Mũ Đỏ Bùi Đức Lạc
Một sự thật…….Từ lâu tôi muốn viết về đề tài này, nhưng chưa viết được, vì sự việc chưa ngã ngũ ra sao! Đến nay kể như không còn vớt vát được nữa, nên tôi cảm thấy thanh thản viết, tôi không muốn mang tiếng là phản bội, những em bé tật nguyền của xứ sở tôi, những em bé người ta cho là do ảnh hưởng tác hại của Chất Độc Da Cam?
Bây giờ không còn gì để nói nữa, vì việc ăn vạ không còn phù hợp với thời đại này, khi cần mẫu thử nghiệm, để chứng minh những em bé khốn khổ này bị tác hại vì nguyên do nào? Năm 2000 phái đoàn tìm hiểu sự thật, lúc đầu đã lấy được mẫu thử nghiệm, từ những nạn nhân được cho là bị ảnh hưởng bởi thuốc khai quang, (thuốc độc da cam) nhưng khi ra đến phi trường, thì những mẫu thử nghiệm này bị giữ lại và kể từ đó chính nạn nhân cũng (được lệnh) từ khước luôn, không cho lấy mẫu tế bào cần thiết để thử nghiệm nữa, (có lẽ sợ các khoa học gia tìm ra sự thực, hay sợ các khoa học gia đổi mẫu thử nghiệm chăng? Yếu tố chính có lẽ là, sợ các khoa học gia khám phá ra rằng: Những trẻ em này bị tật nguyền là do cha mẹ uống rượu có pha thuốc giết rầy..v..v..Hay sì-ke, ma túy) nên dư luận quần chúng Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu nghi ngờ từ đó, vì không có bằng cớ xác thực là những trẻ em vô tội này bị thương tổn vì đâu?
Thời nay không thể ngụy tạo bằng cớ được, nên đành thất bại. Ở các nước văn minh ngụy tạo được tin tức, xào xáo tin tức làm sao cho quần chúng tin tưởng vào tin tức của mình, là chiến thắng trong tầm tay, vì quần chúng có khi lái cả chính quyền theo ý của quần chúng, có khi dư luận quần chúng theo một chiều, không cần biết đúng hay sai ! ! ! Chiến tranh Việt Nam là một dẫn chứng, nhưng khoa học thực nghiệm thì không thể ngụy tạo được! Các mẫu thử nghiệm không thể nào có kết quả khác được, cơ quan khác, quốc gia khác có thể làm lại để kiểm chứng dễ dàng, vì danh dự cá nhân, vì danh dự nghề nghiệp, vì danh dự quốc gia nên không ai cả gan, giám ngụy tạo kết quả trong phòng thí nghiệm.
Mùa Xuân năm nay, mùa Xuân hướng về tương lai dân tộc……..Trở lại chuyện ngày xửa ngày xưa một khi cô gái nhà lành nói có bầu với vị thầy tu, lập tức vị thầy tu đó bị kết án ngay, người ta không cần điều tra hư thực, mà chỉ nghe rồi dựa vào lời khai để buộc tội, dựa vào tin đồn để kết án, một lý luận khôi hài do những người có quyền xử án lúc bấy giờ đưa ra; “Tại sao cô ta không đổ tội người khác, mà cô ta lại đổ tội cho thầy, như vậy chắc chắn thầy phải có gì đó, không có lửa sao có khói được”; nhưng thời nay vu oan kiểu như vậy, không có thể tồn tại được, việc xác định bào thai đó của ai chỉ cần một cuộc thử nghiệm kết quả có liền trong ngày, việc xác định tội trạng phải có kết quả của khoa học thực nghiệm, không thể u u….mê mê được nữa!
Không biết ai có niềm lo âu về tội lỗi khác hay không? Nhưng đối với tôi thì tội phản bội có lẽ là nặng nhất, phản bội bạn bè, phản bội người yêu, phản bội người thương, phản bội quê hương dân tộc, phản bội lại trẻ thơ……Nói cho cùng đã ghép phải tội phản bội thì là người không đáng chơi nữa…….Từ phản bội nó gây ra bao nhiêu tội ác tầy đình; năm đó nếu tôi còn đi học chương trình ở ngoài thì tôi học đệ tứ, vì hoàn cảnh tôi theo học bách nghệ đã được gần hai năm, một buổi sáng đầu hè năm 1953 đang trong giờ học lý thuyết với thầy Tín, nhìn qua cửa sổ ra ngoài thấy dân chúng lũ lượt, đi trên đường ngay trước trường học, đi về phía phố cũ và nhà ga xe lửa, cả thầy lẫn trò ai cũng tò mò nhớn nhác nhìn ra đường, đây là một hiện tượng lạ chưa bao giờ xẩy ra nơi thị xã nhỏ bé này.
Vừa tan lớp chúng tôi ùa ra hỏi thăm, mới biết được là: Dân chúng đi coi “Trăn cuốn người” ngay dưới khu phố cũ; cả lớp ai nghe tin này cũng đều ngạc nhiên như nhau và đặt dấu hỏi tại sao trăn lại có thể về khu phố cũ được, nếu trên phố mới gần rừng thỉnh thoảng còn nghe thú rừng lai vãng, còn phố cũ thì tuyệt nhiên không bao giờ thú rừng có thể về đó được, hỏi những người đã xem rồi đang ra về ai cũng chỉ mỉm cười, các cô gái che mặt thẹn thùng không trả lời, cô nào chịu chơi lắm cũng chỉ trả lời bâng quơ:
-Lại coi thì biết.
Đó chính là yếu tố làm chúng tôi phải “lại coi cho biết” mới được, cả lớp ùn ùn kéo nhau đi về hướng nhà ga theo đoàn người hiếu kỳ, trời nắng chang chang một vài cơn lốc nhẹ nhàng cuốn bụi than dưới đường, làm mọi người phải che mặt, nín thở cho cơn bụi than đen bay qua, tiếng ve sầu từ đồi thông vọng xuống như một ban nhạc lớn hòa vào lòng người nghe “khúc nhạc tương tư, bi ai”.
Thế rồi chúng tôi cũng chen chân vào căn nhà chật hẹp, khu nhân công sở than trú ngụ, ôi “trăn cuốn người” còn đó, như một cuộc triển lãm có chủ đề, thân nhân đang chờ sở cẩm đến quyết định tận mắt, tang vật đầy đủ tại hiện trường, ai cũng bàng hoàng không phải trăn cuốn người mà là “chăn cuốn người”.
Anh chàng phu mỏ còn rất trẻ, anh chàng xấu số này có cô vợ lẳng lơ, cứ mỗi ngày anh phải thức giấc lúc 4: giờ sáng chuẩn bị mọi thứ, để rời nhà sau nửa tiếng sửa soạn, tới bến xe của sở đón nhân công đi Cọc Sáu, cho kịp giờ xe chạy lúc 5. giờ đúng như lịch trình đã định hằng ngày, theo người biết chuyện nói: “Anh chồng ra khỏi nhà mươi phút thôi, tức thì cô vợ mở cửa đón người tình vào nhà, dệt khúc gian phu dâm phụ”, anh chàng gian phu này là lính của sở than, chuyên lo canh gác những khu cơ sở “nhà máy” của sở than, dân chúng thường gọi là “lính sở”. Người chồng sau khi được cho biết tin chính xác như vậy, anh im lặng không lộ cho vợ biết mình bị mọc sừng, anh tự đặt kế hoạch! Hoạn Thành số một trên thế gian này, “hoạn thư là đàn bà, hoạn thành mới là đàn ông” giờ hành sự đã điểm, nên lúc 4 giờ rưỡi, thay vì ra bến xe của sở, để đón xe đi Cọc Sáu như mọi ngày, thì anh lại cầm cây choòng (xà beng) nhẹ nhàng leo lên mái nhà, xong nằm sấp trên mái ngay chỗ giường hai vợ chồng nằm, anh khoét một lỗ nhỏ nhìn xuống, pha cụp lạc bắt đầu, anh phóng ngay cây choòng bằng thép hình lục lăng dài trên 2 mét rưỡi, nặng khoảng chừng 10 kg đầu mài nhọn hoắt, cây choòng này hằng ngày anh dùng để đâm (đào) than trên sở làm, nó thông dụng như vậy, phu mỏ than đàn ông ai cũng cần nó, cho nên rất dễ mất, hằng ngày anh phải vác choòng đi rồi vác choòng về, nâng niu quí mến cây choòng, vì ngày ngày cây choòng này chính là cần câu cơm của anh, bây giờ anh phải xử dụng nó để thỏa mãn tự ái……….Không biết anh chồng điều khiển làm sao mà cây choòng phóng xuống thật chính xác, nó xuyên từ lưng xuống ngực anh chàng lính sở, rồi xuyên qua ngực người vợ lăng loàn, còn sức cây choòng cắm xuống nền nhà bằng đất, sau đó anh chàng xấu số, nhưng thuộc loại ghen tương có tầm vóc này, không chạy trốn mà mở cửa tung ra, để cho mọi người chiêm ngưỡng cái tài dùng choòng của anh , không biết ai cám cảnh đã dùng chăn (mền) phủ lại nhưng chỉ phủ kín được lớp da dơ dáy phần dưới của hai người vì vướng cây choòng cắm sau lưng (giữa ngực) nên phần trên vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”, rồi người ta đồn lên là “trăn cuốn người”.
Cái thị xã nhỏ bé dân cư lúc đó khoảng chừng vài chục ngàn người, đa số là dân chúng từ những vùng đang xẩy ra giao tranh thường xuyên, nên chạy lánh loạn về đây an toàn hơn, hoặc nhà cửa tan nát vì bom đạn không nơi trú ngụ, thì đây là nơi đất lành, có người cả làng bị đốt cháy bằng địa nên tha phương cầu thực tới đây kiếm sống qua ngày, cũng có thành phần du thủ du thực trốn tránh cảnh sát về đây sinh sống, đất lành chim tứ xứ về đậu, nên cái thị xã nhỏ bé này rất nhiều chuyện quái đản xẩy ra, ngày đó địa phương không có phương tiện truyền thanh, cho dù là chuyện nhỏ như cái tin “Trăn cuốn người” ấy vậy mà tin đồn loan ra khắp thị xã rất nhanh, ai cũng ùn ùn đi coi, khi coi rồi không ai có thì giờ nói sự thực cho người khác biết, vả lại cũng muốn người khác mắc hợm như mình, tôi lúc đó chỉ thấy người vợ mắt trợn trừng miệng há hốc nằm dưới thân xác anh lính sở, anh này đầu ngọe vào bên trong nên không trông rõ mặt, cả hai đã tắt thở từ lâu! Chiếc choòng còn cắm xuống đất nguyên hiện trường, chưa ai dám rút ra, trông thật ghê rợn, không hiểu sao máu không chảy chan hòa trên mặt đất.
Câu chuyện trăn cuốn người như vậy xẩy ra cách nay trên nửa thế kỷ rồi, không ai hiểu rõ nguồn cơn, cứ thấy người ta đồn thì mình cũng đồn như vậy, thậm chí có người không thấy không biết cũng nhất quyết là “trăn cuốn người”, cái tin đồn như vậy rồi ai cũng cứ tin là đúng, thời xưa tin đồn làm hoang mang không phải là ít, nhưng thời nay vì có phương tiện truyền thanh, có các phương tiện khác mau chóng và chính xác, nên không còn là thời “chuẩn” của tin đồn nữa.
***
Năm 1971, chúng tôi tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719, qua Hạ Lào bằng đường bộ, rồi chúng tôi lui quân khỏi Bản Đông Nam Lào cũng bằng đường bộ, đơn vị tôi kéo 18 cây súng đại bác 105 ly kiểu M102 đầy đủ trở về (xin vui lòng xem cuốn Cơn Uất Hạ Lào), ra tới Đông Hà ngày 27 tháng 3 năm 1971, tôi nằm quỵ xuống không dậy nổi, đi đứng phải có người dìu thật cám cảnh, ảnh hưởng bởi thuốc trị bệnh bao tử do tôi cho toa, rồi tự mình hốt thuốc, suốt 45 ngày trong Hạ Lào, lúc đó thuốc trị đau bao tử của quân đội không hiệu nghiệm một chút nào, suốt cuộc chiến liên tục ngày đêm phải suy nghĩ, làm sao để làm tròn nhiệm vụ của mình, trong lúc các đơn vị bên ngoài nổ súng có kết quả, nên cơn đau hành hạ tôi không ngừng nghỉ, đau đến dõa mồ hôi hột, đau đến nằm lăn lộn cũng vẫn đau, đau như thắt ruột, sau vì đau quá cứ ôm bụng rũ người mà chịu trận, thầy lang Tây (Tính văn Trần hiện đang ở Houston, Texas) nhất mực đòi tản thương ra khỏi trận địa, đó không phải là phương pháp tốt nhất, tôi mới có một phương pháp (có nghiên cứu đàng hoàng), mỗi khi lên cơn đau……..Một ly rượu “cô nhác” êm ngay lập tức, quả thật tôi phục tài trị bệnh của tôi quá, mỗi khi uống thuốc đau bao tử kiểu này đầu óc sáng suốt vô cùng, tôi nói cách trị bệnh của tôi cho mấy ông lang Tây nghe, các ông ấy còn phục tôi hơn nữa! Tuy gục như vậy nhưng chỉ sau ba ngày uống thuốc có liều lượng (theo săn sóc ân cần của các thầy lang Tây), ăn uống điều hòa tôi thấy cuộc đời thơ thới hân hoan trở lại, tôi sang nhận Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 pháo binh, cả đơn vị từ Hạ Lào ra không có về hậu cứ Sài Gòn nghỉ ngơi, chúng tôi đáp xuống phi trường Pleiku, vào căn cứ hỏa lực số 6 thuộc Tân Cảnh, Kontum tham dự “Trận Chiến 13 Ngày”, sau khi thử lửa thấy sắt thép cũng còn khả quan chúng tôi về hậu cứ, lần này được nghỉ đàng hoàng, ngủ chưa quen giường là chúng tôi lên đường giải tỏa quốc lộ 22 từ Tây Ninh qua Thiện Ngôn tới Dambe của xứ Chùa Tháp và bây giờ là điều mà tôi thật sự muốn trình bầy cùng quí vị những điều tôi muốn nói một “Nỗi Đau” ray rứt tôi suốt hai mươi năm qua, mà làm sao viết cho đành, tôi muốn tâm sự với những người cần tìm hiểu về thuốc “Độc Hại Khai Quang Mầu Da Cam”, tôi không dám trình bầy trong thuốc có những chất hóa học gì (công thức có ngay trước mặt đây) nếu viết vào cũng chỉ là (nghe hơi nồi chõ) xin dành phần này cho các vị khác có thẩm quyền hơn, nỗi đau còn hay không còn mới là điều đáng nói?
Tòa án liên bang Hoa Kỳ đã tuyên án, tôi nghĩ dù có kháng cáo cũng không đi đến đâu nữa, bên nguyên đơn đưa ra bằng cớ, trưng bầy đầy đủ hình ảnh các nhân chứng cho rằng nỗi đau của trẻ thơ do ảnh hưởng của chất độc da cam, nếu thời của “tin đồn” thì thắng là cái chắc, nhưng ngày nay cần mẫu thử nghiệm (cũng như phương pháp DNA vậy), những em bé tật nguyền có đó, nhưng lấy gì để chứng minh những em bé sống không ra người này, là do chất độc da cam gây ra! người cha tự xưng là ông bị nhiễm thuốc độc Da Cam, nhân chứng xác nhận như vậy, loại nhân chứng này có hàng trăm người, (thiếu gì chạy đầy đường). Quên rằng người khác cũng có thể nói, những em bé này bị tàn tật như vậy là do kết quả của các thứ độc hại khác gây ra! Dân tộc tôi ôi sao lắm nực cười! Thời này không còn áp dụng luật pháp, hay lý lẽ theo thời tin đồn nữa! Trẻ thơ bị tật nguyền đúng quá đi thôi, đầy rẫy khắp quê hương, một Nỗi Đau bất tận cần tìm phương pháp xoa dịu, hầu như phương pháp giáo dục cho cha mẹ nạn nhân chưa có, một phu huynh cho biết “chị chưa nhận được một lời khuyên nên làm gì cho đứa con sau!”………Do đó Nỗi Đau có thể còn thêm nhiều nữa và do nhiều nguyên nhân gây ra mà lỗi là: Do cha mẹ khinh suất, do thiếu thuốc men, do thiếu giáo dục, do thiếu nhà thương điều trị, do bệnh hoạn khác ảnh hưởng đến thai nhi, ngay cả do người mẹ bị hành hạ lúc mang thai, do di truyền và trăm nghìn nguyên do khác..v..v..Những nước không chiến tranh không có rải thuốc khai quang, trẻ thơ vẫn bị tật nguyền và còn tệ hại hơn thế nữa, nếu quí vị đi du lịch sang nước khác kể cả các nước văn minh Âu Mỹ, không nói tới các nước Châu Phi vì các nước này không có chương trình giáo dục y tế rộng rãi cho dân chúng, nếu có lòng từ tâm xin mời vào các nhà thương nhi đồng dành cho các em bé đáng thương, quí vị cũng đã hoặc sẽ thấy nhiều trẻ thơ tật nguyền còn thê thảm hơn, nhưng có thử nghiệm và phân tích từng trường hợp và có kết luận, chẳng hạn như có em bị là do hậu quả của cha mẹ ghiền xì ke ma túy, có em tật nguyền do cha mẹ uống rượu quá nhiều, hay do ảnh hưởng bệnh hoạn về tình dục và rất nhiều nguyên do khác, đa phần do lỗi của cha mẹ, hoặc do di truyền..v..v..Tôi được xem hình những cô gái Trung Quốc tật nguyền vì bó chân cho nhỏ lại, nhưng thời kỳ phát triển……Xương vẫn mọc ra “không theo ý người” làm thành tật nguyền không đi được nữa. Đặc biệt dân tộc tôi thời điểm này thì tật nguyền đều là do thuốc độc da cam cả.!!! Cái mấu chốt của vần đề là không cho lấy mẫu “tế bào của chính nạn nhân” để thử nghiệm, hầu tìm ra nguyên do, các em xấu số này bị tật nguyền vì căn nguyên nào, mẫu thử nghiệm phải do chuyên viên thử nghiệm đến tận nơi lấy, không thể do bấy cứ ai cung cấp được, có chấp nhận như vậy mới là trò chơi văn minh, dù cho không may số phận ngắn ngủi nạn nhân vừa qua đời, thì cũng cần được giảo nghiệm để xác định nạn nhân do đâu mà phải chịu như vậy? Không thể tin vào lý luận của tin đồn được, càng không tin vào những nhân chứng, vì nhân chứng có hiểu gì đâu? Trong trường hợp bệnh hoạn như thế này tin vào nhân chứng được sao! ? Người làm nhà thương Lao chắc gì mắc bệnh Lao, nếu họ phòng ngừa cho đúng lời khuyên (giáo dục), người làm nhà thương Điên có thể mắc bệnh Điên hay không?
Trung tuần tháng 7 năm 1971, nguyên một Lữ Đoàn Nhảy Dù tham dự hành quân, chúng tôi có mặt dọc theo quốc lộ 22 chạy từ Tây Ninh sang Campuchia. Bộ Chỉ Huy đóng ngay bên ngoài căn cứ Thiện Ngôn ,Tây Ninh. Đây là lần thứ hai chúng tôi nhìn thấy rõ ràng thuốc khai quang rải bằng máy bay C123. Tôi xin thứ tự trình bầy hai lần này; Máy bay chỉ rải thuốc khai quang ở hai bên trục lộ, chiều ngang mỗi bên đường bị rải thuốc khai quang rộng khoảng từ hai cho đến ba trăm thước tây, không rải vào sâu trong rừng , chúng tôi vào mật khu được gọi là “bất khả xâm phạm” không thấy có dấu hiệu thuốc khai quang, nhưng nhiều mật khu khác có dấu hiệu có thuốc khai quang.
Nói một cách rõ ràng bất cứ mật khu nào, hay bất cứ một nơi nào, muốn rải thuốc khai quang đều phải có quân ta ở dưới, tại sao như vậy? Tôi xin được trình bầy ở đoạn sau……Hai lần này thuốc khai quang đều làm chúng tôi phải ướt nhẹ trên áo, giống như quí vị phải đi dưới mưa phùn vậy.
Đây là lần quan trọng nhất rõ ràng nhất vì chúng tôi “bợ nguyên mâm” là lần nguyên Lữ Đoàn Nhảy Dù với quân số trên hai ngàn người đều phải uống nước có thuốc khai quang trong đó, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù ngay bên cạnh căn cứ Hưng Đạo tức là giữa Thiện Ngôn và Trại Bí, Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù giữa căn cứ Phù Đổng (Peace) và căn cứ Thiện Ngôn, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tại căn cứ Phù Đổng (biên giới Miên Việt) nhưng quân trải dài đến gần ngã ba vào Dambe, vì là hành quân giải tỏa quốc lộ 22, nên tất cả các đơn vị chỉ trải quân dọc theo hai bên quốc lộ này, chúng tôi làm đầu cầu an toàn cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, Lữ Đoàn 3 trong đó có Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù (anh Nguyễn Đình Bảo làm tiểu đoàn trưởng), hợp cùng thiết giáp tấn công vào Dambe, vấn đề nước uống chúng ta phải tự túc không như quân đội đồng minh, quân ta gặp đâu có nước là uống, vì vậy nguyên Lữ đoàn mở đường phải uống nước có chứa sẳn tại các hố bom, đã được (mưa) thuốc khai quang xuống những hố nước này, nên ai cũng đều ăn uống cả tháng trời bằng nước có chất khai quang (chất độc da cam), tôi không hiểu người dùng chữ bị ảnh hưỡng bởi chất độc da cam là như thế nào? Như thế nào mới là ảnh hưởng? Còn chúng tôi phải hít thở khi chất độc da cam đang bay trên trời, chất độc da cam ngấm vào áo quần, thấm vào thân thể, ngoại trừ đầu đội nón sắt, phải uống nước có chất độc da cam trong nước, phải ngủ nằm trên mặt đất có chất độc da cam, không biết như vậy có là ảnh hưởng hay chưa?
Còn một lần khác nó xẩy ra từ năm trước, lần này là lần đầu tiên nhưng nhẹ nhàng thứ yếu, chúng tôi cũng bị thưởng thức chất độc da cam tương tự, tức là vào khoảng trung tuần tháng 6 năm 1970 (có thể sai một vài tháng), chúng tôi Lữ Đoàn 3 phải đi bằng đường bộ từ Tây Ninh (núi Bà Đen) qua cứ điểm Barbara đến Kà Tum để chuẩn bị tấn công vào Trung Ương Cục Miền Nam, con đường này mìn bẫy tương tự như Cầu Kè ở Vĩnh Bình, hay như con đường dọc theo bờ Phá Tam Giang, mà chúng tôi đã được nghe ai đặt cho mỹ từ rất thơ mộng “Dẫy Phố Buồn Hiu” thuộc Phong Điền và Quảng Điền, Thừa Thiên. Trong lúc đang tiến quân thì thuốc khai quang cũng rải trên đầu tương tự, nhưng không có đơn vị nào của Việt Nam đi hai bên đường, lúc đó đơn vị chịu trách nhiệm đi hai bên đường là Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ, sở dĩ như vậy vì Quân Đội Hoa Kỳ không được tiến quân qua Campuchia, (quốc hội Mỹ đang trong tay Đảng Dân Chủ làm áp lực nặng nề với chính quyền Đảng Cộng Hòa, không cho quân đội Hoa Kỳ vượt biên) nên quân đội Hoa Kỳ trách nhiệm giữ an ninh nội địa, chỉ có chúng tôi tiến quân qua Campuchia, nhưng Bộ Chỉ Huy của LĐ3ND và TĐ1PBND thì bị lãnh đủ vì thuốc khai quang, trong lúc đang di chuyển đến Kà Tum, lần này chỉ bị ướt và hít thở phải thuốc độc da cam, nhưng không phải bị uống nước, cũng như không phải nằm ngủ trên thuốc độc da cam. Khi rải chất độc da cam, máy bay phải bay ở cao độ rất thấp “nhìn rất rõ phi công” vì sợ thuốc bay không đúng ý nên không phải lúc nào muốn bay thì bay, muốn rải lúc nào thì rải, nếu đi rải thuốc như vậy, phải bay chậm và thấp, mà có Bộ Đội ở dưới chỉ cần một viên đạn của súng cá nhân thôi (AK 47) là máy bay bị tiêu tùng ngay.
Cho nên khi rải thuốc khai quang máy bay, phải bay rất thấp, để thuốc rớt đúng nơi mong muốn, nếu bay cao gió thổi bay thuốc đi nơi khác; đó là lý do dưới đất phải có quân bảo vệ, vì bay theo trục lộ mà bay thấp là dễ dàng bị hạ; theo tôi nghĩ bộ đội Cộng Sản nếu có bị ảnh hưởng cũng chỉ bị ít mà thôi, vì máy bay rải thuốc chỉ hoạt động khi có quân ta ở dưới giữ an ninh cho họ, bộ đội không dám đóng quân sát đường, họ thường ẩn núp sâu trong rừng, họ chỉ xuất hiện bên các trục giao thông khi chuẩn bị một chiến trường mới và ở đó không quá một ngày là rút ngay, (chiến lược, chiến thuật Tứ Khoái Nhất Mãn của Mao Trạch Đông, được họ coi là sách chỉ đạo chiến tranh của bộ đội miền Bắc mà) chỉ có QLVNCH và quân đội Đồng Minh mới chịu trận, thuốc khai quang lâu ngày mà thôi! Chúng tôi không quả quyết thuốc khai quang vô hại, nhưng chúng tôi chưa thấy ai bị thương tổn vì loại thuốc này, cũng như con cháu chúng tôi không thấy bị ảnh hưởng, nếu có, chắc vài đời sau nữa! Còn Bộ Đội Cộng Sản Việt Nam trong mật khu, có thể cũng có va chạm với thuốc khai quang khi thuốc đã rải xong, và thuốc đã nằm im dưới đất.
Sang đây niên trưởng Trần Quốc Lịch lúc đó chỉ huy LĐ2ND, anh Nguyễn Chí Hiếu lúc đó là chỉ huy TĐ5ND, anh La Trịnh Tường lúc đó chỉ huy TĐ1ND và tôi lúc đó chỉ huy TĐ1PBND, chúng tôi đều đang sống tại California, chúng tôi đều trên dưới 70 tuổi, vẫn khỏe mạnh đánh quần vợt còn khả quan, riêng cố Đại tá Trần Văn Sơn lúc đó chỉ huy TĐ3ND đã hy sinh tại chiến trường miền Trung vào thời điểm gần cuối tháng 4 năm 1975, tôi viết bài này muốn cho những ai cần tìm hiểu, biết rằng thuốc độc da cam có tệ hại chăng nữa thì cũng không ghê gớm như tin đồn, bài này viết sau hơn một năm khi đã có phán quyết của tòa án liên bang Hoa Kỳ, tôi không còn bị mặc cảm là phản bội dân tộc, phản bội quê hương, phản bội các em bé tật nguyền đang nằm ăn vạ, vì cuộc chơi “tin đồn” đã qua, nếu chúng ta muốn kháng cáo cho có kết quả chúng ta phải chấp nhận luật chơi văn minh, phải có tế bào của các người mắc bệnh để thử nghiệm, có khi còn phải lấy mẫu thử nghiệm đến vài ba lần mới có kết luận vững chắc được, thanh niên Việt Nam ở vùng do bộ đội Cộng Sản kiểm soát trước năm 1975, và toàn nước Việt Nam sau năm 1975 đã uống biết bao nhiêu loại rượu sản xuất bằng các môi tác “thuốc giết côn trùng, thuốc giết chuột, và các chất độc khác như (bột hàn gió đá) chẳng hạn” mà các ổ rượu lậu này đều được đỡ đầu nghiêm chỉnh, sự tác hại của các loại rượu này cũng chưa ai nhắc đến, nếu chúng ta cương quyết nhận định rằng các em thiếu nhi bị tàn tật là do “chất độc da cam”, thì chúng ta phải chấp nhận luật chơi văn minh, phải đồng ý cho chuyên viên đến lấy mẫu tế bào nạn nhân tại chỗ, cứ yên tâm không ai đổi mẫu tế bào này đâu! Đâu phải trò đùa, còn quốc tế nhắm vào nữa! (Hiện nay Trung Hoa Cộng Sản cũng có khả năng làm thử nghiệm này, tại sao không làm?). Sở dĩ phái đoàn thử nghiệm họ không thử nghiệm tại chỗ được vì không đủ phương tiện, nên phải mang mẫu thí nghiệm này về phòng thí nghiệm có đầy đủ phương tiện; các phòng thí nghiệm này đôi khi là của tư nhân chứ không phải của chính quyền, nên không có chuyện gian dối đâu ạ! Ở ngoại quốc lâu có thể hơi chủ quan chăng? Tôi chưa hề thấy các chuyên viên này gian lận như tin đồn, mong rằng “Nỗi Đau” sẽ được chấm dứt và bạch hóa cho dân tộc chúng ta, để các nạn nhân được chữa trị không nằm ăn vạ nữa “chờ vạ thì má đã sưng” ĐAU LẮM quí vị ạ, “nỗi đau” ngoài da còn chưa trị, biết bao nhiêu “nỗi đau” khác cứ luẩn quẩn chung quanh, cứ nói quanh co thì hay lắm, nhưng thực tế vẫn phũ phàng, chúng ta hãy gãi lưng chúng ta thử xem có làm được trọn vẹn hay chưa.
Làm sao bắt tay nhau đây, khi suy nghĩ và ăn nói vẫn khác nhau một trời một vực, những thương bệnh binh trong hàng ngũ QLVNCH hiện nay bị đối xử thua thiệt, khác xa với những thương bệnh binh của bộ đội Cộng Sản Việt Nam, nếu không muốn nói là đang bị kỳ thị, miệt thị; ngay cung cách đối xử với người chết cũng vẫn còn đòn phép, không cho vào thăm mộ các tử sĩ của miền Nam, không lẽ nghĩa trang (của đối phương) cũng là khu bí mật quân sự hay sao? Hay sợ dân chúng căm thù vào phá nghĩa trang theo thời tin đồn? Chúng ta có quyền nghi ngờ trong nghĩa trang đã có những trò trả thù nhơ nhớp, những trò trả thù của thời tin đồn có thể vẫn còn đang diễn ra trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, “ngày nay thuộc về Thủ Đầu Một” những trò gian dối chỉ nên áp dụng cho thời “tin đồn” mà thôi, thời nay nếu muốn cùng nhau xây dựng quê hương, chúng ta phải tập thành thật với nhau ! Phải công bằng với nhau cho các anh em thương phế binh được đối xử nghiêm túc.
Sau cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ, quân đội đôi bên người còn sống, kẻ bị thương đều được đối xử ngang hàng với nhau, không có bị tù đầy, khổ sai, cải tạo, người tử trận đôi bên đều có thể được chôn chung nghĩa trang quốc gia Arlington, nhờ cách đối xử đó, nước Mỹ sau chiến tranh còn nguyên chất xám, nước Mỹ mới hùng mạnh như ngày hôm nay, nhờ người thua không cảm thấy bị lép vế, kẻ thắng không trên chân, cùng nắm tay nhau xây dựng lại quê hương đổ nát vì chiến tranh, cùng sánh vai nhau tiến bước theo kịp đà văn minh của nhân loại. Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam nên mở mắt nhìn cao hơn (chiếc ghế đang ngồi), mánh lới (thời tin đồn) chỉ có thể đạt được chiến thắng nhất thời, muốn xây dựng quê hương phải thành thật với nhau, đầu óc phải mở rộng, lớp trẻ đầy nhiệt huyết đang sẵn sàng xây dựng quê hương, và chúng tôi lớp người già, đang muốn xoa dịu lại vết thương cho dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta, chúng ta phải tỏ tình thân bằng hành động, không bằng lời nói điêu ngoa được .,.
Mũ đỏ Bùi Đức Lạc