài không mới, nhưng chưa bao giờ cũ. Đây cũng là một đề tài rất phức
tạp và dễ gây tranh cãi, nhưng là một đề tài đầy ý nghĩa đối với bất cứ
xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào. Có rất nhiều góc nhìn khác nhau
về trí thức, mỗi góc nhìn lại cho ta một cách hiểu về trí thức và vai
trò của trí thức. Nếu ta có được nhiều góc nhìn về một vấn đề thì ta sẽ
có cơ hội hiểu vấn đề đó một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, vì khi đó không
chỉ thấy “cây”, mà còn thấy “rừng”.
Trong phạm vi bài viết này, từ một góc nhìn, tôi cho rằng, trí thức là
người có trí và luôn dùng cái trí của mình để góp phần thức tỉnh xã hội
nhằm hướng mọi người đến cái đúng và cái đẹp.
Nếu ai đó “có trí” (sự hiểu biết) nhưng lại “không thức” (không thức
tỉnh xã hội) mà để cho xã hội “ngủ” thì bị gọi là “trí ngủ”, chứ không
phải là “trí thức”. Nếu ai đó thích làm cái việc của trí thức là “đánh
thức xã hội” nhưng lại “thiểu trí”, “lệch trí” hay “vô trí” thì gọi là
“trí dỏm” (cũng có học hàm, học vị nhưng đầu óc lại trống rỗng, hoặc
cũng có chút hiểu biết nhưng hiểu biết đó lại thể hiện sự lệch lạc và ẫu
trĩ). Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động
cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2
loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là
“trí thức vô trách nhiệm”.
Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người “trí thức”, đó
là: (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) “thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục
đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến
cái chân-thiện-mỹ). Nếu không hội đủ cả 3 điều kiện này (mà chỉ có 1 hay
2 trong 3 điều kiện) thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí
gian”, chứ không phải là “trí thức”. Hay nói một cách nôm na, trí thức
là người “có Trí”, “có Thức” và “có Tâm” (có 3T).
Từ cách hiểu này, chúng ta có thể thấy rằng, bàn về trí thức hay bàn về
vai trò của trí thức thực chất cũng chính là bàn về trách nhiệm xã hội
của những người hiểu biết.
Tôi rất thích một câu nói của Einstein “Thế giới này là một nơi nguy
hiểm, không phải vì những kẻ xấu xa mà vì những người chỉ biết đứng nhìn
và không làm gì cả”. Câu nói này nói về trách nhiệm xã hội (trách nhiệm
“làm người”) của một người bình thường đối với cái xã hội hay cái cộng
đồng mà mình đang sống. Một người bình thường vô cảm thì đáng phê phán,
còn một người có hiểu biết sâu sắc và được lắng nghe mà yên lặng thì còn
đáng phê phán hơn. Một người bình thường còn có trách nhiệm xã hội như
vậy, đối với những người có hiểu biết thì trách nhiệm xã hội này còn lớn
hơn.
Nói cách khác, vai trò của những người có hiểu biết là: dùng sự hiểu
biết (và cả uy tín) của mình để góp phần giúp cộng đồng phân định rõ hơn
sự đúng-sai, phải trái, chân-giả, thiện-ác, hay-dở, tốt-xấu, nên-không
nên… trước những vấn đề chung mà xã hội đã, đang và sẽ gặp phải hay trải
qua; dùng sự hiểu biết của mình để truyền bá tinh thần, tư tưởng, quan
điểm mà mình tin là cần thiết để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển
theo hướng tiến bộ; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần xác lập những
chuẩn mực xã hội, những thang giá trị xã hội và đồng thời ra sức bảo vệ
những chuẩn mực và giá trị đó; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần
định hướng, định hình xã hội… Tất nhiên sự phân định, sự truyền bá, sự
xác lập hay sự định hướng, định hình này cũng cần phải dựa trên cái nền
là những giá trị vượt không gian và vượt thời gian, những giá trị có
tính phổ quát của thế giới đương đại hay thế giới tương lai.
Và tất nhiên, để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thì người hiểu
biết có thể nói, có thể viết, hay có thể làm gì đó (bởi lẽ không phải
tất cả những người hiểu biết đều giỏi nói hay giỏi viết). Vì làm một
điều tốt cũng là cách gián tiếp góp phần đấu tranh tiêu diệt cái xấu;
làm một điều đúng, cũng là cách gián tiếp góp phần chỉ cho người khác
thấy những cái sai…
Thêm nữa, khi nói đến trí thức là nói đến vấn đề “chân lý”. Không ai
được phép độc quyền chân lý, nhưng ai cũng được quyền góp phần xác lập
chân lý. Giới trí thức thường tự phân biệt giới mình với những giới khác
ở chỗ luôn nỗ lực khám phá chân lý, xác lập chân lý và bảo vệ chân lý.
Đó cũng là lý do vì sao mà người ta thường nói, chân lý thường không
thuộc về số đông hay “kẻ mạnh”, mà thường thuộc về những người có hiểu
biết (hay còn gọi là giới trí thức, giới tinh hoa). Nếu chân lý có thuộc
về “kẻ mạnh” (nhưng thiếu hiểu biết) thì điều đó chắc chắn cũng chỉ là
tạm thời mà thôi.
Khi bàn về trí thức thì người ta thường bàn về vai trò, trách nhiệm,
công việc, sứ mệnh, thiên chức của trí thức. Tuy nhiên, cũng cần phải
bàn về “điểm mù” của trí thức, dù trí thức có cái trí hơn người. Bởi lẽ,
trí thức cũng là con người, mà đã là con người thì cũng sẽ có cái nhầm,
có lúc sai mà mình không hề biết; Bởi lẽ, trí thức cho dù có trí thế
nào đi nữa thì sự hiểu biết vẫn chỉ là hữu hạn. Điểm mù ở đây được hiểu
là “mình không biết cái mà mình không biết” hay “mình cứ tưởng mình hiểu
rất rõ một thứ nhưng thực ra mình chẳng hiểu gì cả hay hiểu một cách
lệch lạc”. Khi chia sẻ, tranh luận hay góp ý sẽ giúp mỗi người nhìn thấy
điểm mù của người và của mình. Khi nhận ra điểm mù của mình cũng là lúc
“mình biết rõ cái mà mình không biết”; và khi nhận ra những “cái mà
mình không biết” cũng là lúc cảm thấy mình thực sự hiểu biết. Đó cũng là
điều kiện để mình có thể hiểu biết thực sự và là cơ hội để đẩy nhận
thức và hiểu biết của mình đi xa hơn.
Do vậy, cùng với trách nhiệm “thức tỉnh xã hội” thì trí thức cũng có một
trách nhiệm với bản thân là liên tục “phản tỉnh chính mình”, phản tỉnh
với những điểm mù (nếu có) của mình. Nếu không liên tục “phản tỉnh chính
mình” hay thậm chí là “phản tư chính mình” thì người hiểu biết sẽ dễ
trở thành người ít hiểu biết hay người ấu trĩ trong một số vấn đề (kể cả
những vấn đề thuộc chuyên môn hay sở trường của mình), và khi đó sẽ
không chỉ khó thực hiện được tốt cái vai trò “thức tỉnh xã hội” vốn có
của mình, mà còn có thể gây nguy hại cho xã hội.
Ở bất cứ xã hội nào thì sứ mệnh của trí thức vẫn thế. Và đối với những
xã hội mà trong đó còn đầy rẫy sự bất thường thì một trong những sứ mệnh
lớn nhất của trí thức chắc hẳn là góp phần đưa sự bất thường đó trở về
sự bình thường. Nói cách khác, trong những xã hội mà sự bất thường của
sự việc, sự vô minh của cái đầu, vô cảm của trái tim đang bao trùm thì
trách nhiệm của người trí thức, của những người có hiểu biết còn nặng nề
hơn (vì có quá nhiều cái cần phải khai sáng, cần phải thức tỉnh) và
nguy hiểm hơn (vì không dễ dàng gì để làm cái chuyện khai sáng hay thức
tỉnh trong những xã hội này).
Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…
Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…
Sài Gòn, 25/01/2012
Sau khi GS. Ngô Bảo Châu chia sẻ ý kiến của mình trên Báo Tuổi trẻ đã
có rất nhiều những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau luận bàn
về vấn đề thế nào là “trí thức”. Tạm gác lại những khía cạnh khác, chỉ
xét riêng về khía cạnh trao đổi thuật ngữ thì thấy có hai luồng ý kiến:
Người thì đồng tình cho rằng trí thức là lao động trí óc, việc đánh giá
là dựa trên kết quả, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.
Người thì phản đối cho rằng trí thức không chỉ là người chú trọng đến
chuyên môn hẹp của mình, mà cần phải là một nhà khoa học có lương tri,
nhìn thẳng vào thực trạng xã hội, dấn thân vì cộng đồng, phản biện, lên
tiếng vì dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Tôi nghĩ mỗi người vốn dĩ không ai giống ai, từng người tùy theo sức
lực, khả năng, sự đam mê mà lựa chọn cách thức, con đường đi riêng cho
mình. Những trí thức có cách cống hiến bằng chính kết quả lao động hoặc
bằng những hành động cụ thể của mình góp ích cho xã hội thì đã là đáng
quí.
Những trí thức mà không những giỏi chuyên môn, ngoài ra còn thể hiện sự
cảm thông trước nỗi đau của người dân, dám lên tiếng phản biện, dùng trí
của mình để dẫn dắt, thức tỉnh xã hội thì lẽ dĩ nhiên sẽ còn đáng quí
hơn. Như vậy, có thể thấy về bản chất giữa các khái niệm “trí thức” hay
“trí thức của công chúng” theo tôi không hề có sự mâu thuẫn.
Phản biện xã hội thời nào cũng cần, vì đó chính là tác nhân quan trọng
thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên khi liên hệ với trường hợp Việt
Nam cũng nên đặt ngược lại vấn đề liệu dư luận xã hội, thể chế ở Việt
Nam đã đủ rộng lượng, đủ khoan dung, luật pháp Việt nam đã đủ thông
thoáng để mở đường cho phản biện và tiếp thu phản biện chưa? Cần phải
làm gì để cải thiện tình hình hiện nay và cần bắt đầu từ đâu?
Nguyễn Minh Tuấn
(Blog Nguyễn An Dân)