Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
Tác Giả: Hoàng Yên Lưu
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai vĩ nhân trong lịch sử Việt Nam cận
đại và về mặt bằng hữu họ là hai kẻ sĩ gắn bó, không những vì thân tình
mà còn vì lòng kính trọng, tâm huyết và tài năng của nhau.
Về
tuổi tác, Phan Bội Châu sinh 1867 lớn hơn Phan Chu Trinh sinh 1872. Họ
cùng là nho gia khoa bảng, cụ Sào Nam đậu đầu kỳ thi hương, còn cụ Tây
Hồ đậu Phó bảng. Cả hai cùng là tinh hoa của miền địa linh nhân kiệt,
của vùng quê nghèo đất cày lên sỏi đá. Họ lại gần như đồng thời dấn thân
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và dùng tư tưởng, văn tài để tuyên
truyền cho chủ nghĩa quốc gia.
Trên đường tranh đấu họ đã từng tìm gặp nhau ở Nhật và ở Tàu, trước khi rẽ sang những con đường khác nhau để tới cùng mục đích.
Phan
Bội Châu mỗi khi nhắc tới Phan Chu Trinh trong Tự phán (Tức Phan Bội
Châu niên biểu) đều với những lời trân trọng nhất. Cho dù lập trường của
họ có chỗ khác nhau và có thể vì sự khác biệt này ảnh hưởng không nhỏ
tới đại cuộc, nhưng cụ Sào Nam luôn luôn giữ thái độ bình tĩnh ngỏ lời
“cầu cứu với cụ Tây hồ” để hóa giải mâu thuẫn.
Trong Tự phán cụ phân trần trước lập luận cho rằng cụ quá bảo hoàng:
“Nguyên
trước kia tôi với cụ Tiểu La đối với ông Kỳ ngoại hầu, vốn muốn lợi
dụng quân chủ để nghinh hợp nhân tâm, còn mục đích thực thì tôi cốt ở
khôi phục quốc gia mà thôi. Vì danh nghĩa ấy, sở dĩ sau khi tôi xuất
dương, người phụ họa khá đông. Từ khi cụ Tây hồ ở Nhật bản về xướng mạnh
lên thuyết: ‘Tôn dân đổ vua’, sang chính sách ‘Ỷ Pháp cầu tiến bộ’
chuyên công kích quân chủ mà không nói đến người Pháp, dư luận một lúc
thốt nhiên phân vân, cơ hồ nổi lên đảng tranh.”
Trong một lá thư
gửi cụ Tây Hồ, cụ Sào Nam khuyên người đồng chí trẻ tuổi cấp tiến của
mình bằng những lời chân thành rằng nên xét rõ tình cảnh dân chúng Việt
Nam những năm đầu thế kỷ 20 có thích hợp với chủ nghĩa dân chủ Âu Tây
hay không? Trong khi một số người Việt thời ấy còn có khuynh hướng tôn
quân, ảnh hưởng của Nho giáo hủ bại, dư âm của các phong trào Cần vương,
Văn thân còn sâu, liệu họ có tán thành một chủ trương là “phế vua” quá
mới mẻ hay không?
Phan Sào Nam phân tích với cụ Tây Hồ và xưng một cách trân trọng là “tôn huynh”:
“Nhân
dân Việt Nam so với Âu Tây hãy còn kém xa lắm, như người còn đau, sao
mang nổi gánh nặng. Nhân dân ngu muội đói khổ, nay mình đem những lý
luận cao siêu mà áp dụng không sao tránh khỏi những việc lảo đảo ngả
nghiêng!
“Nay đưa ra một lý thuyết mà người ta chưa biết đầu biết
đuôi, chưa rõ phía nam phía bắc, chỉ hô lên một tiếng đã dễ kiếm được
mấy người hưởng ứng cho? Tình trạng như thế việc hợp quần còn khó lắm
tôn huynh ạ! Rồi sẽ vì ý kiến xung đột, hành động mâu thuẫn nhau mà thù
ngoài chưa diệt, nội bộ đã chống nhau. Ôi dân chủ. “Dân” không còn nữa
thì chủ vào đâu? Lúc bấy giờ tôn huynh có bầu nhiệt huyết cũng không còn
chỗ thi thố nữa.”
Trong khi ấy Phan Chu Trinh cứng rắn hơn với
chủ trương tôn quân và cầu ngoại viện của Phan Bội Châu dù trong thâm
tâm vẫn trọng người đàn anh cả đời hy sinh cho lý tưởng cao đẹp.
Nhà
nghiên cứu Đào Văn Hội trong Ba nhà chí sĩ họ Phan, khi bàn tới sự khác
biệt chính kiến giữa hai chí sĩ đã dẫn tài liệu của Anh Vũ trong bài
Thuyết Pháp-Việt đề huề với hai cụ Phan Tây Hồ và Phan Sào Nam đăng trên
tờ Lạc Việt số 14 tháng 12-1948) mà phần phân tích trong đó có nhiều
điểm xác đáng như sau:
“Chủ trương trái nghịch giữa hai cụ Phan.
Trong giới chánh trị cách mạng tiền bối, hai bực chí sĩ được toàn quốc
ngưỡng vọng hơn hết là cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh và cụ Sào Nam Phan Bội
Châu. Danh vọng và thế lực của hai cụ tương đương nhau trong hàng ngũ sĩ
phu cũng như ở quần chúng, nhưng chủ trương của hai cụ thật là trái
nghịch nhau hẳn.
Cụ Tây Hồ là đệ tử trung thành của chủ nghĩa dân chủ.
Cụ Sào Nam thì theo quốc gia thuần túy thâm nhiễm tư tưởng bảo hoàng.
Cụ
Tây Hồ chủ trương ôn hòa cải cách và tin (thực ra chỉ là sách lược giả
tin để có thể tuyên truyền cho chủ nghĩa quốc gia) ở người Pháp có khả
năng khai hóa dân tộc VN, dìu dắt VN lần bước đến trình độ dân chủ để tự
giải thoát ách nô lệ.
Cụ Sào Nam thì chủ trương chống thực dân,
bằng cách mạng bạo động và cầu ngoại viện (Trung quốc và Nhật bản) để
khôi phục chủ quyền cho dân tộc.”
Đi sâu hơn nữa, sự khác biệt
giữa chính kiến của hai chí sĩ cùng là lãnh tụ phong trào giải phóng dân
tộc hồi đầu thế kỷ 20 đã thấy rõ:
Cụ Tây Hồ chủ trương phải lật
đổ chế độ phong kiến hủ bại trước vì thực dân dựa vào chế độ này để cai
trị dân ta và “Trước phải dạy dân cho khôn rồi sau này có muốn chi hãy
muốn. Dân còn ngu muội thì dầu có viện trợ nước ngoài đuổi Pháp ra khỏi
nước nhà gỡ ách nô lệ, tạo nên độc lập đi nữa thì cũng chẳng ích gì mà
không khéo còn e bị cảnh “dịch chủ tái nô” tai hại hơn gấp bội.”
Cụ
Sào Nam thì tin rằng chưa thể hủy bỏ chế độ quân chủ ngay được, mà dùng
nó để chính danh, đồng thời với việc vận động Đông du để có thành phần
trí thức tâm huyết làm nòng cốt cho phong trào, cầu ngoại viện, tuyên
truyền trong nước, từ đó có thực lực cởi ách nô lệ cho đồng bào và khôi
phục độc lập cho Tổ quốc.
Xem ra tuy mỗi người một con đường nhưng cùng chung một tâm nguyện cứu quốc và cách mạng quốc gia.
Vì
không hợp chủ trương, hai nhà cách mạng sau vài lần hội kiến bàn định
phương châm cứu quốc, bèn tách ra mỗi người đi mỗi ngả, nhưng đồng theo
tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ôm ấp một hoài bão “Cứu quốc” cho
đến ngày cuối cùng của cuộc đời.
Cụ Phan Sào Nam từ 1904 giã từ
quê quán Nghệ An phò Kỳ ngoại hầu Cường Để xuất dương, rồi sang Nhật,
sang Tàu, qua Xiêm… trải mấy mươi năm bôn ba hải ngoại, bất chấp ngục tù
và án chém, đi khắp đó đây mưu đồ phục quốc cho tới khi bị Phắp bắt cóc
an trí ở Huế vào 1925.
Cụ Tây Hồ bỏ quan, cùng các chí sĩ Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc kháng nam du gây phong trào Duy tân, từng bị tù Côn
Đảo vào 1908 về vụ kháng thuế ở Quảng Nam, sau đó sang Pháp tiếp tục đề
xướng tư trào dân chủ và canh tân xứ sở cho tới khi chết vào 1926.
Hai
chiến lược gia đều nặng lòng yêu nước, trong tâm tư đều nghĩ tới tình
đồng chí và muốn được tái ngộ sau hơn một thập niên xa cách nhưng tiếc
thay giấc mộng của họ không thành.
Cụ Sào Nam bị bắt về nước cuối 1925, ra trước hội đồng đề hình rồi được ân xá, giam lỏng ở Huế trọn đời.
Ngày nay xét lại chủ trương mà các nhà ái quốc của ta hồi đầu thế kỷ tin rằng:
Nhật là bạn, Pháp là thầy
Túi khôn phải học, nghề hay phải tìm!
Xem
ra đường lối trên vô cùng chính xác. Đó không phải là chủ trương tin
cậy một cách mù quáng vào người Pháp cũng như người Nhật. Thực vậy bước
đầu dân ta tiếp xúc với văn minh Âu Tây trực tiếp qua Pháp nên không lợi
dụng Pháp để học hỏi khoa học, kỹ thuật… thì tìm học nơi nào?
Ngày
đó Nhật là một cường quốc ở Á Châu, nếu muốn tranh thủ độc lập thì trên
bình diện quốc tế ta cần phải có Nhật hỗ trợ ít ra về mặt ngoại giao.
Tranh luận “cấp tiến, bảo thủ” rồi ra kết thúc và còn lại là tình đồng chí thiêng liêng.
Cụ
Tây Hồ ở bên Pháp về đến Sài Gòn ít lâu thì mang bệnh, muốn ra Huế để
đàm luận với cụ Sào Nam nhưng vì bệnh không đi được. Cụ Sào Nam lại cũng
không thể vào Sài Gòn thăm bạn, vì người Pháp cấm đi ra khỏi thành Huế.
Đến
tháng hai năm Bính Dần (1926), Tây Hồ tiên sinh mất tại Sài Gòn. Trong
lúc đó vua Khải Định cũng vừa mới thăng hà, con là Đông cung Thái tử
Vĩnh Thụy đang học bên Pháp chuẩn bị xuống tàu về nước nối ngôi, mở kỷ
nguyên Bảo Đại.
Bởi có những tình cảnh éo le ấy, câu đối ông Phan Khôi viếng cụ Tây Hồ, thật là tả chân, tả tình đều khéo:
Âu Châu vạn lý quy, vị dĩ Sào Nam mưu nhất diện,
Bính Dần nhị nguyệt tốt, bất tri Bảo Đại hữu nguyên niên.
Nghĩa là:
Bên Tây muôn dặm trở về, chưa kịp cùng Sào Nam hội diện,
Năm dần tháng hai nhắm mặt, biết đâu có Bảo Đại kỷ nguyên.
Mười
năm sau cái chết của Phan Chu Trinh, vào 26 tháng 3, 1936, lúc này Cụ
Sào Nam đã già yếu sau chục năm bị giam lỏng ở Huế, đã nhớ tới bạn hiền
và nhỏ lệ khóc thương trong một bài thơ có những câu sau đây:
Tốt nghiệp“tù” chí khí vẫn ngang tàng
Cỡi sóng bạc băng ngàn qua Pháp quốc
Cờ xã hội những toan lên thẳng bước
Gánh giang sơn chẳng chịu trút nhường ai
Đau đớn thay Trời chẳng chiều người
Người bước tới mà Trời giằng kéo lại
Công nghiệp sống chưa ra vòng thất bại
Nhớ bạn xưa khôn nỡ khóc thầm
“Mấy hàng chữ gửi thốn tâm” cùng thiên cổ
Kẻ tiền đạo lấy ai người hậu lộ?
Thập châu niên ngộ thập châu niên hoài!
Khóc ông, ông khóc ai ai?
Tấm lòng của hai quốc sĩ đã xóa bỏ mọi mâu thuẫn về chính kiến giữa họ.
Hoàng Yên Lưu
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Lối Xưa Xe Ngựa Hồn Thu Thảo" - by Nguyễn Thị Chân Quỳnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
Tác Giả: Hoàng Yên Lưu
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai vĩ nhân trong lịch sử Việt Nam cận
đại và về mặt bằng hữu họ là hai kẻ sĩ gắn bó, không những vì thân tình
mà còn vì lòng kính trọng, tâm huyết và tài năng của nhau.
Về
tuổi tác, Phan Bội Châu sinh 1867 lớn hơn Phan Chu Trinh sinh 1872. Họ
cùng là nho gia khoa bảng, cụ Sào Nam đậu đầu kỳ thi hương, còn cụ Tây
Hồ đậu Phó bảng. Cả hai cùng là tinh hoa của miền địa linh nhân kiệt,
của vùng quê nghèo đất cày lên sỏi đá. Họ lại gần như đồng thời dấn thân
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và dùng tư tưởng, văn tài để tuyên
truyền cho chủ nghĩa quốc gia.
Trên đường tranh đấu họ đã từng tìm gặp nhau ở Nhật và ở Tàu, trước khi rẽ sang những con đường khác nhau để tới cùng mục đích.
Phan
Bội Châu mỗi khi nhắc tới Phan Chu Trinh trong Tự phán (Tức Phan Bội
Châu niên biểu) đều với những lời trân trọng nhất. Cho dù lập trường của
họ có chỗ khác nhau và có thể vì sự khác biệt này ảnh hưởng không nhỏ
tới đại cuộc, nhưng cụ Sào Nam luôn luôn giữ thái độ bình tĩnh ngỏ lời
“cầu cứu với cụ Tây hồ” để hóa giải mâu thuẫn.
Trong Tự phán cụ phân trần trước lập luận cho rằng cụ quá bảo hoàng:
“Nguyên
trước kia tôi với cụ Tiểu La đối với ông Kỳ ngoại hầu, vốn muốn lợi
dụng quân chủ để nghinh hợp nhân tâm, còn mục đích thực thì tôi cốt ở
khôi phục quốc gia mà thôi. Vì danh nghĩa ấy, sở dĩ sau khi tôi xuất
dương, người phụ họa khá đông. Từ khi cụ Tây hồ ở Nhật bản về xướng mạnh
lên thuyết: ‘Tôn dân đổ vua’, sang chính sách ‘Ỷ Pháp cầu tiến bộ’
chuyên công kích quân chủ mà không nói đến người Pháp, dư luận một lúc
thốt nhiên phân vân, cơ hồ nổi lên đảng tranh.”
Trong một lá thư
gửi cụ Tây Hồ, cụ Sào Nam khuyên người đồng chí trẻ tuổi cấp tiến của
mình bằng những lời chân thành rằng nên xét rõ tình cảnh dân chúng Việt
Nam những năm đầu thế kỷ 20 có thích hợp với chủ nghĩa dân chủ Âu Tây
hay không? Trong khi một số người Việt thời ấy còn có khuynh hướng tôn
quân, ảnh hưởng của Nho giáo hủ bại, dư âm của các phong trào Cần vương,
Văn thân còn sâu, liệu họ có tán thành một chủ trương là “phế vua” quá
mới mẻ hay không?
Phan Sào Nam phân tích với cụ Tây Hồ và xưng một cách trân trọng là “tôn huynh”:
“Nhân
dân Việt Nam so với Âu Tây hãy còn kém xa lắm, như người còn đau, sao
mang nổi gánh nặng. Nhân dân ngu muội đói khổ, nay mình đem những lý
luận cao siêu mà áp dụng không sao tránh khỏi những việc lảo đảo ngả
nghiêng!
“Nay đưa ra một lý thuyết mà người ta chưa biết đầu biết
đuôi, chưa rõ phía nam phía bắc, chỉ hô lên một tiếng đã dễ kiếm được
mấy người hưởng ứng cho? Tình trạng như thế việc hợp quần còn khó lắm
tôn huynh ạ! Rồi sẽ vì ý kiến xung đột, hành động mâu thuẫn nhau mà thù
ngoài chưa diệt, nội bộ đã chống nhau. Ôi dân chủ. “Dân” không còn nữa
thì chủ vào đâu? Lúc bấy giờ tôn huynh có bầu nhiệt huyết cũng không còn
chỗ thi thố nữa.”
Trong khi ấy Phan Chu Trinh cứng rắn hơn với
chủ trương tôn quân và cầu ngoại viện của Phan Bội Châu dù trong thâm
tâm vẫn trọng người đàn anh cả đời hy sinh cho lý tưởng cao đẹp.
Nhà
nghiên cứu Đào Văn Hội trong Ba nhà chí sĩ họ Phan, khi bàn tới sự khác
biệt chính kiến giữa hai chí sĩ đã dẫn tài liệu của Anh Vũ trong bài
Thuyết Pháp-Việt đề huề với hai cụ Phan Tây Hồ và Phan Sào Nam đăng trên
tờ Lạc Việt số 14 tháng 12-1948) mà phần phân tích trong đó có nhiều
điểm xác đáng như sau:
“Chủ trương trái nghịch giữa hai cụ Phan.
Trong giới chánh trị cách mạng tiền bối, hai bực chí sĩ được toàn quốc
ngưỡng vọng hơn hết là cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh và cụ Sào Nam Phan Bội
Châu. Danh vọng và thế lực của hai cụ tương đương nhau trong hàng ngũ sĩ
phu cũng như ở quần chúng, nhưng chủ trương của hai cụ thật là trái
nghịch nhau hẳn.
Cụ Tây Hồ là đệ tử trung thành của chủ nghĩa dân chủ.
Cụ Sào Nam thì theo quốc gia thuần túy thâm nhiễm tư tưởng bảo hoàng.
Cụ
Tây Hồ chủ trương ôn hòa cải cách và tin (thực ra chỉ là sách lược giả
tin để có thể tuyên truyền cho chủ nghĩa quốc gia) ở người Pháp có khả
năng khai hóa dân tộc VN, dìu dắt VN lần bước đến trình độ dân chủ để tự
giải thoát ách nô lệ.
Cụ Sào Nam thì chủ trương chống thực dân,
bằng cách mạng bạo động và cầu ngoại viện (Trung quốc và Nhật bản) để
khôi phục chủ quyền cho dân tộc.”
Đi sâu hơn nữa, sự khác biệt
giữa chính kiến của hai chí sĩ cùng là lãnh tụ phong trào giải phóng dân
tộc hồi đầu thế kỷ 20 đã thấy rõ:
Cụ Tây Hồ chủ trương phải lật
đổ chế độ phong kiến hủ bại trước vì thực dân dựa vào chế độ này để cai
trị dân ta và “Trước phải dạy dân cho khôn rồi sau này có muốn chi hãy
muốn. Dân còn ngu muội thì dầu có viện trợ nước ngoài đuổi Pháp ra khỏi
nước nhà gỡ ách nô lệ, tạo nên độc lập đi nữa thì cũng chẳng ích gì mà
không khéo còn e bị cảnh “dịch chủ tái nô” tai hại hơn gấp bội.”
Cụ
Sào Nam thì tin rằng chưa thể hủy bỏ chế độ quân chủ ngay được, mà dùng
nó để chính danh, đồng thời với việc vận động Đông du để có thành phần
trí thức tâm huyết làm nòng cốt cho phong trào, cầu ngoại viện, tuyên
truyền trong nước, từ đó có thực lực cởi ách nô lệ cho đồng bào và khôi
phục độc lập cho Tổ quốc.
Xem ra tuy mỗi người một con đường nhưng cùng chung một tâm nguyện cứu quốc và cách mạng quốc gia.
Vì
không hợp chủ trương, hai nhà cách mạng sau vài lần hội kiến bàn định
phương châm cứu quốc, bèn tách ra mỗi người đi mỗi ngả, nhưng đồng theo
tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ôm ấp một hoài bão “Cứu quốc” cho
đến ngày cuối cùng của cuộc đời.
Cụ Phan Sào Nam từ 1904 giã từ
quê quán Nghệ An phò Kỳ ngoại hầu Cường Để xuất dương, rồi sang Nhật,
sang Tàu, qua Xiêm… trải mấy mươi năm bôn ba hải ngoại, bất chấp ngục tù
và án chém, đi khắp đó đây mưu đồ phục quốc cho tới khi bị Phắp bắt cóc
an trí ở Huế vào 1925.
Cụ Tây Hồ bỏ quan, cùng các chí sĩ Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc kháng nam du gây phong trào Duy tân, từng bị tù Côn
Đảo vào 1908 về vụ kháng thuế ở Quảng Nam, sau đó sang Pháp tiếp tục đề
xướng tư trào dân chủ và canh tân xứ sở cho tới khi chết vào 1926.
Hai
chiến lược gia đều nặng lòng yêu nước, trong tâm tư đều nghĩ tới tình
đồng chí và muốn được tái ngộ sau hơn một thập niên xa cách nhưng tiếc
thay giấc mộng của họ không thành.
Cụ Sào Nam bị bắt về nước cuối 1925, ra trước hội đồng đề hình rồi được ân xá, giam lỏng ở Huế trọn đời.
Ngày nay xét lại chủ trương mà các nhà ái quốc của ta hồi đầu thế kỷ tin rằng:
Nhật là bạn, Pháp là thầy
Túi khôn phải học, nghề hay phải tìm!
Xem
ra đường lối trên vô cùng chính xác. Đó không phải là chủ trương tin
cậy một cách mù quáng vào người Pháp cũng như người Nhật. Thực vậy bước
đầu dân ta tiếp xúc với văn minh Âu Tây trực tiếp qua Pháp nên không lợi
dụng Pháp để học hỏi khoa học, kỹ thuật… thì tìm học nơi nào?
Ngày
đó Nhật là một cường quốc ở Á Châu, nếu muốn tranh thủ độc lập thì trên
bình diện quốc tế ta cần phải có Nhật hỗ trợ ít ra về mặt ngoại giao.
Tranh luận “cấp tiến, bảo thủ” rồi ra kết thúc và còn lại là tình đồng chí thiêng liêng.
Cụ
Tây Hồ ở bên Pháp về đến Sài Gòn ít lâu thì mang bệnh, muốn ra Huế để
đàm luận với cụ Sào Nam nhưng vì bệnh không đi được. Cụ Sào Nam lại cũng
không thể vào Sài Gòn thăm bạn, vì người Pháp cấm đi ra khỏi thành Huế.
Đến
tháng hai năm Bính Dần (1926), Tây Hồ tiên sinh mất tại Sài Gòn. Trong
lúc đó vua Khải Định cũng vừa mới thăng hà, con là Đông cung Thái tử
Vĩnh Thụy đang học bên Pháp chuẩn bị xuống tàu về nước nối ngôi, mở kỷ
nguyên Bảo Đại.
Bởi có những tình cảnh éo le ấy, câu đối ông Phan Khôi viếng cụ Tây Hồ, thật là tả chân, tả tình đều khéo:
Âu Châu vạn lý quy, vị dĩ Sào Nam mưu nhất diện,
Bính Dần nhị nguyệt tốt, bất tri Bảo Đại hữu nguyên niên.
Nghĩa là:
Bên Tây muôn dặm trở về, chưa kịp cùng Sào Nam hội diện,
Năm dần tháng hai nhắm mặt, biết đâu có Bảo Đại kỷ nguyên.
Mười
năm sau cái chết của Phan Chu Trinh, vào 26 tháng 3, 1936, lúc này Cụ
Sào Nam đã già yếu sau chục năm bị giam lỏng ở Huế, đã nhớ tới bạn hiền
và nhỏ lệ khóc thương trong một bài thơ có những câu sau đây:
Tốt nghiệp“tù” chí khí vẫn ngang tàng
Cỡi sóng bạc băng ngàn qua Pháp quốc
Cờ xã hội những toan lên thẳng bước
Gánh giang sơn chẳng chịu trút nhường ai
Đau đớn thay Trời chẳng chiều người
Người bước tới mà Trời giằng kéo lại
Công nghiệp sống chưa ra vòng thất bại
Nhớ bạn xưa khôn nỡ khóc thầm
“Mấy hàng chữ gửi thốn tâm” cùng thiên cổ
Kẻ tiền đạo lấy ai người hậu lộ?
Thập châu niên ngộ thập châu niên hoài!
Khóc ông, ông khóc ai ai?
Tấm lòng của hai quốc sĩ đã xóa bỏ mọi mâu thuẫn về chính kiến giữa họ.
Hoàng Yên Lưu