Di Sản Hồ Chí Minh
Thụy Vi - NGÀY BUỒN DÀI QUÁ.
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm, Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm, Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm, Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến
- Grand Rapids, ngày… tháng… năm…
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm,
Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến một người phụ nữ trước mắt. Nhìn một hồi… Trời ạ, mình gọi lớn “Mai Anh!” Người đó lập tức quay lại nhìn mình im sững một hồi rồi mừng rỡ kêu lên rối rít “Tương Như… Tương Như… ” Mình với Mai Anh ôm chặt nhau nghẹn ngào tưởng như đây là một giấc chiêm bao…
Sau khi Mai Anh làm thủ tục dời chuyến bay rồi theo mình về nhà. Mình định gọi cho bồ để báo tin vui này, nhưng Mai Anh yêu cầu giữ kín vì trong hoàn cảnh hiện tại cô rất ngại ngùng chưa muốn gặp lại những người quen. Mình hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh éo le của bạn mà lại thấy thương bạn mình nhiều hơn.
Lần đầu tiên gặp người bạn thân của mẹ nên hai đứa con mình vui lắm, cứ ríu rít và hỏi Mai Anh những chuyện ở nước ngoài, nhất là mẹ mình, bà lăng xăng làm những món mà ngày nhỏ khi đến nhà chơi, Mai Anh cứ nhõng nhẽo đòi mẹ nấu.
Chắc bồ đang nóng ruột lắm vì tò mò muốn biết Mai Anh giờ sao phải không? Mai Anh của chúng ta vẫn còn y nguyên nét dễ thương với mái tóc cắt ngổ ngáo như thưở nào, tuy nhiên có lẽ chịu nhiều áp lực từ những tai tiếng của người cha một thời quyền uy, lại thêm chuyện tư riêng tan nát do cuộc hôn nhân bất ý, nên cô nàng thiếu mất đi vẻ dí dỏm ngày xưa, Mai Anh trầm mặc hơn, tuy nhiên cái nét tư lự u ẩn kia mình lại thấy cô bạn của mình thật đẹp, cái đẹp đằm thắm làm nao lòng người, bây giờ Mai Anh lại có thói quen hút thuốc, dáng dấp mignone càng thấy cô thật Tây. Về chuyện riêng cô cho biết cô cảm thấy bằng lòng với cuộc hôn nhân hiện tại với một người Ý, cả hai là quản trị viên và có cổ phần trong một hãng rượu vang nhỏ tại một miền quê nước Pháp.
Nguyệt Cầm biết đó, dù cả gia đình trong lúc này đều rất ý tứ không dám nhắc đến những năm tháng bi thảm sau ngày mất nước, sợ nhắc đến Mai Anh ngại ngùng nhưng lúc ngồi ăn, chợt thấy di ảnh của ba mình trên tủ, Mai Anh chựng lại, ngạc nhiên, hỏi han rồi chép miệng thẫn thờ “Không ngờ bác lại mất sớm, mình nhớ ngày xưa bác trai khoẻ lắm!” Lời của Mai Anh như chạm đến nỗi đau của những người ngồi quanh bàn. Chỉ tội Mai Anh, cô thật lúng túng khi nhìn thấy những khuôn mặt chợt lặng lờ ủ ê và giòng nước mắt âm thầm của mẹ.
Đêm đó cả nhà đi ngủ sớm vì dự định ngày mai sẽ đưa Mai Anh đi chơi xa, viếng vài cảnh đặc biệt nơi vùng Bắc Mỹ. Nhưng mình biết đêm nay hai đứa làm sao ngủ được, mấy mươi năm mất hút lạc nhau, hai đứa có biết bao nhiêu chuyện để nói với nhau, anh Nam như đồng cảm đi pha một bình trà rồi tế nhị tránh mặt.
Mai Anh nói rất ngắn về gia đình, cô bạn của chúng ta dường như không thích kể lể cũng như không muốn bào chữa về những quyết định của cha mình, một vị tột đỉnh uy quyền. Là một trong những người đã giao miền Nam Việt Nam vào tay CS.
Sau kết cục của ngày 30 tháng 4 năm 1975, một kết cục đưa đất nước vào nơi tận cùng bất hạnh. Mấy mươi năm vừa qua là mấy mươi năm u buồn, cha mẹ và những người trong gia đình của Mai Anh sống gần như tránh mặt với tất cả mọi người, họ sống ê chề ngột ngạt như bị nhận chìm trong những lời nguyền rủa. Họ gần như nghẹn thở trong cái thòng lọng mênh mông thù hận, họ sống giấu mặt trong những tủi hổ ăn năn và tâm hồn của họ có lẽ chưa có một ngày yên ổn bởi những trăn trở, ân hận và thất vọng cứ dằn vặt không thôi. “Cái bi kịch của gia đình mình là Papa không đủ can đảm chết. Ông cũng không đủ can đảm sống” Mai Anh ngừng lại một chút rồi nói tiếp với giọng thật cay đắng “Mình may mắn không có đứa con nào, nếu có, thì tội nghiệp cháu vô cùng vì phải chịu chung cái hệ lụy oan nghiệt này, phải không?”.
Mình tránh cái nhìn hiu hắt của Mai Anh, thẫn thờ lướt mắt qua khung cửa sổ, cố giấu tiếng tiếng thở dài. Bên ngoài, trời đêm mùa hè vùng Bắc Mỹ ánh sáng lấp ló còn soi rõ những tàng cây kiểng Nhật thấp lè tè ngoài kia, chung quanh là những tảng đá sù sì, thô nhám nhiều góc cạnh không rõ hình thể nằm rải rác, đó là những đam mê mà ba mình đã góp nhặt cho khu vườn tĩnh lặng đầy nghệ thuật lãng đãng chút triết lý thiền học của ông và không gian đầy sách vở là nỗi vui đơn giản cuối đời của một người lính già thua trận.
Mai Anh nhắc tên những người bạn xưa, hỏi thăm từng người một, khiến lòng mình chùng xuống nôn nao nỗi buồn. Mình nhớ thật rõ cảm giác ngơ ngác, ngỗn ngang, sợ hãi, hồi hộp, não nề trong những ngày đầu mất nước, cái cảm giác đó cứ lì lợm bám chặt không rời cũng như những hình ảnh thê lương ngày hôm đó như còn tươi nguyên trong trí nhớ. Mình dường như còn nghe được những tiếng súng vang lên từ hướng phi trường, cũng như tiếng ầm ĩ của những chiếc trực thăng lên xuống từ phía bên kia đường. Mình còn như thấy rõ những khuôn mặt thiểu não, rã rời, thất thần, méo mó của mọi người, mình còn nhớ rõ dáng trầm ngâm và nét mặt của ba, có lẽ ba đau đớn lắm khi nhìn những người lính vừa bỏ ngũ tan hàng trần trụi không súng ống đi gầm mặt bơ vơ ngoài kia, cho nên ba lặng lẽ khép cửa quay lại nhìn mẹ, cả hai không nói gì, đăm đăm nhìn nhau, chảy nước mắt. Chứng kiến cảnh đó, không hiểu sao mình không khóc, nhẹ nhàng trở vào phòng ngủ, ngồi xuống dỗ dành hai đứa em …
Rồi, những năm tháng tả tơi kéo theo trùng trùng tai ương đổ xuống mọi gia đình, lúc đó hình như mỗi gia đình là một bi kịch. Mình hồi tưởng lại những bi kịch và sụt sịt kể cho Mai Anh nghe chuyện thương tâm của gia đình Ngự Hương…
… Mấy tháng sau ngày mất nước, ba của Ngự Hương là thầy Đạt giáo sư dạy trường Lê Qúi Đôn, bất ngờ – có gia đình người bà con xa đi tập kết ngoài Bắc về ghé thăm, đó là gia đình ông năm Phước, quê ở Xoài Hột, tỉnh Mỹ Tho. Ngày đầu tiên bước chân đến nhà thầy, họ ngẩn người há hốc trước ngôi từ đường xưa cổ kính nóc bánh ít mà họ cứ trầm trồ khen đó là một dinh thự nguy nga tráng lệ.
Ở được vài ngày, họ thật thà thố lộ những mơ ước trong lòng, cái ước muốn thôi thúc nhất là bà cụ mẹ vợ ông Năm Phước, trong suốt cuộc đời, cụ luôn luôn thèm thuồng có được một cái mùng may bằng vải tuyn mát rượi mềm mại, cũng như gia đình ông Năm Phước cái ước mơ đầu tiên là cả nhà được ăn cơm đựng trong những cái chén sành trắng vẽ những bông hoa sặc sỡ. Nghe những mơ ước đơn sơ của họ, thầy cô Đạt thương tình chu cấp cho họ nhiều hơn những gì một đời họ ước mơ tưởng rằng không bao giờ với tới.
Trong khi chờ đợi nhà nước phân phối nhà, gia đình ông Năm Phước được thầy Đạt thù tiếp rất chí tình chí nghĩa, ấy vậy mà… Hôm vợ chồng ông Năm Phước về Xoài Hột thăm gia đình thì bỗng dưng nửa đêm ủy ban Quân Quản kéo tới bao vây nhà thầy, họ nói được mật báo nhà thầy có tài liệu phản động chống phá chính quyền cách mạng. Họ lùa mọi người vào góc phòng rồi họ lục lọi khắp nơi, để chỉ thấy nhà toàn sách vở, những bộ sách quí tiếng Pháp, những bộ từ điển, những bộ sách nghiên cứu, văn học, lịch sử… họ lôi ra xé nát quăng tung toé, cuối cùng họ tìm được cuốn sổ, trong đó có bài thơ viết tay mà họ nói đây là bằng chứng thầy Đạt chống chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa!
Bài thơ mà họ vịện cớ bắt thầy là bài thơ thất ngôn, tựa “vịnh con khỉ”, bài này thầy cảm tác lúc đi dạo vườn bách thú. Họ chụp cho thầy tội danh “phản động” và anh Trọng chồng của Ngự Hương đang dạy tại trường Mạc Đĩnh Chi vì ở chung nhà với thầy cũng bị gán tội đồng lõa?!
Sau khi bắt nhốt thầy Đạt và anh Trọng, họ tới niêm nhà, đuổi cô Đạt, Ngự Hương và cháu Triết ra. Gia đình bên anh Trọng cưu mang ba người khốn cùng này. Ngôi từ đường của thầy bị tịch thu, người chủ mới nghiễm nhiên là ông năm Phước – người em bà con tội nghiệp, ngày nào.
Tai ương như cố tình đeo đẳng gia đình cô bạn Ngự Hương của chúng ta. Sau mấy năm bị giam cầm, thầy Đạt, anh Trọng lần lượt được họ thả cho về, anh Trọng vì mang án nên mất việc, thầy Đạt đã lớn tuổi cộng thêm mấy năm lao tù vì thế sức khoẻ rất kém, nhưng vì cũng muốn đỡ đần với con cháu cho nên thầy ra ngồi bán vé số nơi đầu hẻm, còn anh Trọng thì sửa xe đạp ngoài lề đường. Trong hoàn cảnh cô liêu tịch mịch của đất nước, lúc đó đứa học trò nào gặp lại thầy cũng chảy nước mắt, chỉ biết thương thầy mà có giúp gì được đâu, chung quanh dân tình ai nấy đều khổ như nhau cực cùng đói ăn thiếu mặc đủ bề.
Cuối cùng, ba má anh Trọng lo cho vợ chồng anh cùng cháu Triết đi vượt biên. Chiếc tàu lọt được ra biển, bất ngờ lại gặp hải tặc, bọn chúng cướp của và hãm hiếp phụ nữ. Ngự Hương bị làm nhục trước mặt anh Trọng, anh không chịu nỗi nhào lại cứu vợ, tụi nó lia một dao đứt cuống họng, anh gục xuống chết ngay. Ngự Hương đau đớn sảng sốt như người điên, vùng vẫy kháng cự, tụi nó ôm người đàn bà này liệng xuống biển mất xác. Tội nghiệp bé Triết, chưa đầy mười tuổi phải chứng kiến người ta giết cha giết mẹ của mình, đứa bé này không mất trí là một kỳ tích.
Chiếc ghe bi thảm như chiếc quan tài nhấp nhô trôi nổi trên biển Đông, như có phép lạ, nó cập bến và cháu Triết được một mục sư người Mỹ nhận làm con nuôi.
Mẹ của Ngự Hương, dòng dõi hoàng phái, được tin rể và đứa con gái chết thảm, như sét đánh, bà uất hận lên cơn đau tim, không bao lâu thì qua đời. Thầy Đạt bị khủng hoảng đến ngẩn ngơ, cuối cùng nhờ những người bạn cũ vận động với các hiệp hội nhân đạo bảo lãnh thầy định cư tại Pháp.
Cháu Triết là một đứa bé rất mỏng manh so với cái thế giới rộng lớn này, và cháu là người bất hạnh thiếu thốn tình cảm, khao khát gia đình hơn bất cứ đứa trẻ nào, nhưng ai ngờ ý chí của cháu thật ghê hồn, cháu tự vượt lên số phận và hiện là một sinh viên ưu tú của trường đại học tiểu bang Michigan.
Nói về ông Năm Phước, một tay phá tan nát gia đình thầy Đạt, lại là một cán bộ “tiếp thu” thật nhanh, ông cướp nhà thầy Đạt không bao lâu thì ông được giữ chức vụ hiệu trưởng trường đại học Tổng Hợp thành phố HCM. Nghe nói ông Năm Phước đã chê ngôi từ đường cũ kỹ của thầy Đạt, gia đình ông đang “ngự” trong một toà nhà cao tầng thật lộng lẫy hiện đại của một nhà tư bản bị tịch thu.
Mai Anh lặng lẽ hút thuốc trong gian phòng ngập tràn bóng tối, hai đứa như chìm giữa đêm khuya trong không gian im ắng ngoài kia. Qua đốm lửa đỏ rực, mình thấy đôi mắt cô bạn đầm đìa nước mắt.
Trong những ngày thảng thốt đó, mạng sống của những người thua trận như chỉ mành treo chuông. Có người bạn thân rủ ba thoát đi, thoát một mình – chuyến bay chót, hình như chung chuyến với gia đình một nhân vật lẫy lừng trong ngành tình báo, ba kiên quyết lắc đầu, ba cam lòng cùng với vợ con đón đợi những điều xấu nhất. Ông nội của mình lúc đó đang nằm tại bệnh viện và yếu lắm. Tuy nhiên ông nội cứ nài ép năn nỉ đứa con trai duy nhất hãy kiếm đường ra đi. Ba chỉ vâng dạ cho ông nội yên tâm, chứ ba đâu thể nào một mình ra đi trong hoàn cảnh này. Ngày ba của mình quẩy cái túi nhẹ bổng đi trình diện ở trường Taberd là ngày ông nội qua đời. Cả nhà sợ ba đau lòng nên cố tình dấu kín. Họ đưa ba ra Bắc, ba ở tù đúng tám năm ba tháng, rồi khi được thả ba yếu lắm phải chống gậy trở về. Tuy nhiên ba còn may mắn về gặp vợ con trong khi nhiều người bạn tù của ba phải nằm lại.
Kể lại, lúc ba vừa đi tù là Thành Ủy đến tịch thu ngay ngôi nhà của gia đình. Mẹ sợ đi kinh tế mới nên dắt díu ba chị em mình về bên ngoại ở Rạch Kiến, quận Bình Chánh. Mặc dù nơi đây gần Saigon nhưng ngày trước là vùng xôi đậu, không điện, không nước, lại là vùng đất phèn nên đất khô cằn không trồng được cây ăn trái, chỉ có bờ tre bao quanh nhà với vài cây me, ô môi. Mỗi nhà đào một cái hào sâu để tắm giặt và một dãy lu dành đựng nước mưa để uống.
Trong những năm tháng không có ba ở nhà, mình mới thấy cái dũng cảm đáng kính nể của mẹ mình. Mẹ như người bị dồn tới đường cùng và sẵn sàng đương đầu, không khóc lóc than van. Là một công chức yểu điệu sống và làm việc tại Sài gòn. Bây giờ mẹ điềm nhiên xăn cao ống quần lội xuống ruộng làm cỏ lúa, cấy lúa, trồng cải, nuôi gà, nuôi heo, như một nông dân thực thụ.
Trong thời gian bốn mẹ con tá túc dưới ngôi nhà hương hỏa của ngoại, ngôi nhà mênh mông với những hàng cột bằng gỗ quí lên nước đen mun, mẹ không nệ cực nhọc ra công chăm sóc tươm tất trong ngoài và cư xử đẹp lòng bà con chòm xóm. Mẹ lại âm thầm tất tả ngược xuôi sắp xếp và nghiến răng gửi gấm cho Quỳnh Như và Tố Như đi vượt biển.
Lúc nhận được tin hai đứa em gái tới đảo bình yên, mình sững người vì thấy tóc mẹ gần như bạc trắng.
Mai Anh và mình đón buổi sáng với ly cà phê nóng hổi và một tâm hồn thời trẻ nhỏ thân tình. Ánh mặt trời nhô lên tít tắp đàng kia như mỉm cười độ lượng chào hết thảy nhân sinh. Một ngày với những rộn ràng tiếng chân khua vang của những đứa con, tụi nó bây giờ vào lứa tuổi “bỗng nhiên mà chợt lớn” như bọn mình ngày xưa đến không ngờ, mới biết chúng ta giờ bắt đầu già thật rồi.
Ngày hôm đó anh Nam đưa cả nhà đi chơi thật vui, đến những bờ hồ thật đẹp, như thầm khoe với cô bạn những thắng cảnh nổi tiếng của tiểu bang Michigan thật hiền hòa. Lúc cả nhà mướn xe đạp chạy dọc theo bờ cát có những ngọn đồi quanh co trên hòn đảo nhỏ còn giữ nguyên vẹn nét thiên nhiên, vắng bặt mọi tiếng động cơ, chỉ còn lại trong không gian hùng vĩ thơ mộng lồng lộng nắng và gió. Hai đứa ngồi riêng với nhau như cùng níu lại những giờ phút gần gũi còn lại thật hiếm hoi, cùng phóng tầm mắt ra khơi, phía xa kia cây cầu treo nổi tiếng như cọng dây mỏng manh trên vạt nước màu xanh trãi rộng tới chân trời.
Mai Anh nhắc mình xin tấm hình của gia đình Nguyệt Cầm, cô nàng đặc biệt thích thú về đứa con trai “Trời cho” của bồ, trong những mẫu chuyện về cậu bé nay tròm trèm bảy tuổi được mình kể đi kể lại cho Mai Anh nghe còn có những mẫu chuyện về ông ngoại của cháu là một trong những nhà văn nổi tiếng thời đó đã không chịu nỗi sự đói lạnh đã kiệt sức chết trong tù, trong khi bên ngoài gia đình của Nguyệt Cầm luôn luôn phải đối diện với những bất công tàn bạo, đành gạt nước mắt bỏ lại ông bố nằm quạnh hiu trên một cánh rừng hoang sơ nào đó để trốn đi ra khỏi nước. Vài năm, sau khi cuộc sống định cư ổn định và trong sự tận lực kiếm tìm, mẹ của Nguyệt Cầm đã cải táng ông cụ và ôm tro cốt của ông qua Úc để đoàn tụ cùng với con cháu. Đặc biệt cậu bé con hiếm quí muộn màng của Nguyệt Cầm được mang tên ông ngoại.
Ngày mai, hai đứa phải chia tay. Mai Anh cứ căn dặn mình đi đâu thì đi nhưng cũng nên qua Pháp thăm nhau, cũng như người cha đỡ đầu của mình là thầy Lê Bá Sằng, dạy trường đại học Minh Đức ngày xưa cứ nhắn nhủ “con gái, nên đến Paris một chuyến nghe con” khiến mình bồi hồi, cảm động, lòng tràn ngập yêu thương và thầm nghĩ: nhân gian đâu chỉ là giọt lệ, phải dành nhiều thì giờ với nhau hơn nữa, kẻo rồi, không kịp.
Và, trong đống hành lý ngổn ngang của Mai Anh, mình sẽ gửi theo vài cuốn tạp ghi, bút ký của hai bác Trà Lũ và Phan Lạc Phúc cũng không quên kèm theo vài cuốn thơ của ông Trần Vấn Lệ. Có phải đến tuổi này, chúng ta mới thấy thời gian thật gấp rút?..
Tạm biệt,
Tương Như - ( * ) bức Thuyền Nhân của họa sĩ Rừng.
- Phan Anh Dũng chuyển
- Nguồn: https://www.facebook.com/thuyvi.nguyen.3133?fref=ufi
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
Thụy Vi - NGÀY BUỒN DÀI QUÁ.
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm, Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm, Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi
trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng
mình chú ý đến
- Grand Rapids, ngày… tháng… năm…
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm,
Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến một người phụ nữ trước mắt. Nhìn một hồi… Trời ạ, mình gọi lớn “Mai Anh!” Người đó lập tức quay lại nhìn mình im sững một hồi rồi mừng rỡ kêu lên rối rít “Tương Như… Tương Như… ” Mình với Mai Anh ôm chặt nhau nghẹn ngào tưởng như đây là một giấc chiêm bao…
Sau khi Mai Anh làm thủ tục dời chuyến bay rồi theo mình về nhà. Mình định gọi cho bồ để báo tin vui này, nhưng Mai Anh yêu cầu giữ kín vì trong hoàn cảnh hiện tại cô rất ngại ngùng chưa muốn gặp lại những người quen. Mình hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh éo le của bạn mà lại thấy thương bạn mình nhiều hơn.
Lần đầu tiên gặp người bạn thân của mẹ nên hai đứa con mình vui lắm, cứ ríu rít và hỏi Mai Anh những chuyện ở nước ngoài, nhất là mẹ mình, bà lăng xăng làm những món mà ngày nhỏ khi đến nhà chơi, Mai Anh cứ nhõng nhẽo đòi mẹ nấu.
Chắc bồ đang nóng ruột lắm vì tò mò muốn biết Mai Anh giờ sao phải không? Mai Anh của chúng ta vẫn còn y nguyên nét dễ thương với mái tóc cắt ngổ ngáo như thưở nào, tuy nhiên có lẽ chịu nhiều áp lực từ những tai tiếng của người cha một thời quyền uy, lại thêm chuyện tư riêng tan nát do cuộc hôn nhân bất ý, nên cô nàng thiếu mất đi vẻ dí dỏm ngày xưa, Mai Anh trầm mặc hơn, tuy nhiên cái nét tư lự u ẩn kia mình lại thấy cô bạn của mình thật đẹp, cái đẹp đằm thắm làm nao lòng người, bây giờ Mai Anh lại có thói quen hút thuốc, dáng dấp mignone càng thấy cô thật Tây. Về chuyện riêng cô cho biết cô cảm thấy bằng lòng với cuộc hôn nhân hiện tại với một người Ý, cả hai là quản trị viên và có cổ phần trong một hãng rượu vang nhỏ tại một miền quê nước Pháp.
Nguyệt Cầm biết đó, dù cả gia đình trong lúc này đều rất ý tứ không dám nhắc đến những năm tháng bi thảm sau ngày mất nước, sợ nhắc đến Mai Anh ngại ngùng nhưng lúc ngồi ăn, chợt thấy di ảnh của ba mình trên tủ, Mai Anh chựng lại, ngạc nhiên, hỏi han rồi chép miệng thẫn thờ “Không ngờ bác lại mất sớm, mình nhớ ngày xưa bác trai khoẻ lắm!” Lời của Mai Anh như chạm đến nỗi đau của những người ngồi quanh bàn. Chỉ tội Mai Anh, cô thật lúng túng khi nhìn thấy những khuôn mặt chợt lặng lờ ủ ê và giòng nước mắt âm thầm của mẹ.
Đêm đó cả nhà đi ngủ sớm vì dự định ngày mai sẽ đưa Mai Anh đi chơi xa, viếng vài cảnh đặc biệt nơi vùng Bắc Mỹ. Nhưng mình biết đêm nay hai đứa làm sao ngủ được, mấy mươi năm mất hút lạc nhau, hai đứa có biết bao nhiêu chuyện để nói với nhau, anh Nam như đồng cảm đi pha một bình trà rồi tế nhị tránh mặt.
Mai Anh nói rất ngắn về gia đình, cô bạn của chúng ta dường như không thích kể lể cũng như không muốn bào chữa về những quyết định của cha mình, một vị tột đỉnh uy quyền. Là một trong những người đã giao miền Nam Việt Nam vào tay CS.
Sau kết cục của ngày 30 tháng 4 năm 1975, một kết cục đưa đất nước vào nơi tận cùng bất hạnh. Mấy mươi năm vừa qua là mấy mươi năm u buồn, cha mẹ và những người trong gia đình của Mai Anh sống gần như tránh mặt với tất cả mọi người, họ sống ê chề ngột ngạt như bị nhận chìm trong những lời nguyền rủa. Họ gần như nghẹn thở trong cái thòng lọng mênh mông thù hận, họ sống giấu mặt trong những tủi hổ ăn năn và tâm hồn của họ có lẽ chưa có một ngày yên ổn bởi những trăn trở, ân hận và thất vọng cứ dằn vặt không thôi. “Cái bi kịch của gia đình mình là Papa không đủ can đảm chết. Ông cũng không đủ can đảm sống” Mai Anh ngừng lại một chút rồi nói tiếp với giọng thật cay đắng “Mình may mắn không có đứa con nào, nếu có, thì tội nghiệp cháu vô cùng vì phải chịu chung cái hệ lụy oan nghiệt này, phải không?”.
Mình tránh cái nhìn hiu hắt của Mai Anh, thẫn thờ lướt mắt qua khung cửa sổ, cố giấu tiếng tiếng thở dài. Bên ngoài, trời đêm mùa hè vùng Bắc Mỹ ánh sáng lấp ló còn soi rõ những tàng cây kiểng Nhật thấp lè tè ngoài kia, chung quanh là những tảng đá sù sì, thô nhám nhiều góc cạnh không rõ hình thể nằm rải rác, đó là những đam mê mà ba mình đã góp nhặt cho khu vườn tĩnh lặng đầy nghệ thuật lãng đãng chút triết lý thiền học của ông và không gian đầy sách vở là nỗi vui đơn giản cuối đời của một người lính già thua trận.
Mai Anh nhắc tên những người bạn xưa, hỏi thăm từng người một, khiến lòng mình chùng xuống nôn nao nỗi buồn. Mình nhớ thật rõ cảm giác ngơ ngác, ngỗn ngang, sợ hãi, hồi hộp, não nề trong những ngày đầu mất nước, cái cảm giác đó cứ lì lợm bám chặt không rời cũng như những hình ảnh thê lương ngày hôm đó như còn tươi nguyên trong trí nhớ. Mình dường như còn nghe được những tiếng súng vang lên từ hướng phi trường, cũng như tiếng ầm ĩ của những chiếc trực thăng lên xuống từ phía bên kia đường. Mình còn như thấy rõ những khuôn mặt thiểu não, rã rời, thất thần, méo mó của mọi người, mình còn nhớ rõ dáng trầm ngâm và nét mặt của ba, có lẽ ba đau đớn lắm khi nhìn những người lính vừa bỏ ngũ tan hàng trần trụi không súng ống đi gầm mặt bơ vơ ngoài kia, cho nên ba lặng lẽ khép cửa quay lại nhìn mẹ, cả hai không nói gì, đăm đăm nhìn nhau, chảy nước mắt. Chứng kiến cảnh đó, không hiểu sao mình không khóc, nhẹ nhàng trở vào phòng ngủ, ngồi xuống dỗ dành hai đứa em …
Rồi, những năm tháng tả tơi kéo theo trùng trùng tai ương đổ xuống mọi gia đình, lúc đó hình như mỗi gia đình là một bi kịch. Mình hồi tưởng lại những bi kịch và sụt sịt kể cho Mai Anh nghe chuyện thương tâm của gia đình Ngự Hương…
… Mấy tháng sau ngày mất nước, ba của Ngự Hương là thầy Đạt giáo sư dạy trường Lê Qúi Đôn, bất ngờ – có gia đình người bà con xa đi tập kết ngoài Bắc về ghé thăm, đó là gia đình ông năm Phước, quê ở Xoài Hột, tỉnh Mỹ Tho. Ngày đầu tiên bước chân đến nhà thầy, họ ngẩn người há hốc trước ngôi từ đường xưa cổ kính nóc bánh ít mà họ cứ trầm trồ khen đó là một dinh thự nguy nga tráng lệ.
Ở được vài ngày, họ thật thà thố lộ những mơ ước trong lòng, cái ước muốn thôi thúc nhất là bà cụ mẹ vợ ông Năm Phước, trong suốt cuộc đời, cụ luôn luôn thèm thuồng có được một cái mùng may bằng vải tuyn mát rượi mềm mại, cũng như gia đình ông Năm Phước cái ước mơ đầu tiên là cả nhà được ăn cơm đựng trong những cái chén sành trắng vẽ những bông hoa sặc sỡ. Nghe những mơ ước đơn sơ của họ, thầy cô Đạt thương tình chu cấp cho họ nhiều hơn những gì một đời họ ước mơ tưởng rằng không bao giờ với tới.
Trong khi chờ đợi nhà nước phân phối nhà, gia đình ông Năm Phước được thầy Đạt thù tiếp rất chí tình chí nghĩa, ấy vậy mà… Hôm vợ chồng ông Năm Phước về Xoài Hột thăm gia đình thì bỗng dưng nửa đêm ủy ban Quân Quản kéo tới bao vây nhà thầy, họ nói được mật báo nhà thầy có tài liệu phản động chống phá chính quyền cách mạng. Họ lùa mọi người vào góc phòng rồi họ lục lọi khắp nơi, để chỉ thấy nhà toàn sách vở, những bộ sách quí tiếng Pháp, những bộ từ điển, những bộ sách nghiên cứu, văn học, lịch sử… họ lôi ra xé nát quăng tung toé, cuối cùng họ tìm được cuốn sổ, trong đó có bài thơ viết tay mà họ nói đây là bằng chứng thầy Đạt chống chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa!
Bài thơ mà họ vịện cớ bắt thầy là bài thơ thất ngôn, tựa “vịnh con khỉ”, bài này thầy cảm tác lúc đi dạo vườn bách thú. Họ chụp cho thầy tội danh “phản động” và anh Trọng chồng của Ngự Hương đang dạy tại trường Mạc Đĩnh Chi vì ở chung nhà với thầy cũng bị gán tội đồng lõa?!
Sau khi bắt nhốt thầy Đạt và anh Trọng, họ tới niêm nhà, đuổi cô Đạt, Ngự Hương và cháu Triết ra. Gia đình bên anh Trọng cưu mang ba người khốn cùng này. Ngôi từ đường của thầy bị tịch thu, người chủ mới nghiễm nhiên là ông năm Phước – người em bà con tội nghiệp, ngày nào.
Tai ương như cố tình đeo đẳng gia đình cô bạn Ngự Hương của chúng ta. Sau mấy năm bị giam cầm, thầy Đạt, anh Trọng lần lượt được họ thả cho về, anh Trọng vì mang án nên mất việc, thầy Đạt đã lớn tuổi cộng thêm mấy năm lao tù vì thế sức khoẻ rất kém, nhưng vì cũng muốn đỡ đần với con cháu cho nên thầy ra ngồi bán vé số nơi đầu hẻm, còn anh Trọng thì sửa xe đạp ngoài lề đường. Trong hoàn cảnh cô liêu tịch mịch của đất nước, lúc đó đứa học trò nào gặp lại thầy cũng chảy nước mắt, chỉ biết thương thầy mà có giúp gì được đâu, chung quanh dân tình ai nấy đều khổ như nhau cực cùng đói ăn thiếu mặc đủ bề.
Cuối cùng, ba má anh Trọng lo cho vợ chồng anh cùng cháu Triết đi vượt biên. Chiếc tàu lọt được ra biển, bất ngờ lại gặp hải tặc, bọn chúng cướp của và hãm hiếp phụ nữ. Ngự Hương bị làm nhục trước mặt anh Trọng, anh không chịu nỗi nhào lại cứu vợ, tụi nó lia một dao đứt cuống họng, anh gục xuống chết ngay. Ngự Hương đau đớn sảng sốt như người điên, vùng vẫy kháng cự, tụi nó ôm người đàn bà này liệng xuống biển mất xác. Tội nghiệp bé Triết, chưa đầy mười tuổi phải chứng kiến người ta giết cha giết mẹ của mình, đứa bé này không mất trí là một kỳ tích.
Chiếc ghe bi thảm như chiếc quan tài nhấp nhô trôi nổi trên biển Đông, như có phép lạ, nó cập bến và cháu Triết được một mục sư người Mỹ nhận làm con nuôi.
Mẹ của Ngự Hương, dòng dõi hoàng phái, được tin rể và đứa con gái chết thảm, như sét đánh, bà uất hận lên cơn đau tim, không bao lâu thì qua đời. Thầy Đạt bị khủng hoảng đến ngẩn ngơ, cuối cùng nhờ những người bạn cũ vận động với các hiệp hội nhân đạo bảo lãnh thầy định cư tại Pháp.
Cháu Triết là một đứa bé rất mỏng manh so với cái thế giới rộng lớn này, và cháu là người bất hạnh thiếu thốn tình cảm, khao khát gia đình hơn bất cứ đứa trẻ nào, nhưng ai ngờ ý chí của cháu thật ghê hồn, cháu tự vượt lên số phận và hiện là một sinh viên ưu tú của trường đại học tiểu bang Michigan.
Nói về ông Năm Phước, một tay phá tan nát gia đình thầy Đạt, lại là một cán bộ “tiếp thu” thật nhanh, ông cướp nhà thầy Đạt không bao lâu thì ông được giữ chức vụ hiệu trưởng trường đại học Tổng Hợp thành phố HCM. Nghe nói ông Năm Phước đã chê ngôi từ đường cũ kỹ của thầy Đạt, gia đình ông đang “ngự” trong một toà nhà cao tầng thật lộng lẫy hiện đại của một nhà tư bản bị tịch thu.
Mai Anh lặng lẽ hút thuốc trong gian phòng ngập tràn bóng tối, hai đứa như chìm giữa đêm khuya trong không gian im ắng ngoài kia. Qua đốm lửa đỏ rực, mình thấy đôi mắt cô bạn đầm đìa nước mắt.
Trong những ngày thảng thốt đó, mạng sống của những người thua trận như chỉ mành treo chuông. Có người bạn thân rủ ba thoát đi, thoát một mình – chuyến bay chót, hình như chung chuyến với gia đình một nhân vật lẫy lừng trong ngành tình báo, ba kiên quyết lắc đầu, ba cam lòng cùng với vợ con đón đợi những điều xấu nhất. Ông nội của mình lúc đó đang nằm tại bệnh viện và yếu lắm. Tuy nhiên ông nội cứ nài ép năn nỉ đứa con trai duy nhất hãy kiếm đường ra đi. Ba chỉ vâng dạ cho ông nội yên tâm, chứ ba đâu thể nào một mình ra đi trong hoàn cảnh này. Ngày ba của mình quẩy cái túi nhẹ bổng đi trình diện ở trường Taberd là ngày ông nội qua đời. Cả nhà sợ ba đau lòng nên cố tình dấu kín. Họ đưa ba ra Bắc, ba ở tù đúng tám năm ba tháng, rồi khi được thả ba yếu lắm phải chống gậy trở về. Tuy nhiên ba còn may mắn về gặp vợ con trong khi nhiều người bạn tù của ba phải nằm lại.
Kể lại, lúc ba vừa đi tù là Thành Ủy đến tịch thu ngay ngôi nhà của gia đình. Mẹ sợ đi kinh tế mới nên dắt díu ba chị em mình về bên ngoại ở Rạch Kiến, quận Bình Chánh. Mặc dù nơi đây gần Saigon nhưng ngày trước là vùng xôi đậu, không điện, không nước, lại là vùng đất phèn nên đất khô cằn không trồng được cây ăn trái, chỉ có bờ tre bao quanh nhà với vài cây me, ô môi. Mỗi nhà đào một cái hào sâu để tắm giặt và một dãy lu dành đựng nước mưa để uống.
Trong những năm tháng không có ba ở nhà, mình mới thấy cái dũng cảm đáng kính nể của mẹ mình. Mẹ như người bị dồn tới đường cùng và sẵn sàng đương đầu, không khóc lóc than van. Là một công chức yểu điệu sống và làm việc tại Sài gòn. Bây giờ mẹ điềm nhiên xăn cao ống quần lội xuống ruộng làm cỏ lúa, cấy lúa, trồng cải, nuôi gà, nuôi heo, như một nông dân thực thụ.
Trong thời gian bốn mẹ con tá túc dưới ngôi nhà hương hỏa của ngoại, ngôi nhà mênh mông với những hàng cột bằng gỗ quí lên nước đen mun, mẹ không nệ cực nhọc ra công chăm sóc tươm tất trong ngoài và cư xử đẹp lòng bà con chòm xóm. Mẹ lại âm thầm tất tả ngược xuôi sắp xếp và nghiến răng gửi gấm cho Quỳnh Như và Tố Như đi vượt biển.
Lúc nhận được tin hai đứa em gái tới đảo bình yên, mình sững người vì thấy tóc mẹ gần như bạc trắng.
Mai Anh và mình đón buổi sáng với ly cà phê nóng hổi và một tâm hồn thời trẻ nhỏ thân tình. Ánh mặt trời nhô lên tít tắp đàng kia như mỉm cười độ lượng chào hết thảy nhân sinh. Một ngày với những rộn ràng tiếng chân khua vang của những đứa con, tụi nó bây giờ vào lứa tuổi “bỗng nhiên mà chợt lớn” như bọn mình ngày xưa đến không ngờ, mới biết chúng ta giờ bắt đầu già thật rồi.
Ngày hôm đó anh Nam đưa cả nhà đi chơi thật vui, đến những bờ hồ thật đẹp, như thầm khoe với cô bạn những thắng cảnh nổi tiếng của tiểu bang Michigan thật hiền hòa. Lúc cả nhà mướn xe đạp chạy dọc theo bờ cát có những ngọn đồi quanh co trên hòn đảo nhỏ còn giữ nguyên vẹn nét thiên nhiên, vắng bặt mọi tiếng động cơ, chỉ còn lại trong không gian hùng vĩ thơ mộng lồng lộng nắng và gió. Hai đứa ngồi riêng với nhau như cùng níu lại những giờ phút gần gũi còn lại thật hiếm hoi, cùng phóng tầm mắt ra khơi, phía xa kia cây cầu treo nổi tiếng như cọng dây mỏng manh trên vạt nước màu xanh trãi rộng tới chân trời.
Mai Anh nhắc mình xin tấm hình của gia đình Nguyệt Cầm, cô nàng đặc biệt thích thú về đứa con trai “Trời cho” của bồ, trong những mẫu chuyện về cậu bé nay tròm trèm bảy tuổi được mình kể đi kể lại cho Mai Anh nghe còn có những mẫu chuyện về ông ngoại của cháu là một trong những nhà văn nổi tiếng thời đó đã không chịu nỗi sự đói lạnh đã kiệt sức chết trong tù, trong khi bên ngoài gia đình của Nguyệt Cầm luôn luôn phải đối diện với những bất công tàn bạo, đành gạt nước mắt bỏ lại ông bố nằm quạnh hiu trên một cánh rừng hoang sơ nào đó để trốn đi ra khỏi nước. Vài năm, sau khi cuộc sống định cư ổn định và trong sự tận lực kiếm tìm, mẹ của Nguyệt Cầm đã cải táng ông cụ và ôm tro cốt của ông qua Úc để đoàn tụ cùng với con cháu. Đặc biệt cậu bé con hiếm quí muộn màng của Nguyệt Cầm được mang tên ông ngoại.
Ngày mai, hai đứa phải chia tay. Mai Anh cứ căn dặn mình đi đâu thì đi nhưng cũng nên qua Pháp thăm nhau, cũng như người cha đỡ đầu của mình là thầy Lê Bá Sằng, dạy trường đại học Minh Đức ngày xưa cứ nhắn nhủ “con gái, nên đến Paris một chuyến nghe con” khiến mình bồi hồi, cảm động, lòng tràn ngập yêu thương và thầm nghĩ: nhân gian đâu chỉ là giọt lệ, phải dành nhiều thì giờ với nhau hơn nữa, kẻo rồi, không kịp.
Và, trong đống hành lý ngổn ngang của Mai Anh, mình sẽ gửi theo vài cuốn tạp ghi, bút ký của hai bác Trà Lũ và Phan Lạc Phúc cũng không quên kèm theo vài cuốn thơ của ông Trần Vấn Lệ. Có phải đến tuổi này, chúng ta mới thấy thời gian thật gấp rút?..
Tạm biệt,
Tương Như - ( * ) bức Thuyền Nhân của họa sĩ Rừng.
- Phan Anh Dũng chuyển
- Nguồn: https://www.facebook.com/thuyvi.nguyen.3133?fref=ufi