Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
SỰ TRỊCH THƯỢNG
SỰ TRỊCH THƯỢNG
Mùa
hè năm 1972. Chiến sự đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất trong
lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam. Những khí tài, những phương tiện
chiến tranh tối tân có sức tàn phá và sát thương mạnh nhất được hai
bên quan thầy đua nhau rót vào chiến trường sôi động nầy cho trận
đánh cuối cùng để giành phần thắng. Ấy là họ ảo tưởng thế!
Trong mấy tháng mùa khô của cái năm oan nghiệt ấy, vì những ý tưởng
của những kẻ chóp bu đâu ở chốn xa xăm, biết bao nhiêu chàng trai
tuổi ngoài đôi mươi, cùng một màu da, cùng một dòng máu, cùng một
tiếng nói đã chực chờ, rình rập mà tiêu diệt lẫn nhau. Biết bao
nhiêu người con đã phơi thây, banh xác hay tật nguyền để lại cho
những người thân những đau đớn, xót xa cho cuộc đời con em mình phải
trải qua lửa đạn, phải mất đi sinh mạng thanh xuân một cách oan
uổng!
Mùa hè ấy đơn vị tôi phải xé nhỏ ra trải dài từ Vùng I, vùng II,
vùng III Chiến Thuật mà cao điểm nhất là mặt trận An Lộc.
Những tin xấu cứ lần lượt gửi về từ những toán của đơn vị tôi phái
đi. Tôi nhớ anh chàng Trung sĩ nhất Vũ người Bắc, người thanh mảnh
trắng trẻo, ăn nói nhỏ nhẹ như con gái. 6:30 chiều Vũ cất cánh từ
Tân Sơn Nhứt. 12:30 khuya tin gởi về. Máy bay có Vũ đi trên đó đã bị
bắn tan xác trên vùng trời Vùng I. Thật bàng hoàng! Cả đơn vị ai
cũng tiếc thương cho chàng trai trẻ vắn số.
6:30 chiều. tất cả các phi vụ chúng tôi cất cánh khỏi phi trường Tân
Sơn Nhứt thường là vào thời điểm đó. Trong cái nhập nhoạng của bóng
hoàng hôn, chúng tôi thảy sinh mạng mình vào cái cối xay chiến
tranh. Trung sĩ nhứt Sáng, một con người rất chịu chơi và tài giỏi.
Trên ngực mang bằng Nhảy Dù vàng với 3 vòng đỏ phía dưới của một
Huấn luyện viên. Hầu như tất cả các Hạ sĩ Quan của đơn vị tôi mang
cấp bậc từ Trung sĩ nhứt trở lên đều mang những cái bằng Nhảy Dù như
thế. Đa phần họ là những người dân tộc vùng Cao Bắc Lạng và đều tham
chiến ở mặt trận Điện Biên Phủ vào năm 1954 trong quân đội Liên Hiệp
Pháp. Đó là những con người kiệt xuất!
Lẽ ra, đêm đó do một Thượng sĩ lên ca, nhưng 4 chiếc máy bay C-130
của Mỹ từ Utapao bên Thái Lan đã đáp xuống chờ sẵn ngoài đường băng
rồi. Không thể chậm trễ trong chiến tranh, chúng tôi đành chỉ định
Trung sĩ nhứt Sáng dự trù cho pass sau phải đi ngay chuyến đó. 8:30
tối: Máy bay đã gãy cánh ở vùng trời An Lộc. Định mệnh cả! Đưa về
nhà một chiếc quan tài không có xác người. Chúng tôi đưa tang trong
tiếng khóc nức nở của một người vợ và 4 đứa con nheo nhóc. Ai cầm
lòng đậu? Cái chết của anh ta có phải là do lỗi của chúng tôi không?
Tại chiến tranh cả mà! 4 tháng sau, dọn dẹp mặt trận An Lộc, chúng
tôi tìm được bộ xương khô còn mang tấm thẻ bài của anh ta. Lại phải
làm một đám tang lần 2 cho hương hồn người chết được ngậm cười nơi
chín suối.
Nhưng chuyện ấy cứ ray rức mãi trong lòng tôi sau hơn 40 năm đã tàn
cuộc chiến. Nó giống như tự tay mình đã xô anh ta vào cái chết không
bằng.
Héros sans retour! Sát nghĩa đến tận cùng! Chúng tôi ra đi nhưng
thường ít khi trở lại, trừ những trường hợp may mắn.
Bằng
Nhảy Dù được biểu trưng là hình một cánh đại bàng, chính giữa có
hình một chiếc dù nhảy đang bọc gió màu trắng nổi trên nền đen. Đó
là những sắc màu của sự tang tóc ở cả hai nền văn hoá Đông Tây và
phía dưới là một ngôi sao màu vàng.
Với những sĩ quan, người nào đã nhảy được từ 60 sauts trở lên sẽ
được đơn vị cho đi học một lớp bồi dưỡng tại Trung Tâm Huấn Luyện
Nhảy Dù ở trại Hoàng Hoa Thám để lấy bằng Nhảy dù vàng. Bằng Nhảy dù
vàng thì cánh đại bàng, chiếc dù nhảy cũng tương tự như trên nhưng
được thêu chỉ vàng, thay vào ngôi sao treo lơ lững phía dưới bằng 3
cái vòng tròn đỏ giống như những vòng tròn Olympic. Tất cả nằm trên
màu đen tang tóc. Trong sổ Không vụ cá nhân lưu lại tại đơn vị, tôi
đã được ghi tới con số 56 sauts.
Trước đây, đối với những saut đêm, hàng chữ ngày tháng thực hiện
saut nhảy đó sẽ được ghi bằng mực đỏ nên được gọi là “saut đỏ”.
Những chiến binh thuộc Nha Kỹ Thuật chuyên xâm nhập vùng trời Việt
Bắc thời Ngô Đình Diệm thì hay có những hàng chữ đỏ xuất hiện. Sau
nầy, do điều kiện chiến tranh có nhiều thay đổi, ít ai thực hiện
những saut đỏ nữa bởi vì không cần thiết.
Không ai tài giỏi trong chiến tranh cả. Một quả pháo 130 li, một
phát hoả tiễn 122 li, một quả bom 500 lbs đánh đùng một cái. Tầm sát
thương trong vòng bán kính 50 m thì một con sâu, cái kiến cũng không
còn. Tiếng súng trận nổ ra, cả trăm cả ngàn viên đạn dội xối xả về
phía đối phương. Chẳng ai có đủ tài giỏi và thông minh mà né những
đầu đạn rực lửa ấy cả. Trong chiến tranh, những người thoát khỏi
lưỡi hái của tử thần đều do có một số phận may mắn cả thôi. Điều nầy
đã được ghi trong sổ Nam Tào trên thiên đình. Bởi cho nên trong
những đêm nằm dưới bầu trời đầy sao, tôi hay ngước mặt lên trời thầm
van vái: Ông Nam Tào ơi! Làm ơn đừng gạch ngang tên con bằng một vết
bút lông đen, đừng xoá tên con khỏi cuốn sổ sinh tử của Ngài nghen!
Đang lúc cuộc chiến Mùa hè đỏ lửa năm 1972 lên đến đỉnh điểm nhất,
một toán chuyên viên khảo sát hiệu quả chiến tranh của Mỹ từ chính
quốc được cử sang đề điều nghiên chiến trường. Báo cáo của họ sẽ
được gởi về Lầu Năm góc Penthagon ở Whashington DC, và những quân
nhân Mỹ trên ve áo đầy sao ngồi trong phòng máy lạnh sẽ hoạch định
sách lược mới cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Tôi là sĩ quan Việt Nam được cử đi cùng một toán chuyên viên Mỹ điều
nghiên mặt trận Kontum để báo cáo về Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam.
Toán
chúng tôi gồm một Đại Uý Mỹ da trắng, một Trung sĩ nhất Mỹ da màu và
tôi, một Trung Uý Nhảy Dù da vàng. Chúng tôi lại rời phi trường Tân
Sơn Nhứt vào đúng 6:30 chiều để bay lên Kontum. Lại phải đi ké một
vận tải cơ C-130 Hercules chở theo một xe nâng hàng to đùng của
Không Quân Mỹ để thay thế cho chiếc cũ ở Kontum đã bị pháo bắn
trúng, vì chẳng có một phi vụ nào rỗi rảnh cả.
Trải dài dưới cánh bay là một quê hương Việt Nam đen thẳm, u tối. Ở
dưới đó có hằng trăm ngàn con người đang toan tính để tàn sát lẫn
nhau. Thi thoảng, xuất hiện những đốm sáng của các signal lơ lững
dưới những chiếc dù trắng bé tẹo để soi sáng mảnh quê hương ghẻ lở,
đau thương của tôi. Dựa vào những đốm sáng lập loè đó, lũ chúng tôi
căng mắt ra để tiêu diệt những người cùng tiếng nói, màu da. Chỉ
khác chăng là những cái dung chứa trong đầu, nhưng cả hai bên đều
chung một niềm sợ hãi.
Bay được khoảng 10:00 đêm bắt đầu vào không phận Kontum. Tín hiệu
đèn màu xanh lá cây đã bật sáng nhấp nháy trong khoang máy bay, có
nghĩa là chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng để đáp xuống. Lưng mang ba
lô, đầu đội nón sắt, tay cầm khẩu súng trường M-16. Chiến trường lúc
bấy giờ, sĩ quan chỉ huy ngoài khẩu Colt 45 thường phải mang theo
một khẩu súng trường để tự mình có thể chiến đấu khi đụng trận vì
chuyện thất lạc đơn vị vẫn thường xảy ra do mặt trận nào cũng rất ác
liệt, bùng nổ một cái thì chuyện tan đàn xẻ nghé là chuyện thường
ngày. Tôi đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng ở cửa đuôi máy bay, chờ cửa mở
là lao xuống ngay. Cách phi trường dã chiến Kontum khoảng 15 phút
bay, tất cả đèn đều vụt tắt để tránh phía bên kia phát hiện có máy
bay tới mà pháo kích hoặc bắn cao xạ phòng không hoặc hoả tiễn tầm
nhiệt SA-7. Dấu thì dấu ánh sáng thôi chớ làm sao mà dấu tiếng động
cơ máy bay. Các tọa độ đường băng đã được chấm sẵn trên bản đồ và
mọi nòng pháo đã chực chờ nhả đạn. Có thoát được hay không tất cả
đều dựa vào chữ HÊN XUI!
Cánh quạt động cơ của các loại máy bay quân sự được chế tạo rất đặc
biệt và được làm bằng gỗ tếch (giá tỵ), loại được dùng làm báng súng
bởi độ bền chắc và độ dẻo của nó và không dễ gì bị gãy khi chém gió
với tần suất cao. Nó có thể điều khiển cho quay ngược 90 độ từ phi
công để thay đổi chiều gió mà không ảnh hưởng tới vận tốc của động
cơ. Ta có thể quan sát từ cánh quạt máy vẫn thường dùng ở nhà thì
hiểu liền việc thay đổi hướng gió. Thông thường, động cơ quạt máy sẽ
được chế tạo quay theo chiều kim đồng hồ, và bố trí cánh quạt theo
hướng bên trái cao hơn bên phải để khi động cơ quay sẽ đạp gió về
phía trước tạo ra một luồng gió mát. Trên nguyên tắc, nếu động cơ
tạo ra một sức quay đủ mạnh sẽ đẩy cái quạt ra sau.
Động cơ máy bay là một động cơ đốt trong với 32 cái bu-gi có đến 3
chấu đánh lửa cho mỗi bu-gi nên khó có chuyện động cơ mất lửa khi
đang bay. Những hỏng hóc nếu có là ở bộ phận khác hoặc bị đạn xuyên
thủng thì đành chịu. Mỗi máy bay có tới 4 động cơ thì dễ gì có
chuyện “chết máy” khi ở lưng chừng trời?
Thông thường khi bay, cánh quạt sẽ được để ở trạng thái mặc định là
bên phải sẽ nhô cao hơn bên trái, đẩy gió ra phía sau để đưa máy bay
lướt về phía trước. Khi đáp xuống phi đạo, pilot sẽ điều khiển cho
cánh quạt xoay theo hướng ngược lại để hãm đà máy bay, gọi là
“thắng” bằng động cơ, chớ với vận tốc vài trăm cây số giờ thì chẳng
có cái thắng thông thường nào mà xài được.
Vừa đáp xuống phi trường quân sự dã chiến Kontum, pilot tăng tốc tối
đa cho động cơ và xoay chiều cánh quạt. Chúng tôi đang đứng chờ ở
cửa phía sau thì tất cả đã bị lộn tùng phèo đập mạnh vào lưng buồng
lái bò lê bò càng. Tôi không bao giờ tưởng tượng nổi một chiếc vận
tải cơ C.130 to lớn kềnh càng như thế lại có thể dừng lại ngay khi
đáp xuống phi đạo với khoảng đường chưa đầy 100 mét. Cửa vừa mở là
chúng tôi bung ra nhảy ngay xuống giao thông hào được đào sẵn dọc
hai bên phi đạo và tiếng pháo đã bắt đầu dồn dập, đè rạp những cái
đầu tí hon sát xuống mặt đất không thể ngửng lên. Phi cơ cất cánh
rời khỏi tức khắc và thoát nạn sau khi đã đẩy được chiếc xe nâng
hàng tuột xuống phi đạo.
Chúng tôi đã chịu đựng trận pháo ấy kéo dài từ 10:30 tối đến 5:00
sáng. Sương đêm vẫn còn giăng kín núi rừng Kontum với cái lạnh đá
núi se sắt.
Pháo đã ngưng có lẽ vì hết đạn hoặc giả sợ những đốm lửa từ nòng
pháo sáng lên bị phát hiện và bị phản pháo. Nằm đợi im tiếng pháo
một lúc khá lâu để yên chí không còn thưởng thức bản hành khúc hùng
tráng ấy nữa, chúng tôi mới dám rời khỏi giao thông hào. Quần áo ướt
sũng sương đêm, nỗi sợ hãi tràn đầy, cộng với cái bùn lầy đỏ quạch
cao nguyên nhem nhuốc dưới mương nước mới thấm thía cái sự thưởng
thức những gian khổ đời lính.
Bình minh đã bắt đầu ló dạng bên kia dãy núi kèm theo chút sương mai
buổi sớm cộng thêm nỗi vui mừng mạng sống mình được cộng thêm một
ngày, tôi thở phào nhẹ nhõm. Gió ban mai thổi nhẹ như làm trôi đi
những nhọc nhằn của một đêm thức trắng trong nỗi sợ hãi cùng cực. Mà
lúc đó tôi nào để ý đến cái chuyện sương mai, sương sớm gì đâu. Chỉ
biết mình còn sống sót là đã đủ mừng vui. Thì giờ, tâm trí đâu mà
thưởng thức nỗi êm mát dịu dàng của những giọt sương long lanh đầu
cành?
Lết bộ 3 cây số thì đến được Bộ Tư Lệnh tiền phương của Sư Đoàn 23
Bộ Binh để trình diện và xin một chiếc xe Jeep đi khảo sát chiến
trường. Trước cửa hầm ngầm chống pháo của Bộ Tư Lệnh tiền phương,
cũng có 2 anh chàng Quân Cảnh trong tư thế thao diễn nghỉ đứng gác
cho ra vẻ, nhưng quần áo thì lem nhem, mặt mủi bơ phờ chớ đâu còn
những bộ quần áo ủi hồ láng cóong theo đúng quân phong quân kỷ trời
ơi gì nữa? Hầm được đào thật sâu dưới mặt đất, trên lót rất nhiều
lớp cây rừng rồi đổ đất dầy lên chống đạn. Thì cũng làm cho có chừng
vậy thôi chớ hoả tiễn nó mà rơi trúng thì cũng banh xác hết. Trên
vách đất treo la liệt những súng ống, dao găm, dao quắm đi rừng. Bản
đồ hành quân khổ lớn thì treo kín trên vách. Những nét vẻ xanh đỏ
chằng chịt.
Tiếp chúng tôi là một quân nhân mang cấp bậc Đại Tá. Tôi cũng chẳng
biết ông ta giữ cái chức vụ gì trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Trình Sự vụ Lệnh và báo cáo xong, chúng tôi được cấp cho một chiếc
xe Jeep quân sự để đi khảo sát chiến trường. Chạy ra tới Thị xã
Kontum thì chỉ còn một đống gạch vụn khổng lồ. Một chiếc xe tăng
T.54 bị bắn cháy nằm trước nhà hát nhỏ chút của Thị xã. Cái rạp hát
nầy trước kia chắc chỉ toàn chiếu phim Ấn độ với phim cao bồi Mỹ.
Xuyên qua đám gạch đá đổ nát hoang tàn khổng lồ đó, chúng tôi đi
vòng quanh rồi qua bên kia thị xã. Một Đại đội lính Sư Đoàn 23 Bô
binh mà quân số chắc chỉ còn khoảng 45 người theo sự ước đoán của
tôi, có nghĩa là đã mất gần nửa quân số hành quân đi ngang. Chỉ huy
là một chàng Trung Uý chắc chỉ độ khoảng tuổi tôi, quần áo nhếch
nhác, râu ria lởm chởm như năn mắc nước chả biết bao nhiêu ngày rồi
chưa cạo. Bước thấp bước cao lẽo đẽo kế bên là anh chàng tài-lọt
mang máy PRC-25. Lướt đôi mắt trũng sâu thất thần ơ hờ liếc ngang
rồi cắm cúi bước đi theo đoàn quân. Chắc trong suy nghĩ của anh
chàng Đại Đội Trưởng Bô Binh ấy thế nào cũng thoáng có chút ghen tị
với mấy anh chàng đang ngự trên chiếc xe Jeep.
Ai đã từng phải dùng cái đầu còn chút sáng suốt tinh khôn của mình,
vận dụng chút nhạy bén để bảo toàn cho những sinh mạng dưới quyền
mới hiểu thấu được những suy nghĩ của chúng tôi. Những sinh mạng ấy
rất thân thiết, đùm bọc che chở cho nhau trong cái ác liệt của chiến
tranh. Họ yêu thương nhau bằng tất cả tấm chân tình, cố gắng bảo vệ
mạng sống con sâu cái kiến cho nhau. Nó còn gấp nhiều lần cái tình
ruột thịt của anh em một nhà nữa. Chỉ những người lính đã trải qua
cái “đận” ấy thì trong cuộc sống sau nầy mới cư xử tử tế hơn đối với
mọi người chung quanh.
Ở lại 2 ngày trong cái Thị Xã hoang tàn đó, Tay Đại Uý Mỹ trắng xin
được 1 chiếc trực thăng UH-1B của Mỹ đưa chúng tôi trở lại Thủ phủ
vùng cao nguyên bom đạn: Pleiku. Ngồi trên chiếc trực thăng do những
Pilot người Mỹ lái, mắt lướt nhìn từng con ốc rung bần bật muốn rời
ra của chiếc trực thăng tơi bời trong chiến tranh, nhìn những cặp
mắt xanh lơ của những chàng Pilot Mỹ, bay trên trời với những phát
đạn cầu âu từ dưới đất bắn lên thỉnh thoảng chạm soẹt vào càng đáp
máy bay, tôi thấy cảm thương cho thân phận của họ biết chừng nào! Về
phía tôi thì đã đành đi, chiến tranh đang xảy ra trên quê hương mình
thì chuyện cầm súng là một bổn phận đương nhiên của những chàng trai
trẻ. Còn với những người mũi lỏ mắt xanh nầy, đang sống một cuộc đời
an vui, đầy đủ những tiện nghi vật chất trong một đất nước thanh
bình, xinh đẹp. Một đất nước văn minh, hiện đại, đầy đủ tất cả những
điều kiện cho một người muốn thăng tiến để tìm một cuộc sống tươi
đẹp ở một nơi như chốn thiên đường hạ giới mà ai ai, ở bất cứ nơi
nào trên thế giới đều muốn đặt chân đến, mà giờ nầy phải có mặt nơi
đây, một đất nước nhỏ bé, nghèo khó và đầy dẫy những tai ương, bất
trắc, lúc nào cũng rình rập chực cướp đi mạng sống thanh xuân của
họ? Tội nghiệp thay!
Chiếc
trực thăng UH-1B rệu rã vì đạn ấy cuối cùng cũng đưa chúng tôi vượt
thoát khỏi chặng đường bay tử thần và hạ cánh xuống trước sân Bộ Tư
Lệnh Vùng II Chiến Thuật. Bước xuống, chúng tôi ngoặc vào dãy
barrack dành cho khách vãng lai của Mẽo để ghi tên lấy phòng nghỉ
tạm chờ phi vụ về lại Sài Gòn. Tắm rửa nghỉ ngơi xong, chúng tôi
xuống Mess Hall của Mỹ ăn trưa. Hạ sĩ quan và binh sĩ được phục vụ
miễn phí. Riêng sĩ quan khi ăn thì phải mua ticket vì phần ăn hàng
ngày của các sĩ quan đã được tính vào lương tháng rồi. Đến đây, hai
cái bông mai đen thui ngự trên cổ áo, niềm tự hào và hãnh diện của
một sĩ quan làm khổ tôi đây. Officer thì phải mua ticket, nhưng
trong túi tôi làm gì có những đồng đô la đỏ MPC của quân đội Mỹ mà
mua cơm? Đành phải talk by hand với chàng Đại Uý da trắng xin tiền
anh ta thôi. Hơi bị nhục vì một bữa ăn đấy! Tự nhiên đang ở trên đất
nước mình mà lại trở thành một kẻ ăn mày của một người ngoại bang.
Lại còn cái chuyện thuốc lá nữa chứ. Thường mỗi tháng sau khi lãnh
lương tôi đã mua sẵn cho mình 3 cây thuốc thơm Capstan và 1 cây
thuốc Pall Mall đỏ để hút dần trong tháng. Lúc ra đi, tôi cũng đã bỏ
sẵn 5 gói thuốc Capstan trong ba lô rồi, ai dè bị kẹt lại dài ngày
thì hết thuốc. Trong Mess Hall của Mỹ thì chỉ trao đổi bằng MPC.
Chẳng lẽ đã xin ăn giờ lại xin hút nữa sao? Đành chịu trận luôn.
Về chuyện ăn uống trong quân đội Mỹ có một cái rất hay. Thực đơn cho
tất cả các đơn vị quân đội Mỹ trên toàn thế giới đều đã được lập sẵn
và đâu đâu cũng như nhau. Buổi sáng thì toàn bộ quân nhân Mỹ đều
được ăn sáng với một món duy nhất là trứng gà oeufs sur plat với
khầu phần 3 trứng kèm bánh mì. Nếu ai để ý một chút về chuyện ăn
uống, xuống xem bảng thông báo món ăn trưa nay ghi ở cửa Mess Hall,
giả sử có một chuyến công tác đột xuất phải bay ngay sang Thái Lan
thì y như rằng, trưa đó bạn cũng sẽ được ăn đúng cái món mà bạn đã
thấy ghi hồi sáng nay ở Mess Hall Việt Nam. Thậm chí bạn bay qua
Philippines hay Nam Triều Tiên bằng máy bay phản lực thì món đó cũng
sẽ ngự trên bàn ăn của bạn. Tất cả đều được thiết lập sẵn, và những
con người sinh sống trong cái thế giới đó đều trở nên máy móc hết.
Dần hồi nó xâm lấn cả vào trong tư tưởng, tâm hồn của họ luôn. Một
thế giới thực dụng!
Lại phải kẹt lại Pleiku 4 ngày vì tất cả các phi vụ đều phải tận
dụng hết cho một chiến trường đang ngùn ngụt lửa hoả ngục. Ai đang
phải kẹt trong rừng sâu muỗi mòng, vắt, ve, ai đang phải kẹt trong
những bãi sình dơ bẩn đĩa đeo thì mặc kệ. Những người lính Mỹ tại
hậu cứ vẫn ăn uống theo cái menu đã được lập sẵn của quân đội.
Week-end là phải có món thịt bò nướng ngoài trời trên lửa than và
những lon bia rồi. Họ cứ bày một mâm thịt bò kế bên bếp lửa để tự
chọn, ai muốn ăn miếng lớn miếng nhỏ, dầy hay mỏng thì tùy, ai muốn
nướng chín hẳn hay muốn chín tái thì yêu cầu sẽ được thực hiện ngay.
Xong buổi ăn hoành tráng ấy lại mò lên club coi mấy cô gái trong ban
nhạc Phillippines ưởn ẹo trong những điệu nhạc dâm dật phục vụ cho
bọn lính Mỹ xa nhà. Cũng là một cuộc rong chơi thú vị vì chẳng mấy
khi mình được dịp xâm nhập vào thế giới của họ.
Sau 4 ngày phải lò dò lên phi trường mỗi ngày, cuối cùng chúng tôi
cũng được thông báo là có phi vụ về Sài Gòn của một máy bay quân sự
Mỹ và chỉ dành riêng cho người Mỹ. Nút thắt trong chuyến “dạo chơi”
của tôi xuất hiện. Khi ghi tên hành khách vào manifest, thấy tôi là
một Vietnamese Officer, gã Hạ sỉ nhất không quân Mỹ lắc đầu. Hai cái
bông mai nguỵ trang, cái bằng dù nằm trên ngực áo, bộ quần áo hoa
bèo không giúp ích gì cho tôi trong chuyện nầy dù tôi đã phải thừa
sống thiếu chết mấy ngày qua. Mặc cho chàng Đại Uý Mỹ cố thuyết phục
nhưng gã vẫn lắc đầu nguầy nguậy, bĩu môi quay đi và phán:
- NO!
Một sự trịch thượng rõ ràng.
Máu nóng đã bắt đầu dồn lên mặt. Lên đạn khẩu M.16 đánh rốp một cái,
tôi chĩa ngay vào hắn và sủa một câu:
- “God’am! What do you want now?”.
Hắn tái mặt và gật đầu lia lịa:
- OK! OK!
Thế là tôi thoát ra được mớ hỗn mang ấy và bay vù về Sài Gòn.
Trong đơn vị tôi, có một gã Trung Tá cố vấn người Mỹ. Thực ra, sau
nầy không còn chế độ cố vấn Mỹ nữa rồi vì đã bước qua giai đoạn Việt
Nam hoá chiến tranh. Nhưng do là một đơn vị đặc biệt nên vẫn còn lưu
lại sự cố vấn của người Mỹ. Trong một buổi họp Tham Mưu của các sĩ
quan, Trung Tá xếp của tôi nêu đích danh tôi tại buổi họp và hỏi:
- Trung Tá cố vấn than phiền sao Trung Uý gặp ông ta mà không chào?
Tôi giả tảng trả lời:
- Chắc do tôi sơ ý không thấy thôi.
Thực sự những lần tình cờ gặp hắn đi ngược chiều, tôi hay giả lơ
nhìn chỗ khác hay làm bộ cúi xuống buột dây giày botte de saut. Tôi
là một sĩ quan quân đội Việt Nam thì tôi chỉ chào kính đối với một
sĩ quan Việt Nam cao cấp hơn tôi thôi, hà cớ gì tôi phải chào kính
một sĩ quan của một quân đội ngoại bang? Tôi biết đó là một điểm âm
trong nhận xét cuối năm của thượng cấp vì có sự tác động của tay cố
vấn, nhưng tôi hoàn toàn chấp nhận.
Và thú thực tôi đã phải lãnh một hậu quả rất tồi, nhưng rồi cũng
thoát ra được do HÊN!
Hay hổng bằng hên!
HÙNG BI
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
SỰ TRỊCH THƯỢNG
SỰ TRỊCH THƯỢNG
Mùa
hè năm 1972. Chiến sự đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất trong
lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam. Những khí tài, những phương tiện
chiến tranh tối tân có sức tàn phá và sát thương mạnh nhất được hai
bên quan thầy đua nhau rót vào chiến trường sôi động nầy cho trận
đánh cuối cùng để giành phần thắng. Ấy là họ ảo tưởng thế!
Trong mấy tháng mùa khô của cái năm oan nghiệt ấy, vì những ý tưởng
của những kẻ chóp bu đâu ở chốn xa xăm, biết bao nhiêu chàng trai
tuổi ngoài đôi mươi, cùng một màu da, cùng một dòng máu, cùng một
tiếng nói đã chực chờ, rình rập mà tiêu diệt lẫn nhau. Biết bao
nhiêu người con đã phơi thây, banh xác hay tật nguyền để lại cho
những người thân những đau đớn, xót xa cho cuộc đời con em mình phải
trải qua lửa đạn, phải mất đi sinh mạng thanh xuân một cách oan
uổng!
Mùa hè ấy đơn vị tôi phải xé nhỏ ra trải dài từ Vùng I, vùng II,
vùng III Chiến Thuật mà cao điểm nhất là mặt trận An Lộc.
Những tin xấu cứ lần lượt gửi về từ những toán của đơn vị tôi phái
đi. Tôi nhớ anh chàng Trung sĩ nhất Vũ người Bắc, người thanh mảnh
trắng trẻo, ăn nói nhỏ nhẹ như con gái. 6:30 chiều Vũ cất cánh từ
Tân Sơn Nhứt. 12:30 khuya tin gởi về. Máy bay có Vũ đi trên đó đã bị
bắn tan xác trên vùng trời Vùng I. Thật bàng hoàng! Cả đơn vị ai
cũng tiếc thương cho chàng trai trẻ vắn số.
6:30 chiều. tất cả các phi vụ chúng tôi cất cánh khỏi phi trường Tân
Sơn Nhứt thường là vào thời điểm đó. Trong cái nhập nhoạng của bóng
hoàng hôn, chúng tôi thảy sinh mạng mình vào cái cối xay chiến
tranh. Trung sĩ nhứt Sáng, một con người rất chịu chơi và tài giỏi.
Trên ngực mang bằng Nhảy Dù vàng với 3 vòng đỏ phía dưới của một
Huấn luyện viên. Hầu như tất cả các Hạ sĩ Quan của đơn vị tôi mang
cấp bậc từ Trung sĩ nhứt trở lên đều mang những cái bằng Nhảy Dù như
thế. Đa phần họ là những người dân tộc vùng Cao Bắc Lạng và đều tham
chiến ở mặt trận Điện Biên Phủ vào năm 1954 trong quân đội Liên Hiệp
Pháp. Đó là những con người kiệt xuất!
Lẽ ra, đêm đó do một Thượng sĩ lên ca, nhưng 4 chiếc máy bay C-130
của Mỹ từ Utapao bên Thái Lan đã đáp xuống chờ sẵn ngoài đường băng
rồi. Không thể chậm trễ trong chiến tranh, chúng tôi đành chỉ định
Trung sĩ nhứt Sáng dự trù cho pass sau phải đi ngay chuyến đó. 8:30
tối: Máy bay đã gãy cánh ở vùng trời An Lộc. Định mệnh cả! Đưa về
nhà một chiếc quan tài không có xác người. Chúng tôi đưa tang trong
tiếng khóc nức nở của một người vợ và 4 đứa con nheo nhóc. Ai cầm
lòng đậu? Cái chết của anh ta có phải là do lỗi của chúng tôi không?
Tại chiến tranh cả mà! 4 tháng sau, dọn dẹp mặt trận An Lộc, chúng
tôi tìm được bộ xương khô còn mang tấm thẻ bài của anh ta. Lại phải
làm một đám tang lần 2 cho hương hồn người chết được ngậm cười nơi
chín suối.
Nhưng chuyện ấy cứ ray rức mãi trong lòng tôi sau hơn 40 năm đã tàn
cuộc chiến. Nó giống như tự tay mình đã xô anh ta vào cái chết không
bằng.
Héros sans retour! Sát nghĩa đến tận cùng! Chúng tôi ra đi nhưng
thường ít khi trở lại, trừ những trường hợp may mắn.
Bằng
Nhảy Dù được biểu trưng là hình một cánh đại bàng, chính giữa có
hình một chiếc dù nhảy đang bọc gió màu trắng nổi trên nền đen. Đó
là những sắc màu của sự tang tóc ở cả hai nền văn hoá Đông Tây và
phía dưới là một ngôi sao màu vàng.
Với những sĩ quan, người nào đã nhảy được từ 60 sauts trở lên sẽ
được đơn vị cho đi học một lớp bồi dưỡng tại Trung Tâm Huấn Luyện
Nhảy Dù ở trại Hoàng Hoa Thám để lấy bằng Nhảy dù vàng. Bằng Nhảy dù
vàng thì cánh đại bàng, chiếc dù nhảy cũng tương tự như trên nhưng
được thêu chỉ vàng, thay vào ngôi sao treo lơ lững phía dưới bằng 3
cái vòng tròn đỏ giống như những vòng tròn Olympic. Tất cả nằm trên
màu đen tang tóc. Trong sổ Không vụ cá nhân lưu lại tại đơn vị, tôi
đã được ghi tới con số 56 sauts.
Trước đây, đối với những saut đêm, hàng chữ ngày tháng thực hiện
saut nhảy đó sẽ được ghi bằng mực đỏ nên được gọi là “saut đỏ”.
Những chiến binh thuộc Nha Kỹ Thuật chuyên xâm nhập vùng trời Việt
Bắc thời Ngô Đình Diệm thì hay có những hàng chữ đỏ xuất hiện. Sau
nầy, do điều kiện chiến tranh có nhiều thay đổi, ít ai thực hiện
những saut đỏ nữa bởi vì không cần thiết.
Không ai tài giỏi trong chiến tranh cả. Một quả pháo 130 li, một
phát hoả tiễn 122 li, một quả bom 500 lbs đánh đùng một cái. Tầm sát
thương trong vòng bán kính 50 m thì một con sâu, cái kiến cũng không
còn. Tiếng súng trận nổ ra, cả trăm cả ngàn viên đạn dội xối xả về
phía đối phương. Chẳng ai có đủ tài giỏi và thông minh mà né những
đầu đạn rực lửa ấy cả. Trong chiến tranh, những người thoát khỏi
lưỡi hái của tử thần đều do có một số phận may mắn cả thôi. Điều nầy
đã được ghi trong sổ Nam Tào trên thiên đình. Bởi cho nên trong
những đêm nằm dưới bầu trời đầy sao, tôi hay ngước mặt lên trời thầm
van vái: Ông Nam Tào ơi! Làm ơn đừng gạch ngang tên con bằng một vết
bút lông đen, đừng xoá tên con khỏi cuốn sổ sinh tử của Ngài nghen!
Đang lúc cuộc chiến Mùa hè đỏ lửa năm 1972 lên đến đỉnh điểm nhất,
một toán chuyên viên khảo sát hiệu quả chiến tranh của Mỹ từ chính
quốc được cử sang đề điều nghiên chiến trường. Báo cáo của họ sẽ
được gởi về Lầu Năm góc Penthagon ở Whashington DC, và những quân
nhân Mỹ trên ve áo đầy sao ngồi trong phòng máy lạnh sẽ hoạch định
sách lược mới cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Tôi là sĩ quan Việt Nam được cử đi cùng một toán chuyên viên Mỹ điều
nghiên mặt trận Kontum để báo cáo về Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam.
Toán
chúng tôi gồm một Đại Uý Mỹ da trắng, một Trung sĩ nhất Mỹ da màu và
tôi, một Trung Uý Nhảy Dù da vàng. Chúng tôi lại rời phi trường Tân
Sơn Nhứt vào đúng 6:30 chiều để bay lên Kontum. Lại phải đi ké một
vận tải cơ C-130 Hercules chở theo một xe nâng hàng to đùng của
Không Quân Mỹ để thay thế cho chiếc cũ ở Kontum đã bị pháo bắn
trúng, vì chẳng có một phi vụ nào rỗi rảnh cả.
Trải dài dưới cánh bay là một quê hương Việt Nam đen thẳm, u tối. Ở
dưới đó có hằng trăm ngàn con người đang toan tính để tàn sát lẫn
nhau. Thi thoảng, xuất hiện những đốm sáng của các signal lơ lững
dưới những chiếc dù trắng bé tẹo để soi sáng mảnh quê hương ghẻ lở,
đau thương của tôi. Dựa vào những đốm sáng lập loè đó, lũ chúng tôi
căng mắt ra để tiêu diệt những người cùng tiếng nói, màu da. Chỉ
khác chăng là những cái dung chứa trong đầu, nhưng cả hai bên đều
chung một niềm sợ hãi.
Bay được khoảng 10:00 đêm bắt đầu vào không phận Kontum. Tín hiệu
đèn màu xanh lá cây đã bật sáng nhấp nháy trong khoang máy bay, có
nghĩa là chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng để đáp xuống. Lưng mang ba
lô, đầu đội nón sắt, tay cầm khẩu súng trường M-16. Chiến trường lúc
bấy giờ, sĩ quan chỉ huy ngoài khẩu Colt 45 thường phải mang theo
một khẩu súng trường để tự mình có thể chiến đấu khi đụng trận vì
chuyện thất lạc đơn vị vẫn thường xảy ra do mặt trận nào cũng rất ác
liệt, bùng nổ một cái thì chuyện tan đàn xẻ nghé là chuyện thường
ngày. Tôi đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng ở cửa đuôi máy bay, chờ cửa mở
là lao xuống ngay. Cách phi trường dã chiến Kontum khoảng 15 phút
bay, tất cả đèn đều vụt tắt để tránh phía bên kia phát hiện có máy
bay tới mà pháo kích hoặc bắn cao xạ phòng không hoặc hoả tiễn tầm
nhiệt SA-7. Dấu thì dấu ánh sáng thôi chớ làm sao mà dấu tiếng động
cơ máy bay. Các tọa độ đường băng đã được chấm sẵn trên bản đồ và
mọi nòng pháo đã chực chờ nhả đạn. Có thoát được hay không tất cả
đều dựa vào chữ HÊN XUI!
Cánh quạt động cơ của các loại máy bay quân sự được chế tạo rất đặc
biệt và được làm bằng gỗ tếch (giá tỵ), loại được dùng làm báng súng
bởi độ bền chắc và độ dẻo của nó và không dễ gì bị gãy khi chém gió
với tần suất cao. Nó có thể điều khiển cho quay ngược 90 độ từ phi
công để thay đổi chiều gió mà không ảnh hưởng tới vận tốc của động
cơ. Ta có thể quan sát từ cánh quạt máy vẫn thường dùng ở nhà thì
hiểu liền việc thay đổi hướng gió. Thông thường, động cơ quạt máy sẽ
được chế tạo quay theo chiều kim đồng hồ, và bố trí cánh quạt theo
hướng bên trái cao hơn bên phải để khi động cơ quay sẽ đạp gió về
phía trước tạo ra một luồng gió mát. Trên nguyên tắc, nếu động cơ
tạo ra một sức quay đủ mạnh sẽ đẩy cái quạt ra sau.
Động cơ máy bay là một động cơ đốt trong với 32 cái bu-gi có đến 3
chấu đánh lửa cho mỗi bu-gi nên khó có chuyện động cơ mất lửa khi
đang bay. Những hỏng hóc nếu có là ở bộ phận khác hoặc bị đạn xuyên
thủng thì đành chịu. Mỗi máy bay có tới 4 động cơ thì dễ gì có
chuyện “chết máy” khi ở lưng chừng trời?
Thông thường khi bay, cánh quạt sẽ được để ở trạng thái mặc định là
bên phải sẽ nhô cao hơn bên trái, đẩy gió ra phía sau để đưa máy bay
lướt về phía trước. Khi đáp xuống phi đạo, pilot sẽ điều khiển cho
cánh quạt xoay theo hướng ngược lại để hãm đà máy bay, gọi là
“thắng” bằng động cơ, chớ với vận tốc vài trăm cây số giờ thì chẳng
có cái thắng thông thường nào mà xài được.
Vừa đáp xuống phi trường quân sự dã chiến Kontum, pilot tăng tốc tối
đa cho động cơ và xoay chiều cánh quạt. Chúng tôi đang đứng chờ ở
cửa phía sau thì tất cả đã bị lộn tùng phèo đập mạnh vào lưng buồng
lái bò lê bò càng. Tôi không bao giờ tưởng tượng nổi một chiếc vận
tải cơ C.130 to lớn kềnh càng như thế lại có thể dừng lại ngay khi
đáp xuống phi đạo với khoảng đường chưa đầy 100 mét. Cửa vừa mở là
chúng tôi bung ra nhảy ngay xuống giao thông hào được đào sẵn dọc
hai bên phi đạo và tiếng pháo đã bắt đầu dồn dập, đè rạp những cái
đầu tí hon sát xuống mặt đất không thể ngửng lên. Phi cơ cất cánh
rời khỏi tức khắc và thoát nạn sau khi đã đẩy được chiếc xe nâng
hàng tuột xuống phi đạo.
Chúng tôi đã chịu đựng trận pháo ấy kéo dài từ 10:30 tối đến 5:00
sáng. Sương đêm vẫn còn giăng kín núi rừng Kontum với cái lạnh đá
núi se sắt.
Pháo đã ngưng có lẽ vì hết đạn hoặc giả sợ những đốm lửa từ nòng
pháo sáng lên bị phát hiện và bị phản pháo. Nằm đợi im tiếng pháo
một lúc khá lâu để yên chí không còn thưởng thức bản hành khúc hùng
tráng ấy nữa, chúng tôi mới dám rời khỏi giao thông hào. Quần áo ướt
sũng sương đêm, nỗi sợ hãi tràn đầy, cộng với cái bùn lầy đỏ quạch
cao nguyên nhem nhuốc dưới mương nước mới thấm thía cái sự thưởng
thức những gian khổ đời lính.
Bình minh đã bắt đầu ló dạng bên kia dãy núi kèm theo chút sương mai
buổi sớm cộng thêm nỗi vui mừng mạng sống mình được cộng thêm một
ngày, tôi thở phào nhẹ nhõm. Gió ban mai thổi nhẹ như làm trôi đi
những nhọc nhằn của một đêm thức trắng trong nỗi sợ hãi cùng cực. Mà
lúc đó tôi nào để ý đến cái chuyện sương mai, sương sớm gì đâu. Chỉ
biết mình còn sống sót là đã đủ mừng vui. Thì giờ, tâm trí đâu mà
thưởng thức nỗi êm mát dịu dàng của những giọt sương long lanh đầu
cành?
Lết bộ 3 cây số thì đến được Bộ Tư Lệnh tiền phương của Sư Đoàn 23
Bộ Binh để trình diện và xin một chiếc xe Jeep đi khảo sát chiến
trường. Trước cửa hầm ngầm chống pháo của Bộ Tư Lệnh tiền phương,
cũng có 2 anh chàng Quân Cảnh trong tư thế thao diễn nghỉ đứng gác
cho ra vẻ, nhưng quần áo thì lem nhem, mặt mủi bơ phờ chớ đâu còn
những bộ quần áo ủi hồ láng cóong theo đúng quân phong quân kỷ trời
ơi gì nữa? Hầm được đào thật sâu dưới mặt đất, trên lót rất nhiều
lớp cây rừng rồi đổ đất dầy lên chống đạn. Thì cũng làm cho có chừng
vậy thôi chớ hoả tiễn nó mà rơi trúng thì cũng banh xác hết. Trên
vách đất treo la liệt những súng ống, dao găm, dao quắm đi rừng. Bản
đồ hành quân khổ lớn thì treo kín trên vách. Những nét vẻ xanh đỏ
chằng chịt.
Tiếp chúng tôi là một quân nhân mang cấp bậc Đại Tá. Tôi cũng chẳng
biết ông ta giữ cái chức vụ gì trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Trình Sự vụ Lệnh và báo cáo xong, chúng tôi được cấp cho một chiếc
xe Jeep quân sự để đi khảo sát chiến trường. Chạy ra tới Thị xã
Kontum thì chỉ còn một đống gạch vụn khổng lồ. Một chiếc xe tăng
T.54 bị bắn cháy nằm trước nhà hát nhỏ chút của Thị xã. Cái rạp hát
nầy trước kia chắc chỉ toàn chiếu phim Ấn độ với phim cao bồi Mỹ.
Xuyên qua đám gạch đá đổ nát hoang tàn khổng lồ đó, chúng tôi đi
vòng quanh rồi qua bên kia thị xã. Một Đại đội lính Sư Đoàn 23 Bô
binh mà quân số chắc chỉ còn khoảng 45 người theo sự ước đoán của
tôi, có nghĩa là đã mất gần nửa quân số hành quân đi ngang. Chỉ huy
là một chàng Trung Uý chắc chỉ độ khoảng tuổi tôi, quần áo nhếch
nhác, râu ria lởm chởm như năn mắc nước chả biết bao nhiêu ngày rồi
chưa cạo. Bước thấp bước cao lẽo đẽo kế bên là anh chàng tài-lọt
mang máy PRC-25. Lướt đôi mắt trũng sâu thất thần ơ hờ liếc ngang
rồi cắm cúi bước đi theo đoàn quân. Chắc trong suy nghĩ của anh
chàng Đại Đội Trưởng Bô Binh ấy thế nào cũng thoáng có chút ghen tị
với mấy anh chàng đang ngự trên chiếc xe Jeep.
Ai đã từng phải dùng cái đầu còn chút sáng suốt tinh khôn của mình,
vận dụng chút nhạy bén để bảo toàn cho những sinh mạng dưới quyền
mới hiểu thấu được những suy nghĩ của chúng tôi. Những sinh mạng ấy
rất thân thiết, đùm bọc che chở cho nhau trong cái ác liệt của chiến
tranh. Họ yêu thương nhau bằng tất cả tấm chân tình, cố gắng bảo vệ
mạng sống con sâu cái kiến cho nhau. Nó còn gấp nhiều lần cái tình
ruột thịt của anh em một nhà nữa. Chỉ những người lính đã trải qua
cái “đận” ấy thì trong cuộc sống sau nầy mới cư xử tử tế hơn đối với
mọi người chung quanh.
Ở lại 2 ngày trong cái Thị Xã hoang tàn đó, Tay Đại Uý Mỹ trắng xin
được 1 chiếc trực thăng UH-1B của Mỹ đưa chúng tôi trở lại Thủ phủ
vùng cao nguyên bom đạn: Pleiku. Ngồi trên chiếc trực thăng do những
Pilot người Mỹ lái, mắt lướt nhìn từng con ốc rung bần bật muốn rời
ra của chiếc trực thăng tơi bời trong chiến tranh, nhìn những cặp
mắt xanh lơ của những chàng Pilot Mỹ, bay trên trời với những phát
đạn cầu âu từ dưới đất bắn lên thỉnh thoảng chạm soẹt vào càng đáp
máy bay, tôi thấy cảm thương cho thân phận của họ biết chừng nào! Về
phía tôi thì đã đành đi, chiến tranh đang xảy ra trên quê hương mình
thì chuyện cầm súng là một bổn phận đương nhiên của những chàng trai
trẻ. Còn với những người mũi lỏ mắt xanh nầy, đang sống một cuộc đời
an vui, đầy đủ những tiện nghi vật chất trong một đất nước thanh
bình, xinh đẹp. Một đất nước văn minh, hiện đại, đầy đủ tất cả những
điều kiện cho một người muốn thăng tiến để tìm một cuộc sống tươi
đẹp ở một nơi như chốn thiên đường hạ giới mà ai ai, ở bất cứ nơi
nào trên thế giới đều muốn đặt chân đến, mà giờ nầy phải có mặt nơi
đây, một đất nước nhỏ bé, nghèo khó và đầy dẫy những tai ương, bất
trắc, lúc nào cũng rình rập chực cướp đi mạng sống thanh xuân của
họ? Tội nghiệp thay!
Chiếc
trực thăng UH-1B rệu rã vì đạn ấy cuối cùng cũng đưa chúng tôi vượt
thoát khỏi chặng đường bay tử thần và hạ cánh xuống trước sân Bộ Tư
Lệnh Vùng II Chiến Thuật. Bước xuống, chúng tôi ngoặc vào dãy
barrack dành cho khách vãng lai của Mẽo để ghi tên lấy phòng nghỉ
tạm chờ phi vụ về lại Sài Gòn. Tắm rửa nghỉ ngơi xong, chúng tôi
xuống Mess Hall của Mỹ ăn trưa. Hạ sĩ quan và binh sĩ được phục vụ
miễn phí. Riêng sĩ quan khi ăn thì phải mua ticket vì phần ăn hàng
ngày của các sĩ quan đã được tính vào lương tháng rồi. Đến đây, hai
cái bông mai đen thui ngự trên cổ áo, niềm tự hào và hãnh diện của
một sĩ quan làm khổ tôi đây. Officer thì phải mua ticket, nhưng
trong túi tôi làm gì có những đồng đô la đỏ MPC của quân đội Mỹ mà
mua cơm? Đành phải talk by hand với chàng Đại Uý da trắng xin tiền
anh ta thôi. Hơi bị nhục vì một bữa ăn đấy! Tự nhiên đang ở trên đất
nước mình mà lại trở thành một kẻ ăn mày của một người ngoại bang.
Lại còn cái chuyện thuốc lá nữa chứ. Thường mỗi tháng sau khi lãnh
lương tôi đã mua sẵn cho mình 3 cây thuốc thơm Capstan và 1 cây
thuốc Pall Mall đỏ để hút dần trong tháng. Lúc ra đi, tôi cũng đã bỏ
sẵn 5 gói thuốc Capstan trong ba lô rồi, ai dè bị kẹt lại dài ngày
thì hết thuốc. Trong Mess Hall của Mỹ thì chỉ trao đổi bằng MPC.
Chẳng lẽ đã xin ăn giờ lại xin hút nữa sao? Đành chịu trận luôn.
Về chuyện ăn uống trong quân đội Mỹ có một cái rất hay. Thực đơn cho
tất cả các đơn vị quân đội Mỹ trên toàn thế giới đều đã được lập sẵn
và đâu đâu cũng như nhau. Buổi sáng thì toàn bộ quân nhân Mỹ đều
được ăn sáng với một món duy nhất là trứng gà oeufs sur plat với
khầu phần 3 trứng kèm bánh mì. Nếu ai để ý một chút về chuyện ăn
uống, xuống xem bảng thông báo món ăn trưa nay ghi ở cửa Mess Hall,
giả sử có một chuyến công tác đột xuất phải bay ngay sang Thái Lan
thì y như rằng, trưa đó bạn cũng sẽ được ăn đúng cái món mà bạn đã
thấy ghi hồi sáng nay ở Mess Hall Việt Nam. Thậm chí bạn bay qua
Philippines hay Nam Triều Tiên bằng máy bay phản lực thì món đó cũng
sẽ ngự trên bàn ăn của bạn. Tất cả đều được thiết lập sẵn, và những
con người sinh sống trong cái thế giới đó đều trở nên máy móc hết.
Dần hồi nó xâm lấn cả vào trong tư tưởng, tâm hồn của họ luôn. Một
thế giới thực dụng!
Lại phải kẹt lại Pleiku 4 ngày vì tất cả các phi vụ đều phải tận
dụng hết cho một chiến trường đang ngùn ngụt lửa hoả ngục. Ai đang
phải kẹt trong rừng sâu muỗi mòng, vắt, ve, ai đang phải kẹt trong
những bãi sình dơ bẩn đĩa đeo thì mặc kệ. Những người lính Mỹ tại
hậu cứ vẫn ăn uống theo cái menu đã được lập sẵn của quân đội.
Week-end là phải có món thịt bò nướng ngoài trời trên lửa than và
những lon bia rồi. Họ cứ bày một mâm thịt bò kế bên bếp lửa để tự
chọn, ai muốn ăn miếng lớn miếng nhỏ, dầy hay mỏng thì tùy, ai muốn
nướng chín hẳn hay muốn chín tái thì yêu cầu sẽ được thực hiện ngay.
Xong buổi ăn hoành tráng ấy lại mò lên club coi mấy cô gái trong ban
nhạc Phillippines ưởn ẹo trong những điệu nhạc dâm dật phục vụ cho
bọn lính Mỹ xa nhà. Cũng là một cuộc rong chơi thú vị vì chẳng mấy
khi mình được dịp xâm nhập vào thế giới của họ.
Sau 4 ngày phải lò dò lên phi trường mỗi ngày, cuối cùng chúng tôi
cũng được thông báo là có phi vụ về Sài Gòn của một máy bay quân sự
Mỹ và chỉ dành riêng cho người Mỹ. Nút thắt trong chuyến “dạo chơi”
của tôi xuất hiện. Khi ghi tên hành khách vào manifest, thấy tôi là
một Vietnamese Officer, gã Hạ sỉ nhất không quân Mỹ lắc đầu. Hai cái
bông mai nguỵ trang, cái bằng dù nằm trên ngực áo, bộ quần áo hoa
bèo không giúp ích gì cho tôi trong chuyện nầy dù tôi đã phải thừa
sống thiếu chết mấy ngày qua. Mặc cho chàng Đại Uý Mỹ cố thuyết phục
nhưng gã vẫn lắc đầu nguầy nguậy, bĩu môi quay đi và phán:
- NO!
Một sự trịch thượng rõ ràng.
Máu nóng đã bắt đầu dồn lên mặt. Lên đạn khẩu M.16 đánh rốp một cái,
tôi chĩa ngay vào hắn và sủa một câu:
- “God’am! What do you want now?”.
Hắn tái mặt và gật đầu lia lịa:
- OK! OK!
Thế là tôi thoát ra được mớ hỗn mang ấy và bay vù về Sài Gòn.
Trong đơn vị tôi, có một gã Trung Tá cố vấn người Mỹ. Thực ra, sau
nầy không còn chế độ cố vấn Mỹ nữa rồi vì đã bước qua giai đoạn Việt
Nam hoá chiến tranh. Nhưng do là một đơn vị đặc biệt nên vẫn còn lưu
lại sự cố vấn của người Mỹ. Trong một buổi họp Tham Mưu của các sĩ
quan, Trung Tá xếp của tôi nêu đích danh tôi tại buổi họp và hỏi:
- Trung Tá cố vấn than phiền sao Trung Uý gặp ông ta mà không chào?
Tôi giả tảng trả lời:
- Chắc do tôi sơ ý không thấy thôi.
Thực sự những lần tình cờ gặp hắn đi ngược chiều, tôi hay giả lơ
nhìn chỗ khác hay làm bộ cúi xuống buột dây giày botte de saut. Tôi
là một sĩ quan quân đội Việt Nam thì tôi chỉ chào kính đối với một
sĩ quan Việt Nam cao cấp hơn tôi thôi, hà cớ gì tôi phải chào kính
một sĩ quan của một quân đội ngoại bang? Tôi biết đó là một điểm âm
trong nhận xét cuối năm của thượng cấp vì có sự tác động của tay cố
vấn, nhưng tôi hoàn toàn chấp nhận.
Và thú thực tôi đã phải lãnh một hậu quả rất tồi, nhưng rồi cũng
thoát ra được do HÊN!
Hay hổng bằng hên!
HÙNG BI
Sinh Tồn chuyển