Đoạn Đường Chiến Binh
Thảo Nguyên & Huy Văn: Một Cuộc Hành Trình
Ông là một trong số những người được dưỡng dục trong chuỗi
hoàng hôn của nền văn học Hán-Nho trước khi phong trào truyền
bá chữ Quốc Ngữ chính thức đăng quang ở thập niên 40 của thế
kỷ trước. Trong buổi giao thời của văn hóa Đông-Tây và trong
hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước bị sâu xé bởi thực dân
Pháp và Việt Minh cộng sản, người trai trẻ họ Trần quyết định
ly hương để tự lập thân, mặc dù đã được một gia đình địa chủ
trong thôn nhận làm dưỡng tử, cưu mang từ tấm bé và đã có ý
định chọn vợ cho ông. Cho dù chỉ với hai bàn tay trắng nhưng ý
chí và mục tiêu của ông đã rất kiên định: phải bằng mọi cách
thoát ly khỏi vùng Việt Minh kiểm soát vì không thể chấp nhận
và không thể nhìn cảnh bọn vô thần đang hiện nguyên hình là
những tên sát nhân cuồng tín núp dưới danh nghĩa kháng Pháp để
thu quyền và gom lợi về cho bọn chúng.
Ông nhập ngũ ngày 1/2/1954 khi có lệnh động viên và sau 3 tháng
huấn luyện cộng với 2 tháng thành lập đơn vị, Tiểu Đoàn khinh
quân 724, một đơn vị tinh nhuệ và cũng là tiền thân của Lực
Lượng Đặc Biệt (Comandos) sau này, ra đời tại tỉnh Quảng Yên
(sau sát nhập với tỉnh Hải Ninh để trở thành tỉnh Quảng Ninh).
Lúc đó trận Điện Biện Phủ đã vào giai đoạn tàn cuộc, nên
toàn bộ đơn vị được đoàn phi cơ C47 không vận từ sân bay Hải
Phòng, vượt vĩ tuyến 17 và hạ cánh tại Tuy Hòa – Phú Yên sau 2
giờ bay. Tiểu Đoàn Khinh Quân 724 sau đó được sát nhập vào Sư
Đoàn 2 Tân Lập do Đại Tá Tôn Thất Đính làm Tư Lệnh. Năm 1963 ông
theo học khóa Hạ Sĩ Quan Trừ Bị tại Đồng Đế – Nha Trang. Đến
lúc này thì gia đình ông đã càng ngày càng thêm nhân khẩu và
người vợ hiền thục rất đảm đang – một người con gái cũng đã
thật can đảm khi yêu ông và thành thân với ông cho dù lúc đó
mối mai và họ đàng trai chính là cấp chỉ huy trong đơn vị của
ông – đã là một nội tướng đúng nghĩa khi giúp ông quán xuyến
gia đình về mọi mặt cho dù đã phải theo ông từ hết trại gia
binh này đến trại gia binh khác. Ngay từ khi cháu gái đầu lòng
cất tiếng gọi “Ba” là ông đã nhận biết “thiên chức thiêng liêng”
của mình về cả hai phương diện Nợ Nước và Tình Nhà, hiểu
theo nghĩa muốn bảo vệ cho gia đình thì phải chống lại sự xâm
lăng từ phương bắc. Vì vậy, ông luôn kiên nhẫn chờ đợi một ngày
có cơ hội thi thố khả năng của một người có khiếu lãnh đạo
chỉ huy nhưng phải ẩn nhẫn chờ thời chỉ vì lý do: Hán học
của ông tuy uyên thâm nhưng đã lỗi thời, còn khả năng Tây học
thì không đủ để giúp thâu ngắn thời gian thăng cấp!
Năm
1966, Liên Đoàn 1 BĐQ được thành lập. Ông thuyên chuyển về Tiểu
Đoàn 39 BĐQ, lúc đó đang đồn trú tại Miếu Bông, thuộc ngoại ô
của thành phố Đà Nẵng. Đời lính tác chiến luôn rày đây mai
đó, nhưng ông không hề xao lãng bổn phận đối với gia đình. Kín
đáo và ân cần với vợ. Nghiêm khắc nhưng tràn đầy tình phụ tử
đối với con cái. Không thường xuyên có mặt tại nhà nhưng trong
những lần về phép hay dưỡng quân tại hậu cứ, là toàn bộ thời
gian đều được ông dành tối đa cho vợ con. Tình nhà vẫn luôn
nồng ấm, còn Nợ nước thì vẫn còn phải trả, trả suốt đời!
Vết thương và miểng đạn pháo trong ngực là lời nhắc nhở
thường xuyên về một món nợ đối với tổ quốc nói chung và đồng
đội nói riêng. Những người cùng ông đứng trong hàng quân từ
thuở còn trong Tiểu Đoàn Khinh Quân 714 đã lần lượt đi vào thiên
cổ hoặc giã từ vũ khí vì thương tật, còn ông thì nhờ Trời, “… còn thở là còn chiến đấu”!.
Rồi cũng đến lúc nghiệp nhà binh của ông tiến dần đến một
hướng mới, nơi đó có một con đường: con đường vun đắp tài thao
lược và năng khiếu chỉ huy đã tiềm ẩn trong con người ông bấy
lâu nay. Sau khi góp phần tái chiếm cố đô Huế, ông được đưa đi
học khóa Sĩ Quan Đặc Biệt ở Trường Bộ Binh Thủ Đức giữa năm
1968. Qua năm sau, ông về trình diện Tiểu Đoàn 37 BĐQ với chiếc
lon chuẩn úy mới tinh trên ve áo. Không lâu sau đó, Liên Đoàn 1
BĐQ về đồn trú tại thôn Phú Lộc, thuộc xã Hòa Minh, còn gia
đình ông thì dọn về trong khu phát triển đô thị thuộc xã Hòa
Mỹ gần ngả ba Huế, không quá xa hậu cứ Tiểu Đoàn và cũng là
một hình thức tự lực cánh sinh để nhường một chỗ trong trại
gia binh cho đồng đội nào cần một mái nhà hơn mình. Những năm
kế tiếp là chuỗi ngày chinh chiến ngược xuôi, là những thăng
trầm và gắn bó với đơn vị và đồng đội. Đây cũng là khoảng
thời gian ông đưa hai chữ “thiên chức” vào hiện thực của
chiến tranh khi phát huy khả năng tác chiến thật hiệu quả và
cung cách chỉ huy đầy tính nhân bản của mình. Nắm trung đội
chưa bao lâu, trong cuộc hành quân Dương Sơn 3/70 trong vùng Quế
Sơn, trung đội của ông đã tiêu diệt hoàn toàn bộ chỉ huy của
một đơn vị cộng sản cấp tỉnh và bắt sống tên bí thư Tỉnh ủy
của tỉnh Quảng Tín cùng tịch thu được một số tài liệu tối
mật. Tin chiến thắng bay về tận Bộ Tổng Tham Mưu. Nhận lời mời
của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu
I, đích thân Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH
bay ra Bộ Chỉ Huy Hành Quân của LĐ 1BĐQ tại thị xã Tam Kỳ, tỉnh
lỵ của Quảng Tín để nhận tài liệu và dự lễ khao quân, tưởng
thưởng đặc cách cho các chiến sĩ hữu công. Chiếc lon thiếu úy
của ông được hai vị tướng ấy – mỗi người một bên – đồng loạt
gắn lên cổ áo của ông trong ngày hôm đó.
Ông tham gia tất cả những trận đánh để đời của QLVNCH nói chung
và Binh chủng BĐQ nói riêng tại Quân Khu I trong những năm dầu
sôi lửa bỏng nhứt của cuộc chiến. Từ Mậu Thân 1968, hành quân
Lam Sơn 719 năm 1971 trên chiến trường hạ Lào, trận tái chiếm cổ
thành Đinh Công Tráng tại Quảng Trị năm 1972 (khi đơn vị lần
lượt tăng phái cho Nhảy Dù rồi Thủy Quân Lục Chiến), trận Sa
Huỳnh tháng 2/1973, một trận đánh hào hùng và tốc chiến khi
Liên Đoàn 1 BĐQ hành quân từ Mộ Đức tiến về Sa Huỳnh, thuộc
Đức Phổ, quận cực nam của tỉnh Quảng Ngãi để đánh bật quân
cộng sản Bắc Việt ra khỏi nơi này ngay trong những ngày Hiệp
Định Ba Lê bắt đầu có hiệu lực (ngày 27/1/1973), cho tới những
đụng độ không kém phần khốc liệt trong Mộ Đức, Suối Đá – Tam
Kỳ, Nông Sơn – Đức Dục của những năm 1974-1975, ông đều hoàn tất
nhiệm vụ được giao phó một cách xuất sắc. Từ chuẩn úy (1969)
lên đại úy (tháng 2/ 1973) chỉ mất không đến 4 năm đủ nói lên
khả năng tác chiến của ông trong mọi hoàn cảnh và tình huống.
Ông đối xử với thuộc cấp trong tinh thần rất… chi binh nếu không
muốn nói là như Cha với Con nếu xét về mặt tuổi tác. Riêng
trong tinh thần Huynh Đệ Chi Binh, ông luôn luôn nhắc nhở, hướng
dẫn, nâng đỡ đàn em và chia xẻ kinh nghiệm chiến trường mỗi khi
có dịp: “Sơ xuất hay lầm lỗi trong Quân Trường có thể được
sửa đổi, còn quyết định sai lầm ngoài chiến trường thì phải
trả giá bằng máu hay sinh mạng của chính mình và đồng đội.
Vì thế, các anh phải hết sức thận trọng…” Bề ngoài thì ông
có phong cách rất võ biền, nhưng bên trong là một trái tim mẫn
cảm. Nhắc tới ông và những kỷ niệm thời xuôi ngược khắp vùng
trách nhiệm hành quân của đơn vị, một khinh binh kiêm âm thoại
viên đã có lời mộc mạc nhưng rất mực thân kính như sau:
“Nhờ anh chuyển tiếp lời thăm hỏi đến Papa Vương Vũ, Bố ơi,
khi nào không còn hơi thở thì chúng em mới quên papa. Có bao giờ
papa gọi chúng em là mầy tao đâu, dù lửa sôi, sanh tử cận kề,
cũng một mực anh và tôi, mẫu mực sống chúng em sao quên được, Sa
huỳnh, Quế Sơn, Khe thay, Duy xuyên, Điện bàn, Đức dục, Phong
thử ngày nào vẫn còn đó há dễ gì quên, vẫn còn dang dở cầu
chúc ơn trên phù hộ bốan khang tráng kiện. Hẹn gặp lại. Kính
chào bố. Nguyễn Phong.”
Thêm câu nói khác của thượng sĩ Lê Văn Trữ, một chiến sĩ xuất
sắc trong trận Sa Huỳnh, người đã góp phần giúp ông nhận thêm
một bông mai đặc cách chỉ sau khi đảm nhiệm chức vụ đại đội
trưởng có 9 tháng: “… Bố Vương lo cho anh em hết mình. Rất thẳng thắn và… chịu chơi!”
Mối liên hệ thầy trò và tình nghĩa chi binh đó được biểu hiện
thật đậm nét khi – trong ngày lui binh từ Xã Đức Tân về Kỳ An –
ông đạp trúng mìn của địch và bị trọng thương khi còn cách
quốc lộ cả 2 cây số. Gãy chân, mất máu, đuối sức và đang phải
vừa cầm chân địch vùa tháo lui, ngần ấy thứ có thể chôn vùi
tên tuổi của bất cứ một đại đội trưởng nào khác. Nhưng với
con Cọp “già” dạn dày trên chiến trường có tên hiệu là
Vương Vũ thì mặc dù đang chịu đau đớn thể xác, ông vẫn cố
gắng chỉ huy anh em khi được các đàn em thận cận của mình thay
nhau cõng, vác suốt con đường máu từ Đức Trạch ra Kỳ An, rồi
từ Kỳ An ra tới quốc lộ 1. Ông chỉ bỏ lại anh em khi được tải
thương cấp tốc về Đà Nẵng. Hôm đó là ngày 22/3/1975. Ngày hôm
sau, Cọp già của TĐ 37 BĐQ đành phải chấp nhận cho bác sĩ cưa
chân hai lần để bảo toàn mạng sống vì máu bị nhiễm trùng và
đã lan đến quá gối.
Những ngày sau đó, Đà Nẵng rối loạn trong cơn hấp hối. Quân và
Dân của thủ phủ vùng 1 tìm cách ra khơi bằng mọi phương tiện.
Nhưng đã quá muộn. Địch dùng đại pháo từ trên sườn đèo Hải
Vân bắn chận trên cửa biển. Ngoài một số ghe, thuyền nhỏ bé
liều mạng vượt sóng ra khơi để được tàu Hải Quân tiếp vớt, số
còn lại đành thúc thủ vì xà lan khẳm người, tàu kéo chậm
chạp, sông Hàn dày đặc tàu bè lớn, nhỏ. Thương vong quá lớn
nên sau khi chuyển được một ít chuyến thì Hải Quân bỏ cuộc.
Những người tập trung dọc theo đôi bờ sông Hàn, tại bến Hải
Quân Tiên Sa, bán đảo Sơn Trà, trên bến tàu Trình Minh Thế hay
tại bãi Thanh Khê, đều bị bỏ lại từ sau nửa đêm của ngày
28/3/1975. Tổng Y Viện Duy Tân di tản, Đà Nẵng hỗn loạn rồi thay
đổi chủ. Ông may mắn được các bà Sơ làm việc tại bệnh viện
Việt-Đức nhận vào săn sóc và càng may mắn hơn là vào giờ
phút rối rắm đến cùng cực đó, ông lại được một đồng đội thân
tín quyết chí ở lại săn sóc cho ông thay vì anh này có thể
đường hoàng về Nha Trang xum họp với gia đình. “Em không thể bỏ đại úy trong hoàn cảnh này được”
Người quân nhân tên Diệp đó đã nói như vậy khi ông bảo anh ấy
hãy lo tìm cách trở về với gia đình. Chỉ sau khi thấy sức
khỏe của vị đại đội trưởng đã tương đối ổn định và khi cô con
gái đầu lòng của ông – một sinh viên đang theo học khóa Cán Sự
Điều Dưỡng – từ Huế trở về để tình nguyện phụ giúp vào
việc chữa trị cho ông cùng với những bệnh nhân gốc Lính khác,
thì Diệp mới từ giả ông để tìm về với gia đình anh tại Nha
Trang.
Ông mất một chân nhưng không mất tinh thần trước cuồng lưu đỏ
đang phủ chụp lên Đà Nẵng cho dù khi ra khỏi bệnh viện thì ngôi
nhà trong Hòa Mỹ đã bị đám “ủy ban quân quản” tịch
thu. Trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng của cuộc đổi đời, tìm
một ngôi nhà khác không khó khăn nhưng vừa có chỗ ở thì tuy
không bị đưa đi cải tạo tập trung, ông cũng bị chính quyền địa
phương bắt đi học tập tại chỗ, đi mít tinh, thậm chí đi lao
động liên miên mặc dù vết thương chưa kịp kéo da non. Những năm
kế tiếp là cả một sự trần thân của kẻ sĩ sa cơ, một chiến
sĩ bại trận và cũng như hầu hết những con dân của miền Nam
khác, ông âm thầm sống bên lề thời cuộc với niềm vui duy nhứt
là là chiếc máy radio transistor để nghe tin tức trên hai đài VOA
và BBC Luân Đôn. Mọi thứ thông tin khác từ phía “cách mạng”
ông chẳng màng tới. Cho đến năm 1979, khi chúng bắt buộc cả
nhà đi kinh tế mới trên Ban Mê Thuộc thì ông biết đã đến lúc
phải lìa bỏ Đà Nẵng. Nhà mất nhưng người còn, mặc dù phải
tạm chia lìa bằng cách để cho cô con gái kế ở lại giữ căn nhà
làm gốc để có nơi quay về nếu lỡ phải trở lại Đà Nẵng. Một
năm vật vã với rừng thiêng nước độc ở buôn Thung đã làm ông
và gia đình tưởng chừng như đã rơi vào tuyệt lộ vì phải tự
đào đất đắp nền nhà, tự đào giếng để có nguồn nước sạch,
tự xoay sở hay cắn răng chịu đựng mọi thứ bệnh trên đời bởi
nhà nước chỉ cấp phát đất cho dân rồi thôi, cứ thế mà mạnh ai
nấy sinh tồn. Hành động trả thù thô bạo đã nói lên dã tâm
trả thù một cách kín đáo nhưng hèn hạ đàng sau những mỹ từ
như: giãn dân, kinh tế mới hay lao động khẩn hoang của phe thắng
cuộc. Trong lúc gần như tuyệt vọng thì ông bắt được liên lạc
với bạn bè kiêm đồng đội cũ ở Sàigòn, ông lập tức một mình
đi tìm gặp họ để thăm dò đường đi nước bước rồi sau đó mới
đưa cả gia đình từ Buôn Thung về Sài gòn. Nhờ sự tận tình
giúp đỡ của bạn bè và cũng nhờ các “quan” địa phương
đã bắt đầu biết… ăn hối lộ nên ông và cả nhà cũng đã chạy
được một tờ hộ khẩu và một nơi tạm trú cho cả gia đình trong
một khu phố trên đường Trương Minh Giảng.
Từ ngay sau ngày bị nhuộm đỏ bởi cộng sản, trong miền nam đã
dậy lên một hành động phản kháng rất ôn hòa: vượt biên! Rộn
ràng nhứt là lúc có phong trào ra đi bán chính thức khởi đầu
từ sau vụ đánh tư sản mại bản và trục xuất người Hoa của
chính quyền trung ương năm 1978. Do đó, ngay khi vừa có nơi ăn
chốn ở ổn định là ông quyết định cho gia đình tìm cách xuống
ghe ra khơi. Từ 1981 cho đến 1989 gia đình ông tung hết số tiền
dành dụm, chắt chiu vào việc đi tìm tự do thay vì suốt đời
chịu đựng sống với chế độ phi nhân trong nước. Trời xanh không
phụ lòng người! Sau nhiều lần thất bại trong việc ra khơi cũng
như sau mấy lần ông bị công an thẩm vấn tại số 8 Phan Đăng Lưu
về việc giấy tờ và Chứng Minh Nhân Dân do đâu mà được cấp
phát, cả nhà đều lần lượt tới Mã Lai, Nam Dương rồi Palawan
(Phi Luật Tân) sau 5 chuyến vượt biển thành công (và vô số lần
thất bại).
Nếu Hổ của thi hào Thế Lữ “gặm mối căm hờn trong cũi sắt”
thì Cọp lìa đàn của Binh Chủng Biệt Đông Quân QLVNCH cũng ưu tư
và trăn trở không kém về mối hận ly hương khi phải sống kiếp
lưu vong. Mặc dù gia đình yên ổn sum vầy, con cái thành đạt nơi
đất khách quê người là niềm tự hào thật sâu lắng trong lòng
ông, nhưng bên cạnh đó là nỗi buồn cứ mỗi ngày một đè nặng
lên ký ức. Ông nhớ quê xưa, nhớ kỷ niệm thời thơ ấu, nhớ cả
những buồn vui, khó nhọc của gia đình mình qua hơn 15 năm lây
lất sống trong ngục tù bao la của cộng sản. Ông thầm cảm ơn
người vợ đã chia xẻ gian lao, khổ ải, ngọt bùi qua biết bao
nhiêu thăng trầm của cuộc sống. Người vợ Lính qua mọi thời kỳ
đều như thế: nhẫn nhục, trung trinh, cáng đáng một cách khéo
léo để cùng chồng xây dựng mái ấm gia đình cho dù phải chuyển
dời hết trại gia binh này tới trại gia binh khác. Mãnh hổ một
thời xông pha lửa đạn bây giờ là một lão niên với chiếc chân
giả và mảnh đạn còn nằm trong phổi. Dấu ấn binh đao vẫn hiển
hiện ngay trên thân thể đã bước qua tuổi thượng thọ nên những
lúc trái gió, trở mùa là ông lại phải chiến đấu với cơn đau
thể xác như đã từng làm hơn 40 năm qua. Thể chất dù đã héo hon
nhưng tinh thần thì không chút suy suyển. Ông hãnh diện vì đã
phụng sự cho tổ quốc và càng không quên bất cứ trận đánh nào
mình đã tham dự cho dù một bên tai đã hoàn toàn bất khiển
dụng và trí tuệ đôi lúc đã bềnh bồng trôi vào cõi vô minh.
Không quên quá khứ của thời chinh chiến cũng có nghĩa là ông
luôn mang ơn những tử sĩ đã hy sinh trong thời lửa đạn, đặc
biệt là đồng đội và chiến hữu ngay trong đơn vị của ông ngày
xưa. Thân ở xứ người mà lòng vẫn hướng về quê nhà, nơi những
người thân quen của ông, nhứt là những đồng đội và chiến hữu
kém may mắn vẫn còn đang lây lất sống. Những đóng góp khiêm
nhường vào quỹ tương trợ của riêng Liên Đoàn 1 BĐQ mà ông phục
vụ là một cách trả ơn những người đã hy sinh để ông được sống
và cũng là sự chia xẻ của một Thương Phế Binh với một Thương
Phế Binh bất hạnh hơn mình nơi quê nhà. Đó cũng là hạnh phúc
ấm lòng vì mỗi khi nghĩ lại, ông thấy mình vẫn sung sướng hơn
họ về mọi mặt. Trên đoạn cuối của hành trình về nguồn, có
một lão niên hằng ngày thường ngồi tựa lan can, hoặc nơi băng
ghế trong công viên, ngay mé nước, để ngắm vùng vịnh êm đềm
trước chung cư của mình tại vùng Quincy (ngoại ô Boston- MA) và
mơ về Đất Mẹ cách nửa vòng quay trái đất. Trong trung tâm sinh
hoạt của người già tại thành phố Boston – Massachussets có một
thương binh ngoài bát thập tuy đôi lúc có lãng đãng trong cõi
nhớ, quên nhưng nếu có ai hỏi về đơn vị cũ, chiến trường xưa
thì họ sẽ thấy lại hình ảnh của một thanh niên đầy nhiệt
huyết qua câu chuyện kể về Màu Cờ và Sắc Áo mà ông đã từng
phục vụ. Người đó là ông: Đại úy Trần Văn Vương, Đại Đội
Trưởng ĐĐ 3/TĐ37/LĐ12 Biệt Động Quân, một chiến sĩ xuất sắc của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuở xưa!
THẢO NGUYÊN & HUY VĂN
http://nguoivietboston.com/?p=35914
Bàn ra tán vào (0)
Thảo Nguyên & Huy Văn: Một Cuộc Hành Trình
Ông là một trong số những người được dưỡng dục trong chuỗi
hoàng hôn của nền văn học Hán-Nho trước khi phong trào truyền
bá chữ Quốc Ngữ chính thức đăng quang ở thập niên 40 của thế
kỷ trước. Trong buổi giao thời của văn hóa Đông-Tây và trong
hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước bị sâu xé bởi thực dân
Pháp và Việt Minh cộng sản, người trai trẻ họ Trần quyết định
ly hương để tự lập thân, mặc dù đã được một gia đình địa chủ
trong thôn nhận làm dưỡng tử, cưu mang từ tấm bé và đã có ý
định chọn vợ cho ông. Cho dù chỉ với hai bàn tay trắng nhưng ý
chí và mục tiêu của ông đã rất kiên định: phải bằng mọi cách
thoát ly khỏi vùng Việt Minh kiểm soát vì không thể chấp nhận
và không thể nhìn cảnh bọn vô thần đang hiện nguyên hình là
những tên sát nhân cuồng tín núp dưới danh nghĩa kháng Pháp để
thu quyền và gom lợi về cho bọn chúng.
Ông nhập ngũ ngày 1/2/1954 khi có lệnh động viên và sau 3 tháng
huấn luyện cộng với 2 tháng thành lập đơn vị, Tiểu Đoàn khinh
quân 724, một đơn vị tinh nhuệ và cũng là tiền thân của Lực
Lượng Đặc Biệt (Comandos) sau này, ra đời tại tỉnh Quảng Yên
(sau sát nhập với tỉnh Hải Ninh để trở thành tỉnh Quảng Ninh).
Lúc đó trận Điện Biện Phủ đã vào giai đoạn tàn cuộc, nên
toàn bộ đơn vị được đoàn phi cơ C47 không vận từ sân bay Hải
Phòng, vượt vĩ tuyến 17 và hạ cánh tại Tuy Hòa – Phú Yên sau 2
giờ bay. Tiểu Đoàn Khinh Quân 724 sau đó được sát nhập vào Sư
Đoàn 2 Tân Lập do Đại Tá Tôn Thất Đính làm Tư Lệnh. Năm 1963 ông
theo học khóa Hạ Sĩ Quan Trừ Bị tại Đồng Đế – Nha Trang. Đến
lúc này thì gia đình ông đã càng ngày càng thêm nhân khẩu và
người vợ hiền thục rất đảm đang – một người con gái cũng đã
thật can đảm khi yêu ông và thành thân với ông cho dù lúc đó
mối mai và họ đàng trai chính là cấp chỉ huy trong đơn vị của
ông – đã là một nội tướng đúng nghĩa khi giúp ông quán xuyến
gia đình về mọi mặt cho dù đã phải theo ông từ hết trại gia
binh này đến trại gia binh khác. Ngay từ khi cháu gái đầu lòng
cất tiếng gọi “Ba” là ông đã nhận biết “thiên chức thiêng liêng”
của mình về cả hai phương diện Nợ Nước và Tình Nhà, hiểu
theo nghĩa muốn bảo vệ cho gia đình thì phải chống lại sự xâm
lăng từ phương bắc. Vì vậy, ông luôn kiên nhẫn chờ đợi một ngày
có cơ hội thi thố khả năng của một người có khiếu lãnh đạo
chỉ huy nhưng phải ẩn nhẫn chờ thời chỉ vì lý do: Hán học
của ông tuy uyên thâm nhưng đã lỗi thời, còn khả năng Tây học
thì không đủ để giúp thâu ngắn thời gian thăng cấp!
Năm
1966, Liên Đoàn 1 BĐQ được thành lập. Ông thuyên chuyển về Tiểu
Đoàn 39 BĐQ, lúc đó đang đồn trú tại Miếu Bông, thuộc ngoại ô
của thành phố Đà Nẵng. Đời lính tác chiến luôn rày đây mai
đó, nhưng ông không hề xao lãng bổn phận đối với gia đình. Kín
đáo và ân cần với vợ. Nghiêm khắc nhưng tràn đầy tình phụ tử
đối với con cái. Không thường xuyên có mặt tại nhà nhưng trong
những lần về phép hay dưỡng quân tại hậu cứ, là toàn bộ thời
gian đều được ông dành tối đa cho vợ con. Tình nhà vẫn luôn
nồng ấm, còn Nợ nước thì vẫn còn phải trả, trả suốt đời!
Vết thương và miểng đạn pháo trong ngực là lời nhắc nhở
thường xuyên về một món nợ đối với tổ quốc nói chung và đồng
đội nói riêng. Những người cùng ông đứng trong hàng quân từ
thuở còn trong Tiểu Đoàn Khinh Quân 714 đã lần lượt đi vào thiên
cổ hoặc giã từ vũ khí vì thương tật, còn ông thì nhờ Trời, “… còn thở là còn chiến đấu”!.
Rồi cũng đến lúc nghiệp nhà binh của ông tiến dần đến một
hướng mới, nơi đó có một con đường: con đường vun đắp tài thao
lược và năng khiếu chỉ huy đã tiềm ẩn trong con người ông bấy
lâu nay. Sau khi góp phần tái chiếm cố đô Huế, ông được đưa đi
học khóa Sĩ Quan Đặc Biệt ở Trường Bộ Binh Thủ Đức giữa năm
1968. Qua năm sau, ông về trình diện Tiểu Đoàn 37 BĐQ với chiếc
lon chuẩn úy mới tinh trên ve áo. Không lâu sau đó, Liên Đoàn 1
BĐQ về đồn trú tại thôn Phú Lộc, thuộc xã Hòa Minh, còn gia
đình ông thì dọn về trong khu phát triển đô thị thuộc xã Hòa
Mỹ gần ngả ba Huế, không quá xa hậu cứ Tiểu Đoàn và cũng là
một hình thức tự lực cánh sinh để nhường một chỗ trong trại
gia binh cho đồng đội nào cần một mái nhà hơn mình. Những năm
kế tiếp là chuỗi ngày chinh chiến ngược xuôi, là những thăng
trầm và gắn bó với đơn vị và đồng đội. Đây cũng là khoảng
thời gian ông đưa hai chữ “thiên chức” vào hiện thực của
chiến tranh khi phát huy khả năng tác chiến thật hiệu quả và
cung cách chỉ huy đầy tính nhân bản của mình. Nắm trung đội
chưa bao lâu, trong cuộc hành quân Dương Sơn 3/70 trong vùng Quế
Sơn, trung đội của ông đã tiêu diệt hoàn toàn bộ chỉ huy của
một đơn vị cộng sản cấp tỉnh và bắt sống tên bí thư Tỉnh ủy
của tỉnh Quảng Tín cùng tịch thu được một số tài liệu tối
mật. Tin chiến thắng bay về tận Bộ Tổng Tham Mưu. Nhận lời mời
của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu
I, đích thân Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH
bay ra Bộ Chỉ Huy Hành Quân của LĐ 1BĐQ tại thị xã Tam Kỳ, tỉnh
lỵ của Quảng Tín để nhận tài liệu và dự lễ khao quân, tưởng
thưởng đặc cách cho các chiến sĩ hữu công. Chiếc lon thiếu úy
của ông được hai vị tướng ấy – mỗi người một bên – đồng loạt
gắn lên cổ áo của ông trong ngày hôm đó.
Ông tham gia tất cả những trận đánh để đời của QLVNCH nói chung
và Binh chủng BĐQ nói riêng tại Quân Khu I trong những năm dầu
sôi lửa bỏng nhứt của cuộc chiến. Từ Mậu Thân 1968, hành quân
Lam Sơn 719 năm 1971 trên chiến trường hạ Lào, trận tái chiếm cổ
thành Đinh Công Tráng tại Quảng Trị năm 1972 (khi đơn vị lần
lượt tăng phái cho Nhảy Dù rồi Thủy Quân Lục Chiến), trận Sa
Huỳnh tháng 2/1973, một trận đánh hào hùng và tốc chiến khi
Liên Đoàn 1 BĐQ hành quân từ Mộ Đức tiến về Sa Huỳnh, thuộc
Đức Phổ, quận cực nam của tỉnh Quảng Ngãi để đánh bật quân
cộng sản Bắc Việt ra khỏi nơi này ngay trong những ngày Hiệp
Định Ba Lê bắt đầu có hiệu lực (ngày 27/1/1973), cho tới những
đụng độ không kém phần khốc liệt trong Mộ Đức, Suối Đá – Tam
Kỳ, Nông Sơn – Đức Dục của những năm 1974-1975, ông đều hoàn tất
nhiệm vụ được giao phó một cách xuất sắc. Từ chuẩn úy (1969)
lên đại úy (tháng 2/ 1973) chỉ mất không đến 4 năm đủ nói lên
khả năng tác chiến của ông trong mọi hoàn cảnh và tình huống.
Ông đối xử với thuộc cấp trong tinh thần rất… chi binh nếu không
muốn nói là như Cha với Con nếu xét về mặt tuổi tác. Riêng
trong tinh thần Huynh Đệ Chi Binh, ông luôn luôn nhắc nhở, hướng
dẫn, nâng đỡ đàn em và chia xẻ kinh nghiệm chiến trường mỗi khi
có dịp: “Sơ xuất hay lầm lỗi trong Quân Trường có thể được
sửa đổi, còn quyết định sai lầm ngoài chiến trường thì phải
trả giá bằng máu hay sinh mạng của chính mình và đồng đội.
Vì thế, các anh phải hết sức thận trọng…” Bề ngoài thì ông
có phong cách rất võ biền, nhưng bên trong là một trái tim mẫn
cảm. Nhắc tới ông và những kỷ niệm thời xuôi ngược khắp vùng
trách nhiệm hành quân của đơn vị, một khinh binh kiêm âm thoại
viên đã có lời mộc mạc nhưng rất mực thân kính như sau:
“Nhờ anh chuyển tiếp lời thăm hỏi đến Papa Vương Vũ, Bố ơi,
khi nào không còn hơi thở thì chúng em mới quên papa. Có bao giờ
papa gọi chúng em là mầy tao đâu, dù lửa sôi, sanh tử cận kề,
cũng một mực anh và tôi, mẫu mực sống chúng em sao quên được, Sa
huỳnh, Quế Sơn, Khe thay, Duy xuyên, Điện bàn, Đức dục, Phong
thử ngày nào vẫn còn đó há dễ gì quên, vẫn còn dang dở cầu
chúc ơn trên phù hộ bốan khang tráng kiện. Hẹn gặp lại. Kính
chào bố. Nguyễn Phong.”
Thêm câu nói khác của thượng sĩ Lê Văn Trữ, một chiến sĩ xuất
sắc trong trận Sa Huỳnh, người đã góp phần giúp ông nhận thêm
một bông mai đặc cách chỉ sau khi đảm nhiệm chức vụ đại đội
trưởng có 9 tháng: “… Bố Vương lo cho anh em hết mình. Rất thẳng thắn và… chịu chơi!”
Mối liên hệ thầy trò và tình nghĩa chi binh đó được biểu hiện
thật đậm nét khi – trong ngày lui binh từ Xã Đức Tân về Kỳ An –
ông đạp trúng mìn của địch và bị trọng thương khi còn cách
quốc lộ cả 2 cây số. Gãy chân, mất máu, đuối sức và đang phải
vừa cầm chân địch vùa tháo lui, ngần ấy thứ có thể chôn vùi
tên tuổi của bất cứ một đại đội trưởng nào khác. Nhưng với
con Cọp “già” dạn dày trên chiến trường có tên hiệu là
Vương Vũ thì mặc dù đang chịu đau đớn thể xác, ông vẫn cố
gắng chỉ huy anh em khi được các đàn em thận cận của mình thay
nhau cõng, vác suốt con đường máu từ Đức Trạch ra Kỳ An, rồi
từ Kỳ An ra tới quốc lộ 1. Ông chỉ bỏ lại anh em khi được tải
thương cấp tốc về Đà Nẵng. Hôm đó là ngày 22/3/1975. Ngày hôm
sau, Cọp già của TĐ 37 BĐQ đành phải chấp nhận cho bác sĩ cưa
chân hai lần để bảo toàn mạng sống vì máu bị nhiễm trùng và
đã lan đến quá gối.
Những ngày sau đó, Đà Nẵng rối loạn trong cơn hấp hối. Quân và
Dân của thủ phủ vùng 1 tìm cách ra khơi bằng mọi phương tiện.
Nhưng đã quá muộn. Địch dùng đại pháo từ trên sườn đèo Hải
Vân bắn chận trên cửa biển. Ngoài một số ghe, thuyền nhỏ bé
liều mạng vượt sóng ra khơi để được tàu Hải Quân tiếp vớt, số
còn lại đành thúc thủ vì xà lan khẳm người, tàu kéo chậm
chạp, sông Hàn dày đặc tàu bè lớn, nhỏ. Thương vong quá lớn
nên sau khi chuyển được một ít chuyến thì Hải Quân bỏ cuộc.
Những người tập trung dọc theo đôi bờ sông Hàn, tại bến Hải
Quân Tiên Sa, bán đảo Sơn Trà, trên bến tàu Trình Minh Thế hay
tại bãi Thanh Khê, đều bị bỏ lại từ sau nửa đêm của ngày
28/3/1975. Tổng Y Viện Duy Tân di tản, Đà Nẵng hỗn loạn rồi thay
đổi chủ. Ông may mắn được các bà Sơ làm việc tại bệnh viện
Việt-Đức nhận vào săn sóc và càng may mắn hơn là vào giờ
phút rối rắm đến cùng cực đó, ông lại được một đồng đội thân
tín quyết chí ở lại săn sóc cho ông thay vì anh này có thể
đường hoàng về Nha Trang xum họp với gia đình. “Em không thể bỏ đại úy trong hoàn cảnh này được”
Người quân nhân tên Diệp đó đã nói như vậy khi ông bảo anh ấy
hãy lo tìm cách trở về với gia đình. Chỉ sau khi thấy sức
khỏe của vị đại đội trưởng đã tương đối ổn định và khi cô con
gái đầu lòng của ông – một sinh viên đang theo học khóa Cán Sự
Điều Dưỡng – từ Huế trở về để tình nguyện phụ giúp vào
việc chữa trị cho ông cùng với những bệnh nhân gốc Lính khác,
thì Diệp mới từ giả ông để tìm về với gia đình anh tại Nha
Trang.
Ông mất một chân nhưng không mất tinh thần trước cuồng lưu đỏ
đang phủ chụp lên Đà Nẵng cho dù khi ra khỏi bệnh viện thì ngôi
nhà trong Hòa Mỹ đã bị đám “ủy ban quân quản” tịch
thu. Trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng của cuộc đổi đời, tìm
một ngôi nhà khác không khó khăn nhưng vừa có chỗ ở thì tuy
không bị đưa đi cải tạo tập trung, ông cũng bị chính quyền địa
phương bắt đi học tập tại chỗ, đi mít tinh, thậm chí đi lao
động liên miên mặc dù vết thương chưa kịp kéo da non. Những năm
kế tiếp là cả một sự trần thân của kẻ sĩ sa cơ, một chiến
sĩ bại trận và cũng như hầu hết những con dân của miền Nam
khác, ông âm thầm sống bên lề thời cuộc với niềm vui duy nhứt
là là chiếc máy radio transistor để nghe tin tức trên hai đài VOA
và BBC Luân Đôn. Mọi thứ thông tin khác từ phía “cách mạng”
ông chẳng màng tới. Cho đến năm 1979, khi chúng bắt buộc cả
nhà đi kinh tế mới trên Ban Mê Thuộc thì ông biết đã đến lúc
phải lìa bỏ Đà Nẵng. Nhà mất nhưng người còn, mặc dù phải
tạm chia lìa bằng cách để cho cô con gái kế ở lại giữ căn nhà
làm gốc để có nơi quay về nếu lỡ phải trở lại Đà Nẵng. Một
năm vật vã với rừng thiêng nước độc ở buôn Thung đã làm ông
và gia đình tưởng chừng như đã rơi vào tuyệt lộ vì phải tự
đào đất đắp nền nhà, tự đào giếng để có nguồn nước sạch,
tự xoay sở hay cắn răng chịu đựng mọi thứ bệnh trên đời bởi
nhà nước chỉ cấp phát đất cho dân rồi thôi, cứ thế mà mạnh ai
nấy sinh tồn. Hành động trả thù thô bạo đã nói lên dã tâm
trả thù một cách kín đáo nhưng hèn hạ đàng sau những mỹ từ
như: giãn dân, kinh tế mới hay lao động khẩn hoang của phe thắng
cuộc. Trong lúc gần như tuyệt vọng thì ông bắt được liên lạc
với bạn bè kiêm đồng đội cũ ở Sàigòn, ông lập tức một mình
đi tìm gặp họ để thăm dò đường đi nước bước rồi sau đó mới
đưa cả gia đình từ Buôn Thung về Sài gòn. Nhờ sự tận tình
giúp đỡ của bạn bè và cũng nhờ các “quan” địa phương
đã bắt đầu biết… ăn hối lộ nên ông và cả nhà cũng đã chạy
được một tờ hộ khẩu và một nơi tạm trú cho cả gia đình trong
một khu phố trên đường Trương Minh Giảng.
Từ ngay sau ngày bị nhuộm đỏ bởi cộng sản, trong miền nam đã
dậy lên một hành động phản kháng rất ôn hòa: vượt biên! Rộn
ràng nhứt là lúc có phong trào ra đi bán chính thức khởi đầu
từ sau vụ đánh tư sản mại bản và trục xuất người Hoa của
chính quyền trung ương năm 1978. Do đó, ngay khi vừa có nơi ăn
chốn ở ổn định là ông quyết định cho gia đình tìm cách xuống
ghe ra khơi. Từ 1981 cho đến 1989 gia đình ông tung hết số tiền
dành dụm, chắt chiu vào việc đi tìm tự do thay vì suốt đời
chịu đựng sống với chế độ phi nhân trong nước. Trời xanh không
phụ lòng người! Sau nhiều lần thất bại trong việc ra khơi cũng
như sau mấy lần ông bị công an thẩm vấn tại số 8 Phan Đăng Lưu
về việc giấy tờ và Chứng Minh Nhân Dân do đâu mà được cấp
phát, cả nhà đều lần lượt tới Mã Lai, Nam Dương rồi Palawan
(Phi Luật Tân) sau 5 chuyến vượt biển thành công (và vô số lần
thất bại).
Nếu Hổ của thi hào Thế Lữ “gặm mối căm hờn trong cũi sắt”
thì Cọp lìa đàn của Binh Chủng Biệt Đông Quân QLVNCH cũng ưu tư
và trăn trở không kém về mối hận ly hương khi phải sống kiếp
lưu vong. Mặc dù gia đình yên ổn sum vầy, con cái thành đạt nơi
đất khách quê người là niềm tự hào thật sâu lắng trong lòng
ông, nhưng bên cạnh đó là nỗi buồn cứ mỗi ngày một đè nặng
lên ký ức. Ông nhớ quê xưa, nhớ kỷ niệm thời thơ ấu, nhớ cả
những buồn vui, khó nhọc của gia đình mình qua hơn 15 năm lây
lất sống trong ngục tù bao la của cộng sản. Ông thầm cảm ơn
người vợ đã chia xẻ gian lao, khổ ải, ngọt bùi qua biết bao
nhiêu thăng trầm của cuộc sống. Người vợ Lính qua mọi thời kỳ
đều như thế: nhẫn nhục, trung trinh, cáng đáng một cách khéo
léo để cùng chồng xây dựng mái ấm gia đình cho dù phải chuyển
dời hết trại gia binh này tới trại gia binh khác. Mãnh hổ một
thời xông pha lửa đạn bây giờ là một lão niên với chiếc chân
giả và mảnh đạn còn nằm trong phổi. Dấu ấn binh đao vẫn hiển
hiện ngay trên thân thể đã bước qua tuổi thượng thọ nên những
lúc trái gió, trở mùa là ông lại phải chiến đấu với cơn đau
thể xác như đã từng làm hơn 40 năm qua. Thể chất dù đã héo hon
nhưng tinh thần thì không chút suy suyển. Ông hãnh diện vì đã
phụng sự cho tổ quốc và càng không quên bất cứ trận đánh nào
mình đã tham dự cho dù một bên tai đã hoàn toàn bất khiển
dụng và trí tuệ đôi lúc đã bềnh bồng trôi vào cõi vô minh.
Không quên quá khứ của thời chinh chiến cũng có nghĩa là ông
luôn mang ơn những tử sĩ đã hy sinh trong thời lửa đạn, đặc
biệt là đồng đội và chiến hữu ngay trong đơn vị của ông ngày
xưa. Thân ở xứ người mà lòng vẫn hướng về quê nhà, nơi những
người thân quen của ông, nhứt là những đồng đội và chiến hữu
kém may mắn vẫn còn đang lây lất sống. Những đóng góp khiêm
nhường vào quỹ tương trợ của riêng Liên Đoàn 1 BĐQ mà ông phục
vụ là một cách trả ơn những người đã hy sinh để ông được sống
và cũng là sự chia xẻ của một Thương Phế Binh với một Thương
Phế Binh bất hạnh hơn mình nơi quê nhà. Đó cũng là hạnh phúc
ấm lòng vì mỗi khi nghĩ lại, ông thấy mình vẫn sung sướng hơn
họ về mọi mặt. Trên đoạn cuối của hành trình về nguồn, có
một lão niên hằng ngày thường ngồi tựa lan can, hoặc nơi băng
ghế trong công viên, ngay mé nước, để ngắm vùng vịnh êm đềm
trước chung cư của mình tại vùng Quincy (ngoại ô Boston- MA) và
mơ về Đất Mẹ cách nửa vòng quay trái đất. Trong trung tâm sinh
hoạt của người già tại thành phố Boston – Massachussets có một
thương binh ngoài bát thập tuy đôi lúc có lãng đãng trong cõi
nhớ, quên nhưng nếu có ai hỏi về đơn vị cũ, chiến trường xưa
thì họ sẽ thấy lại hình ảnh của một thanh niên đầy nhiệt
huyết qua câu chuyện kể về Màu Cờ và Sắc Áo mà ông đã từng
phục vụ. Người đó là ông: Đại úy Trần Văn Vương, Đại Đội
Trưởng ĐĐ 3/TĐ37/LĐ12 Biệt Động Quân, một chiến sĩ xuất sắc của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuở xưa!
THẢO NGUYÊN & HUY VĂN
http://nguoivietboston.com/?p=35914