Truyện Ngắn & Phóng Sự
CHĂN GỐI VỚI KẺ THÙ *
Chăn Gối với Kẻ Thù / Sleeping With the Enemy
Xin mời quí vị đọc một
bài viết của một cựu Sỉ Quan Hoa Kỳ đã tửng chiến đấu trên chiến
trường Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là Thượng
Nghị Sỉ Liên Bang của Hoa Kỳ. Quan điểm về cuộc chiến Việt Nam. Thú
thật, cho đến bây giờ mới thấy một người Mỹ trí thức có đầy đủ hiêu
biết về cuộc chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng kính
trọng và rất đáng đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ để cho con cháu Hoa Kỳ
được hiểu rỏ hơn cuộc chiến Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch
sử Hoa Kỳ đã thiếu dữ kiện sống để viết.
THG
***
Sleeping With the Enemy.
By James Webb,
THG chuyển ngữ
Biết
giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười
mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời
lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây
dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây
nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này,
cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn
cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những
tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và
những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm
những con vi khuẩn nầy.
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa
thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng
nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử
dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem
như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không
xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New
York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với
một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho
cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình
thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên
lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng
đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối
cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có
một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa
được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục
những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt
Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác
trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi
một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt
toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam
tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David
Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp
chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên
đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những
con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của
họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự
viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả
đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam
đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống
các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ
chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng
thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân
đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí
chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện
là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để
thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến
tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo,
189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và
Cam Bốt.
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn
những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa
Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia
nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher
Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện,
lên giọng đầy điệu bộ
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn
nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa
bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là
chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng
kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác
diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần
ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu
chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh
cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc
kéo dài việc tắm máu hiện nay.”
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân
cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của
miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị
khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành
cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu
miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ
thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng
khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc
Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần,
tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn
trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập
tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị
cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55
ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt
Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn
chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến
chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu
một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi
phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa
những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác
nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để
chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến
đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng
quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt
vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công
của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải
đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong
không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi
đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những
người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ
không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là
cách để chấm dứt cuộc chiến.
Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất
nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định
của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách
nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam
Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm
Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc
Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong
hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố
Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực
ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng
nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân
của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên
bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình
“Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc
chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu
chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm
1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh
không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó
sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một
nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ
muốn..
Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung
quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975,
được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ.
Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một
phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng
như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền
dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert
Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david
Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong
việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước
máy vi âm ông ta nói
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt
Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây
đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều
người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh
xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù
của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên
lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ
nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc
Schneider đọc bức điện tín này.
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những
người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của
năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ
là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về
chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương
của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan
nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000
người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao
có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận
của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai
đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh
miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị
giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ
trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị
mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim
Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài
công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến
binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh
có thật.
Tại sao?
Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí
tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả
thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước,
lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không
ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta
tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của
chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau
cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là
những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng
thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị
thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân
của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn
là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều
nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như
là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả
thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham
dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền
hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68
phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam
là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29
đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là
không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử
năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn
là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà
ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng
khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã
được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản
đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm
cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm
dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào
Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò
này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ
cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim
ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến
binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường
tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về
những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi
Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm
cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở
Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc
chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được
phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt
Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho
nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người
đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục
vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời
gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý
kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả
nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ
đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo
lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với
thang điếm từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được
chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên
truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống
chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến,
hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ
không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân
tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da
trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc
các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân
thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác
khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân
bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần
đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những
người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm
về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này
bị lịch sử phán xét.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà
còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh
hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không
phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn
đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu
mình như thế.
Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý
tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự
ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một
cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã
tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh
tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn
lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy
trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn
thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt
nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu
người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”
Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết
bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ
tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người
cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý
tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật
là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã
để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không
thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
http://batkhuat.net/tl-changoi-voikethu.htm
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (1)
----------------------------------------------------------------------------------
CHĂN GỐI VỚI KẺ THÙ *
Chăn Gối với Kẻ Thù / Sleeping With the Enemy
Xin mời quí vị đọc một
bài viết của một cựu Sỉ Quan Hoa Kỳ đã tửng chiến đấu trên chiến
trường Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là Thượng
Nghị Sỉ Liên Bang của Hoa Kỳ. Quan điểm về cuộc chiến Việt Nam. Thú
thật, cho đến bây giờ mới thấy một người Mỹ trí thức có đầy đủ hiêu
biết về cuộc chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng kính
trọng và rất đáng đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ để cho con cháu Hoa Kỳ
được hiểu rỏ hơn cuộc chiến Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch
sử Hoa Kỳ đã thiếu dữ kiện sống để viết.
THG
***
Sleeping With the Enemy.
By James Webb,
THG chuyển ngữ
Biết
giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười
mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời
lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây
dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây
nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này,
cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn
cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những
tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và
những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm
những con vi khuẩn nầy.
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa
thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng
nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử
dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem
như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không
xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New
York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với
một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho
cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình
thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên
lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng
đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối
cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có
một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa
được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục
những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt
Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác
trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi
một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt
toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam
tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David
Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp
chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên
đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những
con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của
họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự
viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả
đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam
đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống
các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ
chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng
thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân
đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí
chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện
là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để
thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến
tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo,
189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và
Cam Bốt.
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn
những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa
Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia
nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher
Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện,
lên giọng đầy điệu bộ
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn
nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa
bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là
chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng
kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác
diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần
ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu
chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh
cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc
kéo dài việc tắm máu hiện nay.”
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân
cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của
miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị
khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành
cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu
miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ
thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng
khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc
Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần,
tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn
trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập
tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị
cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55
ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt
Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn
chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến
chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu
một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi
phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa
những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác
nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để
chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến
đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng
quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt
vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công
của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải
đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong
không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi
đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những
người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ
không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là
cách để chấm dứt cuộc chiến.
Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất
nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định
của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách
nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam
Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm
Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc
Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong
hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố
Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực
ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng
nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân
của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên
bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình
“Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc
chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu
chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm
1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh
không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó
sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một
nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ
muốn..
Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung
quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975,
được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ.
Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một
phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng
như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền
dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert
Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david
Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong
việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước
máy vi âm ông ta nói
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt
Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây
đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều
người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh
xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù
của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên
lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ
nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc
Schneider đọc bức điện tín này.
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những
người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của
năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ
là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về
chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương
của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan
nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000
người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao
có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận
của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai
đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh
miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị
giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ
trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị
mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim
Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài
công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến
binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh
có thật.
Tại sao?
Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí
tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả
thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước,
lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không
ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta
tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của
chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau
cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là
những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng
thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị
thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân
của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn
là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều
nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như
là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả
thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham
dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền
hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68
phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam
là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29
đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là
không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử
năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn
là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà
ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng
khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã
được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản
đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm
cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm
dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào
Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò
này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ
cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim
ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến
binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường
tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về
những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi
Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm
cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở
Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc
chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được
phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt
Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho
nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người
đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục
vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời
gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý
kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả
nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ
đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo
lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với
thang điếm từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được
chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên
truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống
chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến,
hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ
không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân
tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da
trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc
các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân
thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác
khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân
bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần
đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những
người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm
về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này
bị lịch sử phán xét.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà
còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh
hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không
phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn
đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu
mình như thế.
Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý
tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự
ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một
cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã
tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh
tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn
lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy
trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn
thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt
nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu
người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”
Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết
bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ
tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người
cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý
tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật
là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã
để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không
thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
http://batkhuat.net/tl-changoi-voikethu.htm
Tân Sơn Hòa chuyển